Việt Cộng – Việt Cộng
Lê Dinh
Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu
xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai
cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy
đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển
khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm
và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay.
Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói “Mày là thằng Việt Cộng” thì có nghĩa người đó
là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta,
người ta không giận bằng chửi “Mày là thằng Việt Cộng”. Như vậy đủ biết hai chữ
Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi. Mà nghĩ cũng đúng thôi.
Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu học Vĩnh Lợi, cách làng
Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa
tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh
Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục
trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chợ bán 2
chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn
nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một
người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi
lại, quát to: Đứng lại! Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa
sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra
chợ để bán cho Tây không? (Lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu
cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó). Mẹ tôi run run nói:
- Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn.
- Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao?
- Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy.
- Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị Ủy ban tịch
thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ bắn
bỏ.
- Dạ mẹ con tôi đội ơn ông.
Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục. Sao
nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới
biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn
rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt
thời bé thơ cho đến khi khôn lớn.
Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một
tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Tôi còn nhớ rất rõ, ở tuổi 11, 12, tôi
say mê những bài hát êm đềm, như:
“Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo lắng suối reo, ngàn thông reo
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo đoàn quân réo, đạn bay vèo…”
Hay hùng dũng, như:
“ Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến…”
Hoặc:
“Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về…”
Và còn nữa:
“Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng…”
Hay là những bài thơ mà giờ đây hơn 60 năm qua, tôi vẫn còn nguyên trong trí
nhớ:
“Tôi muốn tôi là một cứu thương
Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường
Nằm lăn trên lá hay rơm ủ
Băng trắng đầu mình những vết thương”
Thật là lãng mạn, thật là dễ thương. Làm sao mà tôi không bị quyến rũ bởi nét
nhạc, lời thơ như vậy được. Cho nên tôi có ý nghĩ là mình sẽ phải theo mấy anh
lớn để được vào bưng, được nghe tiếng suối reo, ngàn thông reo, được nằm lăn
trên lá hay rơm ủ, được nữ y tá săn sóc vết thương… Rồi một ngày nọ, tôi được
theo đoàn biểu tình đi bộ từ làng Vĩnh Hựu của tôi lên tới tỉnh Gò Công, cách
xa làng tôi 14 cây số, để gọi là… ủng hộ Việt Minh. Thức dậy từ 3 giờ khuya,
chuẩn bị cơm vắt muối mè, tập hợp lại rồi tháp tùng đoàn người, đi theo nhịp
trống quân hành “rập rập thùng, rập rập thùng”… lội bộ suốt 14 cây số, nhờ vừa
đi vừa hát “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng”, cho nên thằng con nít
11 tuổi như tôi, khi đến nơi, nào có thấy chút mệt mỏi gì đâu? Nhưng sau lần gặp
gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn
cha mẹ để ra bưng biền.
Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe
đến nó. Năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng này mà
phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vào miền Nam xa
lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng. Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng này mà
hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa
loài quỷ dữ. Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng “Việt Cộng về” hay “Mấy
ổng về” là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố
để trốn khỏi bọn Việt Cộng. Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận
lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp
mô, đặt mìn, phá cầu… Còn Việt Cộng ngày nay thì ngoài tham nhũng còn tội bán
nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác. Việt Cộng ngày nay bán
rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu, Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn
nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm trước thằng Tàu như sợ ông nội, ông cố
của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán xâm lăng.
Mấy ổng về
Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên như Nguyễn Tấn Dũng,
Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng nghĩ sao – nhưng không biết những tên này có biết
suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết
vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với
mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao gần cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi
mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bỏ chạy nữa,
cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao? Chúng không tự đặt câu
hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi
nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc
tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để
rời khỏi Saigon tháng tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biển lên
đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ?
Mình cũng là người như họ, đầu, mắt tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ
mình mà chạy hết như thế? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì đâu?
Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng
còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa. Nhìn lại, từ cái thời bé thơ, thuở mà mẹ con tôi
đem hai chục trứng gà ra chợ bán để có tiền mua thức ăn cho gia đình, đến ngày
nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi vẫn cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Từ những việc
bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó, cho đến những vụ lường gạt,
gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay, nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng
đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ
chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì
chỉ hại một người thôi. Còn Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất
đai, sông biển, núi rừng không còn, nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn
thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là Việt Cộng tàn phá cả đạo đức,
dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế
hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…
Nhưng như vậy cũng chưa
đủ. Những nguời đã quá sợ chúng mà bỏ xứ ra đi, để xứ cho chúng ở cũng chưa
được yên thân. Chúng còn cho tay chân bộ hạ, núp bóng dưới danh nghĩa này, danh
nghĩa nọ, chạy theo ra ngọai quốc để quyết hành hạ những người tỵ nạn Cộng Sản
này cho đủ… 36 kiểu của chúng. Thật trời không dung, đất không tha. Ngày xưa,
chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam
thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho
đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy “biết tàng hình” là gì, chưa được nhìn chiếc
đồng hồ “12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái” là gì, không hiểu cái bồn cầu “để
rửa rau” hay để làm gì, trong khi miến Nam lúc đó đã là một trong những quốc
gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành chủ nghĩa Cộng
sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam. Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng
rượt theo ra đến ngoại quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ
chúng mà bỏ chạy 36 năm trước.
Nếu tôi có làm anh muôn
vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi,
thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng
không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin
đừng bảo tôi là Việt Cộng. Mày là thằng “Việt Cộng”, hai tiếng này nặng lắm,
anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thật nặng, đó là
tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiếng chửi đương thời. Vì hai
tiếng này đồng nghĩa với ác nhân, hung đảng, ác quỷ, ác tinh, man di, mọi rợ,
lưu manh, gian xảo, côn đồ, thảo khấu…, loại quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn
trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.
Lê Dinh
Những sự thật cần phải
biết (phần 13): Những kẻ cướp ngày
Trong “Bản cáo trạng tội ác của cộng
sản Việt Nam và Hồ Chí Minh” phần 5 tôi đã gửi tới bạn đọc tội
ác của cộng sản trong việc cướp tài sản của đồng bào thông qua đánh tư sản hoặc
đẩy đi vùng kinh tế mới. Đó là bản cáo trạng nên sự việc đó phải thu gọn để gửi
tới các cơ quan như LHQ, tòa án hình sự quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này.
Tôi xin trình bày cụ thể những âm mưu của đảng và điểm mặt những kẻ chủ mưu
cũng như trực tiếp điều hành cộm cán.
Sau khi đánh cho “Mỹ cút – Ngụy nhào” để đến nỗi bà Dương Thu
Hương – một cán binh theo đoàn quân vào Sài Gòn đã phải thốt lên “kẻ chiến
thắng là kẻ man rợ” thì đảng cộng sản bắt đầu thực hiện chính sách cướp ngày
của mình. Đứng đầu chủ mưu cũng như thực hiện âm mưu của đảng cộng sản là Đỗ
Mười, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và tầng dưới là Võ Văn Kiệt, Nguyễn
Tấn Dũng… Tất cả chỉ một mục tiêu đó là đem của cải của người dân Miền Nam về
miền Bắc làm của cải cho đảng mà ngay chính nhân dân Miền Bắc cũng không được
thừa hưởng. Trong cuốn hồi ký “Đại Học Máu” của Hà Thúc Sinh đã mô tả
sau năm 1975, mặc dù cướp được kho thuốc khổng lồ của VNCH nhưng người dân Miền
Nam, Miền Bắc và cả bộ đội cộng sản cũng không có thuốc để dùng đành chờ chết
trước những căn bệnh rất đơn giản như kiết lỵ. . trong khi đó đảng lại viện trợ
cho một nước Venezuela xa xôi mấy tầu thuốc loan báo trên đài như một hành động
anh hùng của đảng. Những kẻ cướp ngày của chính nhân dân Việt Nam đã dùng chính
tài sản cướp được của nhân dân để vinh thân phì gia và cũng đồng thời tô điểm
cho bộ mặt toàn son phấn rẻ tiền của đảng cộng sản.
I. Cướp Tài sản của nhân
dân và đẩy dân đi “kinh tế mới”:
Để cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành
chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ
“đánh gian thương”, “tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị cướp nhà
giao cho cán bộ, bị mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết quả X-2 và X-3,
với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ. . . thu được khoảng hơn 4. 000
kg vàng, gần 1. 200. 000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết.
Từ chiếc xe hơi,TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và
tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế
thải. Xin quý vị theo dõi những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.
Thứ nhất, trong cuốn sách “Bên
thắng cuộc” của tác giả Huy Đức có đề cập đến chiến dịch cướp bóc này. Tác giả
Huy Đức đã viết ở Chương iii - Đánh tư sản như sau: “Sau khi hàng trăm ngàn
binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan
thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh
tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư
sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà
doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành
phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu
cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải
vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung
cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê... ”117.
Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên
đánh đợt đầu đã bị bắt.
Rồi cũng chính Huy Đức - một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm:
“Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của
Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng
lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục
ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.
000 con gà, thu hoạch 4. 000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang
nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai
ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt
ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị
trốn.”
Ngoài bắt bớ ra, nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách
đổi tiền để vơ vét tiền vào túi dưới hình thức: cướp trắng. Tác giả Huy Đức mô
tả sự kiện đổi tiển như sau: “Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư
sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính
trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến
công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22
và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu
cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền
tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường,
đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy
lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián
điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ
cho đổi một số tiền hạn chế.
Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100. 000 đồng tiền “Chánh quyền
Sài Gòn cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới
Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được
đổi mỗi người 15. 000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải
được đổi 100. 000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100. 000 đến 500.
000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20. 000, số còn lại nộp cho ban
đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia
đình nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành
tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam.”
Song song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp
dụng biện pháp “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu
tả như sau: “Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản
giàu có nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh.
Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch
mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông
Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.” [1].
Thứ hai, trong lịch sử thì sự
kiện vơ vét tiền của nhân dân sau năm 1975 ở Việt Nam không phải là lần đầu
tiên. Lần đầu tiên phải là cuộc cải cách ruộng đất vì theo thống kê chính thức
của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai)
cho biết là đã có 172. 008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong
đó có 123. 266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Lần thứ hai này, đánh
“tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng triệu người, đuổi người dân đi “kinh tế
mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị thiệt hại kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra
nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch sử nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn
người bỏ mạng ngoài biển khơi.
Trên báo tuổi trẻ online của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có
bài viết về một người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân
Miền Nam. Bài viết có đoạn trích như sau: “Sau tháng 4-1975, nhà báo Đinh
Phong cùng nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những tổ công tác
làm công việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài Gòn ở chợ Bến Thành,
chợ Tạ Thu Thâu... Đó là một thời điểm khó quên nhưng ai cũng muốn quên. Ông
Đinh Phong (ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP. HCM, nguyên phó giám đốc Đài truyền hình
TP. HCM) hồi tưởng về những ngày ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn
giao những nhiệm vụ đặc biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên
của những chiến dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2. . . Những tổ công tác
mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình
kinh doanh, những gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu
của chiến dịch này là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận biết những
gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định “kê
biên tài sản”.” [2]
Thứ ba, cũng nói về con số
thống kê “thành tích” cướp bóc của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn sách “Thông
tin lịch sử của TP. HCM” của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết: “Cho đến
ngày giải phóng 1975, Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn
nhất miền Nam, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam.
Nơi đây tập trung hơn 38. 000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ,
trong đó có 766 công ty và 8. 548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu hóa tư
liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau năm
1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công thương
nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 tư sản mại bản, 59 tư sản
thương nghiệp cỡ lớn... ”
Trên thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà
cầm quyền cộng sản cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và các
quan chức lãnh đạo thụ hưởng. [3]
Thứ tư, Đi kèm với chính sách
đánh tư bản là chính sách dồn nhân dân vào những vùng hoang sơ, rừng thiêng
nước độc sau khi đảng đã cướp hết tài san và nhà cửa của nhân dân. Đảng cộng
sản không cung cấp phương tiện sản xuất và nhà cửa cho nhân dân. Trái lại còn
đẩy họ đi khỏi thành phố lao động khổ sai với nhãn mác “đi vùng kinh tế mới”.
Dân đi kinh tế mới sau 1975
Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới
Bắt học sinh xuống đường "bài trừ văn hóa phản động"
Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước ngực và đi lòng vòng địa
phương nơi cư trú, dưới sự giám sát của bộ đội cộng sản. Tội danh: Nhảy đầm.
Sau đó còn phải thọ án 1 năm trong trại cải tạo.
Và đây là điển hình cho cái gọi là "Tòa án nhân dân"
Thứ năm, Hãy cùng đọc bức thư sau
đây của một gia đình là nạn nhân cộng sản đang sống tại Việt Nam để chúng ta
thấy sau năm 1975 đảng cộng sản đã cướp những gì của nhân dân:
“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh
chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.
Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị
em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam.
Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị
em công nhân khu công nghiệp Biên Hoà II
Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải,
Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp
Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.
Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia
Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon
Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN
Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng
giải phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm thuê
làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư người Nhật, Hàn
Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người dân Việt
Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô
hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Chính lá cờ
đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa, liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa,
sự thật rất phũ phàng! Sau khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương
nghiệp, đánh tư sản mại bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong
khi chúng tôi có tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng
sâu nước độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do những cơn sốt rét vàng da, có
những gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về thành
phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng viên thu. Điều
này chúng tôi có nói sai đâụ Những villa nhà lầu hiện nay là nhà của đảng viên,
thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất từ thời nào để lại cho mấy ông
đảng viên này, nếu không phải cướp của chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời
chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng bị
cướp. Những gia đình chúng tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba mẫu
đất làm ăn, cuộc sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo người
dân nghèo chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang vào,
lại tiếp tục lấy đất của chúng tôị Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp gian
manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.” [4]
II. Nạn thuyền nhân
vượt biển:
|
Thuyền
nhân đang lênh đênh tìm đường thoát
khỏi cộng sản
|
Chính vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đày đọa quân dân cán chính
VNCH mà đảng cộng sản Việt Nam đã đây người dân Miền Nam tới nạn "thuyền
nhân" để kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tê không chỉ có X1 và X3 đánh
kinh tế, nhà cầm quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không theo cộng
sản. Chính vì thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ, người dân đã phải chấp
nhận đánh đổi mạng sống trên những con thuyền lênh đênh ngoài khơi để trốn chạy
cộng sản. Bạn đọc có thể tìm hiểu về chiến dịch X2 qua bài viết của một người
nạn nhân:
“Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà
cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước
đó "đánh" tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người
Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng
Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang
Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm
đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh,
đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu
bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng
sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân
dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có
thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại
Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là
mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.” Trích
bài viết: “Những ngày tháng tù đày không thể quên” của tác giả Thanh Thương
Hoàng.
Thậm chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị
nhà cầm quyền cộng sản gây khó dễ: “Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy,
hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được
các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có
chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được
chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như
các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như
nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống
kiếp mạt rệp - một thứ công dân hạng bét - ngay trên quê hương đất nước mình.”
[5]
Nạn thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù
quân dân cán chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý vị
có thể đọc những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó.
Thứ nhất, trên VOA Việt ngữ đã có
bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không may mắn như sau: “Sau
biến cố 30 tháng 4 năm 1975 - và trong cả hai thập niên kế tiếp - hàng triệu
người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do. Ngày nay, người ta thường chú ý
đến tập thể cựu thuyền nhân, 'bộ nhân' đã sống sót và định cư thành công ở Bắc
Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập niên đen tối ấy, trên 300 ngàn
thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu, trên biển cả và tại các trại tị
nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại các trại tị nạn cũ - từ Thái Lan,
Malaysia đến Indonesia và Philippines, hàng ngàn ngôi mộ thuyền nhân đã bị bỏ
quên - cho đến khi tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam phát động chương trình
thăm viếng và trùng tu mộ phần cho những đồng bào xấu số.”
Đây là những con số biết nói cho thấy cộng sản là loài thú dữ đã
gây nên cảnh tang thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong
quý vị xem xét và làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam. [6]
Khu mộ tưởng niệm các thuyền nhân tị nạn ở Galang.
Thứ hai, trong một tập tài liệu
ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50
yearsof Humanitarian Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu
50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị
Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và
lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua
biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà Ogata đã tuyên
dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”. Cuốn sách
cho biết:
“Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu
đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5.
000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4. 000 tị nạn, Tân
Gia Ba 1, 800 người, và có khoảng 1. 250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào
tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng
chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam
vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia
tăng. Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15. 000 người Việt sang tị nạn tại các
nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát
động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam
Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn
bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người
Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Vào cuối năm 1978, đã có 62. 000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại
các nước Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54. 000 thuyền
nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã
khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân,
Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến
cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể
từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.
Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một
số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho
thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau
những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước
quý hơn vàng được vắt ra từmiếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát
triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống
với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những
trường hợp phải đương đầu với hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của
con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những
cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không
biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi
người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên
đại dương.
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết
lê thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt
biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng
Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn
sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người
vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu
cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận
động vào năm 1979 L’Ile deLumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde
điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh
ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”
Thứ ba, theo cuốn video tài liệu
của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot, sau 20 ngày tìm vớt
ngoài khơi Việt Nam: “tầu đã vớt được 520 người, thành phần tuổi tác như
sau: Từ 14 đến 30 tuổi có 269 người, tức 51, 73%. Học trò có 224 em, gồm 136
nam, 88 nữ, chiếm 43, 08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11 người, chiếm 2, 11%.
Người có nghề nghiệp là 218 người, chiếm 41, 92% gồm 154 đàn ông và chỉ có 64
đàn bà... Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học trò đã làm cho Thế
giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của người Việt. Hàng trăm ký
giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông Nam Á quan sát thảm nạn
thuyền nhân khi những chiếc tầu chở hàng ngàn thuyền nhân đổ bộ lên đảo hoang
Pulau Bidong, Galang...” [7]
Thứ tư, trên trang chính của
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có đăng tải lại một trong những thảm kịch của
thuyền nhân Việt Nam chạy trốn cộng sản: “Sáng 1-12-1978, bão lớn kéo đến.
Chẳng bao lâu sau tầu chìm. 170 người thiệt mạng. 150 người sống sót. 123 thi
hài được chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa trang Cherang Ruku. 46 thi
hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang Balai Bachok, cách Cherang
Ruku 30km về hướng Bắc”. [8]
Thứ năm, cho đến ngày hôm nay,
sau hơn 80 năm cai trị Việt nam thì đảng cộng sản vẫn còn những người ra biển
tìm tự do. Xin quý vị chú ý đến bài báo trên RFA sau đây: “Hiện nay vẫn còn
có những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng thuyền như phong trào thuyền
nhân vượt biển cách đây gần 40 năm sau thời điểm 1975. Hãng thông tấn AP hôm
nay loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460 người Việt Nam tìm đến được
bến bờ nước Úc. Đây là con số bằng cả năm năm qua gộp lại. Tàu chở thuyền nhân
Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island của Úc là vào hồi tháng trước.
Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang. Đây là tỉnh có khoảng cách đến
đảo ChirstmasIsland hơn 2300 kilomet... Một thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm
23 tuổi khi AP liên lạc được qua điện thoại từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư
Villawood, nằm ở ngoại vi Sydney, cho biết là anh ta thà chết ở trại chứ không
để bị cưỡng bức về lại Việt Nam. Người này rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị
bắt giam ở Indonesia 18 tháng khi đang trên đường tìm đến Úc.” [9]
Thứ sáu, còn rất nhiều bằng chứng
về thuyền nhân Việt Nam, chúng tôi xin gửi đến ban đọc những đường links đến
cácvideo mô tả một trong những sự kiện bi thương của dân tộc Việt nam chúng tôi
mà đảng cộng sản chính là những kẻ thủ ác.
Đôi mắt thất thần của những người Việt trong trại tỵ nạn
BẠN ĐỌC HÃY ĐỌC BÀI VIẾT CỦA GABRIELE VENZKY TRÊN BÁO DIE ZEIT
(THỜI ĐẠI) ĐÃ GIẢI CỨU 275 NGƯỜI VIỆT NAM TỊ NẠN VỀ ĐẾN HAMBURG ĐỂ THẤY THÊM SỰ
THẬT HÃI HÙNG VỀ TỘI ÁC CỘNG SẢN: “Câu chuyện bắt đầu năm 1978. Cuộc chiến
tranh Việt nam đã kết thúc được 3 năm. Cảnh tượng những máy bay trực thăng Mỹ
cuối cùng cất cánh bay khỏi Sài gòn, dưới càng máy bay còn bám theo bao nhiêu
con người hoảng loạn tột độ vẫn còn hằn sâu trong tâm trí chúng ta, và cả làn
sóng tị nạn sau đó. Và bây giờ thì dòng người ra đi khỏi Việt nam vẫn không
muốn dứt, lần này họ tìm cách vượt biển.
Họ đi trên những chiếc thuyền chài nhỏ và chen chúc đến nghẹt thở
hướng về một phương trời vô vọng, không cả bản đồ và compas, cuối cùng sóng
đánh trôi dạt đâu đó vào các bờ biển Đông nam châu Á, vào những mỏm đá bên bờ
biển Hồng kông, nếu là may mắn. Nhiều người không gặp may. Họ bị hãm hiếp, đánh
chết hay bị ném xuống biển và chết đuối. Cứ hai thuyền chở tị nạn vào vùng biển
Thái lan thì một thuyền bị cướp. Cứ ba người thì một người bỏ mạng trên đường,
người ta tính ra khoảng một nửa triệu người đã chết như thế.” [10]
Tuy nạn thuyền nhân là có thật và ai cũng biết đó là do cộng sản
gây nên, nhưng đảng cộng sản đã phủ nhận nó bằng những lời ngụy biện. Trên báo
Quân Đội Nhân Dân – cộng sản ngày 31-8-2007, tướng Nguyễn Đình Ước viện trưởng
Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam phát biểu “nạn thuyền nhân là chuyện có thật”
nhưng nguyên nhân vì “sau chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề mà Việt Nam
còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế”. Viên tướng này diễn tả xã hội Việt Nam
hoàn toàn tốt đẹp, không có chuyện bức chế bất kỳ ai, không có nỗi thống khổ
nào và khẳng định nạn thuyền nhân là “âm mưu hậu chiến của Mỹ”, bởi sau khi cấm
vận gây khó khăn kinh tế cho Việt Nam, “họ lại kích động, đưa ra viễn cảnh
thiên đường ở bên ngoài gây nên tình trạng có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất
nước ra đi. Không ít người đã thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn
đưa người vượt biên trái phép lừa gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh nhưng
là hệ quả do những chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài. ”. Nhưng thử hỏi
đảng cộng sản và ông Ước là tại sao cho đến ngày hôm nay, sau 38 năm cướp được trọn
vẹn Miền Nam mà vẫn có thuyền nhân, vẫn có người tỵ nạ trên đất Thái, Nga, Mã
Lai…? Liệu đảng còn đổ thừa cho ai nữa?
III. Điểm mặt một số
gương mặt kẻ cướp:
Đảng cộng sản chính là tội đồ của dân tộc gây nên chiến tranh và
cướp bóc. Tội đánh cướp nhà cửa, tài sản… của nhân dân rồi đẩy họ đi kinh tế
mới hoặc lênh đênh trên thuyền tại Biển Đông cũng không là ngoại lệ. Nổi bật
trong số những trùm sò của đảng, xin điểm mặt một số kẻ cướp ngày tiêu biểu.
Thứ nhất, chính Mai Chí Thọ trong
1 bài phỏng vấn đăng trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn đã thừa nhận những
hành động cướp bóc của mình một cách công khai: “Trầm ngâm một lát, bác Tám Cao
(Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với chủ trương “Tiến nhanh,
tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải phóng, TW đã giao nhiệm vụ
cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí số X1 và X2 với nội dung
“Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”.
Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng ta thực hiện cải tạo những tư sản có liên
quan tới đế quốc, dù trong số họ không ít người chỉ thuần túy “làm kinh tế”.”
Rồi cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận: “Nhưng đến nửa chừng rà
soát lại gần 2. 000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có... 3 đối tượng! Chủ trương
duy ý chí này đã làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như nội lực của
thành phố, xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có của “Hòn ngọc Viễn
Đông... ”Không khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch biên tài sản của các đối
tượng “X1, X2”, đem về đổ dồn, chất đống đầy các kho không chứa xuể, phải tấp
táp đâu đó, sau một thời gian ngắn, những tài sản này phần thì biến mất, số còn
lại hư hỏng trở thành một đống đổ nát khổng lồ...
Đồng bào hãy nhớ đây là một tên cướp ngày
Từ một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất,
vậy mà chỉ sau mấy năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất
công nghiệp của thành phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu không
còn, viện trợ từ các phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, máy
móc phương tiện “đắp chiếu” ngủ triền miên hết năm này sang năm khác. Nền kinh
tế của thành phố như thoi thóp, lạm phát gia tăng chóng mặt từ 15, 3% đến 31%
vào năm 1979; từ 20% năm 1980 đến 40% năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa,
tăng viện cho cuộc chiến phía Tây Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Rồi dịch bệnh tràn lan, phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời
sống người dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng
nổi phải vượt biên.”
Qua những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn
thừa nhận đã cho thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân Việt
Nam. Đây là tội ác không thể tha thứ. [11]
Thứ hai, cũng là gương mặt cộm
cán chủ mưu cùng Mai Chí Thọ là Đỗ Mười. Chính Nguyễn Văn Linh trong một lần
hội nghị ở T78 đã nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ
chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai
cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich”
(Trích “Làm người là khó” – Đoàn Duy Thành – cựu phó thủ tướng nhà cầm
quyền cộng sản).Ông Đoàn Duy Thành cho biết Pham Văn Đồng đánh giá về cải tạo
công thương Nghiệp của Đỗ Mười: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ
Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói: “Chỉ có phá !”.
Khi chiến dịch X-3 đã bắt đầu.
Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và
triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố
Sài Gòn (đã bị đổi tên thành Tp. HCM) và các tỉnh phía Nam. Đỗ Mườinói: “Từ
sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền
học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch
X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai đế
quốc Mỹ… Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư
bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần
cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta… Cho nên
chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn.
Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ
hôi sôi nước mắt kiếm miếng ăn …”
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái
chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm: “Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì
lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp,
không phải Bôn – sê- vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
7 giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh
to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của
Ủy ban nhân dân thành phố. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay
mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt
đầu. Và Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng,
trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước.
Đỗ Mười và đàn em Võ Văn Kiệt vui mừng vì cướp được của nhân dân
Miền nam
Thứ ba, Lê Đức Thọ nắm toàn quyền thực sự trong đảng CSVN từ đại
hội 3 năm 1960 với sự đồng tình của tổng bí thư Lê Duẩn. Không ai có thể ngờ
vực uy quyền tuyệt đối của Thọ, được gọi một cách kinh sợ là Sáu Búa. Theo hồi
ký "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn (xuất bản năm
1993), uy quyền của Thọ lớn đến nỗi ông có thể cấm cả ông Hồ phát biểu trong
một hội nghị mà ông Hồ cũng đành chịu. Được ông Trấn hỏi về ông Lê Đức Thọ, ông
Tôn Đức Thắng, chủ tịch nước, thú nhận một cách mộc mạc: "Đ. M. , tao cũng
sợ nó!". Theo nhiều nhân chứng, Thọ từng xác quyết nhiều lần: "đảng
là tao!". Mặc dù Thọ không chính thức là nhân vật số 1 trong đảng; trong
danh sách Bộ Chính Trị ông chỉ đứng hàng thứ năm, sau các ông Lê Duẩn, Trường
Chinh, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng. Nhưng Thọ lại là người nắm bộ máy đảng và là
nhân vật quyền lực nhất. Thọ có thể bắt giam những cộng sự viên của các nhân
vật này mà không ai dám chống lại hoặc đích thân chỉ huy những công tác quan
trọng nhất của chế độ khi cần: Giám sát Hội Nghị Paris và trực tiếp thương
thuyết với Mỹ; Chỉ huy cuộc tổng tấn công dứt điểm chiếm Miền Nam năm 1975 với
vai trò chính ủy. Và chính quyền lực của Lê Đức Thọ đã giúp không nhỏ cho đảng
CSVN có những hành động khủng khiếp như Cải cách ruộng đất; Phát động cuộc chiến
với Miền Nam; Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968; Chiến dịch mùa hè đỏ lửa 1972.
Tất cả những sai lầm đó gây thiệt hại ghê gớm cho đảng và chế độ, đồng thời
cũng là những thảm kịch đối với Việt Nam. Đặc biệt là sau năm 1975, Thọ cũng
tham gia vào việc quyết định “đánh tư sản” tại Miền Nam. Trong văn kiện đại hội
đảng năm 1979 chính Thọ đã khẳng định: “Với đường lối đúng đăn của bộ chính
trị và toàn đảng, chúng ta đã quét sạch được lũ tư bản mại bản và lấy lại những
gì của chúng…”
Hãy nhớ lấy đây cũng là gương mặt của tên cướp ngày
Thứ tư, Cũng cần phải nói qua câu chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Năm
1964 Nguyễn tấn Dũng đang học lớp 6 thì vào bưng theo du kích để khủng bố nhân
dân. Trong bưng Dũng vừa “đánh Mĩ cứu nước” vừa theo học bổ túc văn hóa. Đến
năm 1975 tốt nghiệp Y sĩ nhân dân và về đảm nhiệm chức vụ Thủ trưởng bệnh viện
huyện Hà Tiên. Vừa phấn đấu để lập thành tích, vừa học hỏi để phục vụ tốt cho
đảng, Dũng đã chứng tỏ là đảng viên trung kiên và là thành phần trí thức nòng
cốt, tài sản hiếm quí của đảng. Nhờ sự học uyên bác trong quản lý kinh tế nên
Dũng đã được đảng tin tưởng và giao cho trọng trách Trưởng ban tiêu diệt tư sản
mại bản tỉnh Rạch giá. Trong đợt đánh tư sản mại bản năm 1978 tỉnh Rạch giá
dưới sự chỉ đạo của Dũng đã đạt thành tịch vượt chỉ tiêu, nêu cao ngọn cờ đầu
trong công tác tiêu diệt tư sản. Sau đó được Dũng được đề bạt nên Thiếu tướng
CA nhân dân tỉnh và đã lập thành tích rực rỡ nhờ bắt trọn ổ “phản động” Trần
văn Bá. Sự kiện Dũng phong tướng cho Bùi Tuyết Minh tại Kiên Giang vừa qua
chính là sự trả ơn cho mánh khóe làm ăn của 3 Dũng khi còn ở Rạch Giá. Xin xem
thêm “Trùm mật vụ bắt người vượt biên trở thành 'bà tướng đầu tiên' của
ngành CA” của tác giả Bảng Đỏ Danlambao [12]
Đây là một tên cướp ngày của cộng sản
IV. Kết Luận:
Sau khi cướp sạch tài sản của nhân dân Việt Nam thì đảng cộng sản
tiếp tục đẩy họ ra biển với cái chết lên đến 9/10. Những chính sách tàn bạo của
đảng cộng sản là không thể bao biện và hết sức tàn ác. Không những thế, để xóa
nhòa tội ác của mình đảng cộng sản còn tiếp tục gây tội ác với cả những thuyền
nhân đã chết. Theo tờ Jakarta post ngày 20/6/2005 cho biêt là chủ tịch nước của
cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Indonexia phá bỏ văn bia thuyền nhân bằng tuyên bố
“Khẩn cấp đập tượng đài” vì lý do”Xúc phạm tới Việt Nam” và cho rằng những nạn
nhân chết thảm trên Biển Đông là do: “Chính sách chống phá Việt Nam từ bên
ngoài”.
Ngày hôm nay, những sự thật đã phơi bày, đảng cộng sản đã cho thấy
mình là một đảng cướp ngay từ nhũng ngày đầu khi cướp chính quyền của cụ Trần
Trọng Kim, cướp thành quả của nhân dân thông qua “đóng góp cho cách mạng” và
CCRĐ. Không còn cách nào khác toàn thể đồng bào trong và ngoài nước phải đứng
lên tố cáo tội ác của cộng sản để lật đổ bọn cướp ngày đã hơn 80 năm qua cướp
bóc của dân tộc Việt Nam.
02/8/2013
___________________________________-
Chú
thích: