Hình ảnh nói lên: Sự kiện Tội Ác Việt Cộng ! ! !






http://1.bp.blogspot.com/-H2UASSKYcOk/UJml_6fpwuI/AAAAAAAA0Q8/ThhrjwncSGc/s1600/babui-danlambao-%C4%90a%CC%82%CC%81t+nu%CC%9Bo%CC%9B%CC%81c+la%CC%80+ca%CC%81i+%C4%91uo%CC%82i+sam1.jpg








Friday, June 13, 2014

Trung Quốc – Việt Nam: Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Trung Quốc – Việt Nam: Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Phạm Chí Dũng

Nghịch lý gấp đôi
Với giới phân tích thường quan tâm đến những quốc gia khép kín, một điểm khá tương đồng không thể bỏ qua giữa hai nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam là lượng dự trữ ngoại tệ mạnh của hai nước này đã đại nhảy vọt trong mấy năm qua. 

Về phần Ngân hàng trung ương Trung Quốc, thành tích này thậm chí còn không thèm che giấu. Chưa bàn tới tính trung thực của báo cáo, tính tới nay chủ thuyết “Trung Quốc trỗi dậy” đã phóng dự trữ ngoại tệ lên gần $4.000 tỷ, theo một công bố mới nhất của cơ quan này. 

Như vậy, cùng với tốc độ tăng tiến gấp đôi số nợ của các chính quyền địa phương từ $1.500 tỷ lên $3.000 tỷ chỉ từ năm 2011 đến cuối năm 2013, dự trữ ngoại tệ cũng tăng gấp hai lần. Đó chính là một trong những nghịch lý lớn nhất của nền kinh tế mà một chuyên gia phương Tây đã vẽ nên ảnh “Voi cưỡi xe đạp”. 

Tuy nhiên, hiện giờ kinh tế Trung Quốc chỉ mới có biểu hiện tăng trưởng chậm lại và cách nào đó gây lo ngại cho Bộ chính trị Bắc Kinh cũng như với các đối tác lớn của Trung Quốc trên thế giới như Mỹ và Australia, chứ chưa lâm vào tình trạng chịu quá nhiều điều tiếng như Việt Nam trong suốt gần bảy năm qua.

 Còn với “tổ quốc ngàn năm Bắc thuộc”, tình cảnh tồi tệ hơn nhiều sau cú khủng hoảng kinh tế thế giới từ đầu năm 2008.  Vào giữa năm 2011, sau khi con sóng đầu cơ bất động sản ở Hà Nội đã đi hết chiều dài của nó, thị trường nhà đất Việt Nam ngay lập tức rơi vào cảnh hoàng hôn. Cũng từ đó bắt đầu xuất hiện một từ ngữ mà giới ngân hàng ghét cay ghét đắng: “nợ xấu”.

Trong cảnh chợ chiều Việt Nam, nợ xấu là nguồn cơn của mọi nguồn cơn, khiến sinh ra mọi chuyện không thể gọi là tốt đẹp. Từ năm 2011 đến nay, bất chấp thái độ cố tình bưng bít của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, con số về tỷ lệ nợ xấu mới nhất do hãng tư vấn xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố vào đầu năm 2014 vẫn là 13%, tương đương với khoảng 500.000 tỷ đồng trên tổng số 3.400.000 tỷ đồng tổng nợ trong hệ thống ngân hàng. 

Có lẽ không quá khó để lý giải là con số nợ xấu hoặc nợ không thể đòi như thế đã khiến cho khối ngân hàng thương mại mất ngủ đến mức nào. Nhưng chính thế vong thân lãi suất cho vay đến hơn 20%/năm của các ngân hàng này lại làm cho ít nhất 200.000 doanh nghiệp phải vong mạng, và trên thực tế cũng chừng đó số doanh nghiệp không có khả năng đóng thuế cho ngân sách nhà nước. Con số này chiếm đến 35% tổng số doanh nghiệp còn nằm trên danh mục đăng ký hoạt động ở Việt Nam tính đến thời điểm này.

Thế nhưng bất chấp tất cả, dường như chưa bao giờ Hà Nội quên đi niềm tự hào anh em môi răng với Bắc Kinh, kể cả trong tận cùng của những nghịch lý bị coi là tật xấu khủng khiếp. Trong bối cảnh nền kinh tế đã rơi vào suy thoái trầm trọng và khiến hiệu ứng tiêu dùng tương đương với tình trạng giảm phát, lượng dự trữ ngoại tệ do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố vẫn gia tốc một cách đáng sợ. 

Nếu từ năm 2011 trở về trước, dự trữ ngoại tệ là chủ đề được coi là tuyệt mật và hầu như không thể công bố, thì nghịch lý ngơ ngác là trong lúc nền kinh tế ngày càng hội ngộ đầy đủ các thành tố khủng hoảng từ năm 2012 đến nay, Ngân hàng nhà nước lại càng lúc càng trở nên dạn dĩ hơn để “giải mật”. Lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng theo đó mà xuất thần: từ khoảng $15 tỷ vào năm 2011, bầu sữa này đã lên đến hơn $30 tỷ vào đầu năm 2014. Thậm chí có ước đoán hiện thời dự trữ ngoại tệ của Việt Nam còn lên đến gần $40 tỷ, tức tương đương 1% của cái giá trị nhất thời chưa được kiểm chứng như vậy ở Trung Quốc.
Tất nhiên, một câu hỏi phải đặt ra: vì sao trong bối cảnh nền kinh tế cực kỳ què quặt mà dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vẫn quá đầy đặn?

Vong thân kinh tế
Một giả thiết nhẹ nhàng có thể phác ra là Ngân hàng nhà nước Việt Nam – cơ quan vẫn ham muốn được nâng cấp lên mức “trung ương” theo cơ chế Trung Quốc – đã in tiền quá mức cần thiết để làm công tác “huy động ngoại tệ trôi nổi” nhằm phòng lúc khốn khó.

Một kinh nghiệm quý báu mà Hà Nội có lẽ đã luôn tham khảo từ “người láng giềng anh em”: Trung Quốc luôn bị xem là kẻ tạo ra lạm phát với tốc độ in tiền gấp đôi nước Mỹ.  “Trong vòng 30 năm qua, Trung Quốc đã dùng quá nhiều tiền để bơm vào nền kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng” – một chuyên gia kinh tế có tên là Wu Xiaoling của chính phủ Trung Quốc nhún vai.

Chỉ tính đến cuối năm 2013, lượng cung tiền bơm vào nền kinh tế của Trung Quốc đã lên tới 110.650 tỷ Nhân dân tệ (tương đương $17.770 tỷ), gấp 4 lần so với 10 năm trước đây. Đây là dấu hiệu sống động nhất và cũng là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy chính phủ Trung Quốc đang in tiền nhanh hơn khá nhiều tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

Song cơ chế lạm phát in tiền cũng tất yếu gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của đồng Nhân dân tệ. Kể từ khi Trung Quốc bỏ chế độ neo tỷ giá vào năm 2005, đồng Nhân dân tệ đã tăng giá so với đồng USD do nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh. 

Tuy nhiên, nghịch lý xảy ra là trong khi Nhân dân tệ có vẻ giữ giá trị so với đồng tiền của các quốc gia khác, thì nó lại nhanh chóng mất giá ngay trong nước; đồng thời xu thế này cũng không kéo dài khi thời gian gần đây đồng Nhân dân tệ liên tục mất giá so với các đồng tiền khác.

 Nếu trong 4 tháng đầu năm 2014, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc liên tục giảm giá với biên độ lớn nhất từ khi quốc gia này bắt đầu thực hiện cải cách đến nay, thì vào đầu tháng 5/2014, tỷ giá Nhân dân tệ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối năm 2012, chỉ còn $1 đổi 6,23 NDT.

Hệ quả đương nhiên mà một kẻ sắp vong thân kinh tế phải tính đến là gom góp những tài sản quý giá nhất để phòng thân. Rất có thể cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, một khi vẫn lang thang trên con đường “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, hẳn phải dựa vào đồng đô la Mỹ như một phao cứu sinh để phòng hờ tương lai đồng nội tệ mất giá và nền kinh tế rơi vào lạm phát trầm trọng hoặc bị bão lạm phát.

Với Việt Nam, tương lai này đã hầu như chắc chắn. Còn với Trung Quốc, cả thế giới vẫn đang chờ xem quốc gia 1,3 tỷ dân này phải vật lộn với mầm mống của cơn khủng hoảng sắp tới như thế nào.

Những mầm mống như thế đang có vẻ khá căng cứng. Khi Tết nguyên đán 2014 mới trôi qua được một tháng, những tin tức về một đợt suy thoái kinh tế ở Trung Quốc bất chợt dồn dập. 

Từ sâu thẳm của những tháng năm chật chội, những nguồn tin bắt đầu lộ diện. Nhưng rõ ràng nhất là việc hãng nghiên cứu có uy tín Business Wisdom đưa ra dự báo sắp có làn sóng vỡ nợ ở 10 ngành công nghiệp Trung Quốc, bao gồm: (1) đóng tàu; (2) sắt thép; (3) đèn LED; (4) nội thất; (5) bất động sản; (6) vận tải biển; (7) tín chấp và các định chế tài chính; (8) quản lý tài chính; (9) vốn tư nhân và (10) mua theo nhóm.

Nợ công cũng biến thành một vấn nạn không thể chối từ. Không khác mấy điều được coi là “minh bạch số liệu” ở Việt Nam, con số báo cáo của Trung Quốc cho thấy loại nợ này chỉ chiếm khoảng 45% GDP. Nhưng theo cách tính toán khách quan và thành thực hơn rất nhiều của các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tỷ lệ nợ công quốc gia thực tế của Trung Quốc phải lên đến 150% GDP. 

Thậm chí, một phân tích của Business Wisdom còn cho rằng Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ tương đương 265% GDP, vượt hơn nhiều so với tỷ lệ nợ công quốc gia 200% GDP của Nhật Bản khi đất nước này lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt đầu từ năm 1997, để sau đó phải chấp nhận một “thập kỷ mất mát” không thể khác hơn.

Điều đáng sợ nhất
“Thập kỷ mất mát” hoặc ám ảnh ghê gớm hơn thế chính là hệ lụy mà giới lãnh đạo và các nhóm tài phiệt Trung Quốc lo sợ nhất. Đơn giản là nếu tương lai đó xảy đến, sẽ chẳng bao giờ một tương lai chính trị cùng tài sản cá nhân của họ được bảo đảm.

Cứ cho là đang nắm giữ một lượng ngoại tệ mạnh chiếm gần 50% tổng lượng GDP hàng năm, nhưng không vì thế mà nền kinh tế Trung Quốc thoát khỏi hình bóng “hổ giấy”. Sẽ ra sao nếu một tương lai trơn trượt có thể xảy ra để quốc gia này lâm vào “thập kỷ mất mát” như Nhật Bản và sẽ tiêu tốn đến những đồng đô la cuối cùng để xử lý tình trạng suy trầm kinh tế?

Việt Nam đã có quá đủ bài học từ ảo tưởng đến suy trầm như thế. Vào đầu năm 2011, Bộ chính trị và Chính phủ quốc gia này vẫn còn phơi phới quyết tâm duy trì mức tăng trưởng GDP lên đến 9-9,5%. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó, giới chính khách không mấy chuyên nghiệp ấy phải nhận ra rằng đúng như bài bản lý thuyết Mác – Lê, kinh tế đã quyết định chính trị. 

Không bao lâu sau, “những người thích đùa” này đã bắt buộc phải rút dần chỉ tiêu tăng trưởng xuống còn 7%, và hiện nay chỉ còn khoảng 5%, cho dù tất cả những con số này thật ra chẳng có ý nghĩa gì lắm nếu xét trên thực tế nền kinh tế đã rất có thể rơi vào tình trạng giảm phát, và do vậy GDP thậm chí còn có thể âm cục bộ vào một số thời điểm.

Nhìn sang “nước bạn”, một giả thiết có thể đặt ra là nền kinh tế Trung Quốc đi sau Việt Nam khoảng 3 năm, tình thế khó khăn của Trung Quốc hiện thời đang khá giống với Việt Nam vào năm 2011. Còn nếu xét về hiện trạng GDP, Trung Quốc hiện nay đang ứng với Việt Nam năm 2012.

Một giả thiết tiếp nối: với đà này, chỉ sau 2-3 năm nữa, tức vào giai đoạn 2016-2017, nền kinh tế Trung quốc sẽ sa vào bẫy chuột của chính nó như Việt Nam đã từng.

Kinh tế quyết định chính trị. Nếu những gì đã và đang xảy ra trong thể chế độc tôn kinh tế và độc tài chính trị ở Việt Nam tái hiện ở Trung Quốc, không hiểu Tập Cận Bình và giàn giáo tướng lĩnh của ông ta còn đủ tĩnh tâm triệt hạ dần vùng lãnh hải Việt Nam ở biển Đông bằng các giàn khoan dầu hay không?

Những dấu hiệu chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc từ đầu năm 2014 đến nay cũng phác ra một viễn cảnh không mấy nồng cảm cho mối quan hệ “sông liền sông núi liền núi”: nồng độ can thiệp của Bắc Kinh đối với Hà Nội sẽ khó mà giữ nguyên trong những lời hứa hẹn về “làm mọi cách để bảo vệ nền chuyên chính vô sản” từ Hội nghị Thành đô năm 1990.

 Ngược lại, đó là một cơ hội để biểu tả thánh thiện cho xu thế “Thoát Trung” đang ngày càng mở rộng và ăn sâu vào lòng ít nhất 70% dân chúng Việt Nam – những người túng thiếu tiền bạc nhưng thừa lòng tự trọng non sông.
P.C.D.

Nguồn:

On Thursday, June 12, 2014 11:08 AM, "Nghia Bui  wrote:

Ngày: June 11, 2014 at 8:38:46 PM PDT
Ch
đ:  Nhân chứng Huỳnh Bu Sơn: Bn Vit cng chóp bu Hà Ni ăn cp chia chác 16 tn vàng tài sn quốc gia VNCH.
 

Bộ ngoại giao TQ công bố 5 bằng chứng bán nước của ĐCSVN


Bộ ngoại giao TQ công bố 5 bằng chứng bán nước của ĐCSVN

Lễ Chào cờ Tưởng niệm Quốc hận 30/04 (Toronto)

http://www.youtube.com/watch?v=lHGH6Qm3vvg


CTV Danlambao - Hôm 8/6/2014, trang web của Bộ ngoại giao Trung Quốc đã cho đăng một bản tuyên bố mang tên "Giàn khoan 981 hoạt động: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc". Trong đó, phía Trung Quốc đã chính thức cho công bố 5 bằng chứng bán nước không thể chối cãi của chế độ cộng sản Việt Nam dưới quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Những bằng chứng động trời này một lần nữa khẳng định: đảng cộng sản Việt Nam chính là một tập đoàn Việt gian phản quốc. Thậm chí, đến cả những ai còn mù quáng nhất cũng không thể phủ nhận hành vi bán nước ô nhục của đảng cộng sản Việt Nam.

Bản tuyên bố được viết bằng tiếng Anh trên trang web Bộ ngoại giao Trung Quốc, sau đó lập tức được Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc-CRI chuyển sang tiếng Việt.

Trong phần IV của bản tuyên bố, phía Trung Quốc đưa ra các bằng chứng cho thấy chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do đảng cộng sản cầm đầu đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.

"Trước năm 1974, các khóa Chính phủ Việt Nam không hề đưa ra bất cứ nghị dị đối với chủ quyền quần đảo Tây Sa của Trung Quốc, bất cứ trong tuyên bố, công hàm của Chính phủ Việt Nam hay là trên báo chí, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của Việt Nam đều chính thức công nhận quần đảo Tây Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ của Trung Quốc", bản tuyên bố ngày 8/6/2014 của Bộ ngoại giao Trung Quốc viết.

Dưới đây là trích đoạn phần nói về 5 bằng chứng bán nước của đảng cộng sản Việt Nam do Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố:

Bằng chứng số 1:

Ngày 16/5/1956, trong buổi tiếp Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lý Chí Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêmtrịnh trọng bày tỏ: "Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc". Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lộc còn giới thiệu cụ thể hơn những tư liệu của phía Việt Nam và chỉ rõ: "Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống".

Bằng chứng số 2:
































































Ngày 4/9/1958, Chính phủ Trung Quốc ra tuyên bố, tuyên bố chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý, dứt khoát nêu rõ: "Quy định này áp dụng cho tất cả mọi lãnh thổ của nước Cộng hoa Nhân dân Trung Hoa, trong đó bao gồm quần đảo Tây Sa". Ngày 6/9, trên trang nhất của "Báo Nhân Dân"-cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam đã đăng toàn văn bản tuyên bố lãnh hải của Chính phủ Trung Quốc. Ngày 14/9, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, trịnh trọng bày tỏ: "Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và tán thành tuyên bố về quyết định lãnh hải công bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", "Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định này".

Bằng chứng số 3:

Ngày 9/5/1965, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên bố về việc Chính phủ Mỹ lập "khu tác chiến" của quân Mỹ tại Việt Nam, chỉ rõ: "Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ", đây là đe dọa trực tiếp "đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng".

Bằng chứng số 4:



Tập "Bản đồ Thế giới" do Cục Đo đạc và Bản đồ Phủ Thủ tướng Việt Nam in ấn xuất bản tháng 5/1972 đã ghi chú quần đảo Tây Sa bằng tên gọi Trung Quốc. 

Bằng chứng số 5:






Trong sách giáo khoa "Địa lý" lớp 9 Trung học phổ thông do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản, có bài giới thiệu "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" viết: "Từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, các đảo Bành Hồ, quần đảo Châu Sơn..., các đảo này có hình vòng cung, tạo thành bức 'Trường Thành' bảo vệ Trung Quốc đại lục".

*

Cũng trong bản tuyên bố ngày 8/6, phía Trung Quốc cũng nêu cáo buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam "đã nuốt lời cam kết của mình" khi tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cho đến thời điểm này, nhà cầm quyền CSVN chưa hề đưa ra bất cứ tuyên bố chính thức nào trước việc Trung Quốc cho công bố 5 bằng chứng bán nước như trên.

Một sự im lặng nhục nhã đối với tập đoàn Việt gian bán nước.



THƯ NGỎ GỬI NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN VÀ TẤT CẢ NHỮNG AI QUAN TÂM ĐẾN QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO HỘI HỌP VÀ LẬP HỘI Ở VIỆT NAM

Ngày hôm nay, 12/04/2014, trên trang mạng bolapquechoa có đăng thư ngỏ của nhà thơ Đỗ Trung Quân gửi nhà văn Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập Việt Nam, sau đó được trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam (gọi tắt là BVĐVĐ) đăng lại ngay tức thời.


Trong thư có đoạn: “… tôi được một nhân vật thuộc ngành an ninh thông báo lý do canh giữ tôi đến hôm nay ngoài việc xuống đường [chống Chinaxâm lược]như dư luận trong và ngoài nước đã biết, tôi còn là THƯ KÝ VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP, còn là cầu nối, một trạm liên lạc của Văn đoàn”. Nhà thơ Đỗ Trung Quân yêu cầu VĐ ĐL trả lời công khai ông có được giao chức trách nói trên hay không?

Về vấn đề này, BVĐVĐ xin chính thức tuyên bố:
 1/ Nhà thơ Đỗ Trung Quân là một thành viên của BVĐVĐ trên cơ sở tự nguyện tán thành Tuyên bố của BVĐVĐ và đăng ký tham gia BVĐVĐ. Ngoài tư cách đó, ông chưa được giao bất cứ công việc gì của BVĐVĐ.

2/ Việc mỗi thành viên BVĐVĐ nhận và thực hiện công việc theo sự phân công của Trưởng ban – nhà văn Nguyên Ngọc là việc hoàn toàn nội bộ của BVĐVĐ.Không ai có quyền, bất kể nhân danh tổ chức hay cơ quan nào, sách nhiễu các thành viên BVĐVĐ về việc này.

3/ Trong suốt thời gian từ khi BVĐVĐ tuyên bố ra mắt (03/03/2014), đã có những hiện tượng sách nhiễu, gây khó khăn với không ít thành viên BVĐVĐ, như: ngăn cản các thành viên BVĐVĐ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng (báo chí, truyền hình…), lặp lại đúng hệt các thủ đoạn xấu xa đối với Nhân văn Giai phẩm cách đây hơn nửa thế kỷ; gây áp lực với nơi làm việc của thành viên và trực tiếp với thành viên để “vận động” họ rút tên khỏi BVĐVĐ; vu cáo trắng trợn rằng BVĐVĐ là một tổ chức chính trị hoạt động nhờ tài trợ nước ngoài…

Những hành vi trên đã không lay chuyển được đại đa số thành viên BVĐVĐ. Nhiều người đã khẳng khái trả lời KHÔNG với mọi áp lực nhằm buộc họ rút tên khỏi BVĐVĐ.

4/ BVĐVĐ kịch liệt phản đối những hành vi sách nhiễu nói trên đối với các thành viên BVĐ, vì:

Đó là những hành vi vi phạm pháp luật và Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội của công dân.

Vu cáo, xúc phạm uy tín danh dự của tổ chức và công dân.
Chia rẽ khối đoàn kết dân tộc trong lúc đất nước đòi hỏi sự đồng thuận, một lòng của toàn dân, đặc biệt của giới trí thức, để đối phó với cuộc xâm lược của China đang diễn ra vô cùng nguy hiểm trên mọi mặt trận, trong đó văn hoá là một mặt trận hết sức then chốt.

5/ Lập trường nghệ thuật của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố Vận động ngày 03/03/2014

(http://vandoandoclapvietnam.org), đó là: “góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi”.

Lập trường chính trị của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố về vụ giàn khoan Hải Dương 981 (http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-cua-ban-van-dong-van-doan-doc-lap-viet-nam-ve-viec-trung-quoc-cho-gian-khoan-hd-981-va-cac-tau-vu-trang-xam-chiem-vung-bien-thuoc-chu-quyen-viet-nam/) chỉ 4 ngày sau khi China kéo giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. 

BVĐ tự hào là tổ chức dân sự đầu tiên ở Việt Nam lên tiếng chính thức về sự kiện nghiêm trọng này, phản đối mãnh liệt hành động xâm lược của China và ủng hộ Nhà nước Việt Nam thi hành mọi biện pháp mạnh mẽ và tỉnh táo để bảo vệ chủ quyền đất nước.

Trang mạng vanviet.info của BVĐVĐ ra mắt từ 19/3/2014 đến nay đã thể hiện cụ thể lập trường nghệ thuật và chính trị trên, thu hút lượng bạn đọc và cộng tác viên đông đảo, mặc dù ở nhiều nơi bị chặn bằng tường lửa.

6/ Nhữngtổ chức nghề nghiệp yêu nước có lập trường và hoạt động lành mạnh như BVĐVĐ không có lý do gì là đối tượng sách nhiễu, ngăn cản của bất cứ cơ quan, tổ chức nào với lý do an ninh chính trị tư tưởngvăn hoá.

BVĐVĐ yêu cầu các cơ quan hữu trách chấm dứt những hành vi sách nhiễu bất hợp pháp của một số cá nhân, tổ chức đối với BVĐVĐ và các thành viên BVĐVĐ. BVĐVĐ tuyệt đối tin tưởng rằng lý tưởng và những việc làmđúng đắn của mình luôn được sự ủng hộ và hưởng ứng của đông đảo người viết văn và bạn đọc trong, ngoài nước.

Ngày 12/6/2014
Thay mặt Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
Nguyên Ngọc


Lao Động Việt công khai hoạt động tại Việt Nam


Lao Động Việt công khai hoạt động tại Việt Nam


Tuyên cáo của Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do
Ngày 9 tháng 6 năm 2014

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên danh nghĩa là một nhà nước của Liên Minh Công Nông song trong thực tế đã phản bội quyền lợi của hai khối dân đông nhất này trong cộng đồng dân tộc. Bằng chứng là hàng triệu dân oan lây lất trên toàn quốc và người lao động Việt Nam chưa bao giờ bị bóc lột như ở qui mô hiện tại, phơi bầy ra một sự cách biệt giàu nghèo chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

Bởi Tổng Liên Đoàn Lao Động VN, cũng trên danh nghĩa là đại diện trực tiếp cho quyền lợi của người lao động, nhưng vì là một tổ chức ngoại vi tức công cụ của Đảng CSVN nên không thể bảo vệ nổi những lợi ích của giai cấp công nhân Việt-nam nên:

1/ Từ ngày 20/10/2006, Công Đoàn Độc Lập Việt Nam đã ra đời.

2/ Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam cũng đã thành hình ngày 30/12/2006 tại Việt Nam.

3/ Phong Trào Lao Động Việt cũng đã được lập ra ngày 29/10/2008 tại Việt Nam.

Mặc dầu bị đàn áp, tù đầy (như trường hợp Luật sư Lê Thị Công Nhân của Công Đoàn Độc Lập VN, toàn ban lãnh đạo của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông VN, và ba người chủ chốt trong Phong Trào Lao Động Việt là Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh) ba tổ chức trên đã kết hợp với Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam (được thành lập ngày 29/10/2006, tại Ba Lan) thành Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, viết tắt là Lao Động Việt (LĐV), ra mắt tại Đại Hội lần thứ 1, tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, ngày 17/1/2014.

Việc thành lập và hoạt động của các tổ chức nói trên là căn cứ vào những điều khoản như Điều 53, Điều 69 của Hiến Pháp 1992 nước CHXHCN Việt Nam và Điều 25 và Điều 28, Chương 2, của Hiến Pháp 2013 của nước CHXHCN Việt Nam (những văn bản có tính cách pháp lý cao nhất của quốc gia) cũng như căn cứ vào các Quy Ước Quốc Tế số 87 (ngày 9/7/1948 về Tự do Nghiệp đoàn và bảo vệ quyền hoạt động nghiệp đoàn) và 98 (ngày 1/7/1949 về quyền tổ chức và cộng đồng thương thảo) của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (International Labor Organization).

Quá trình thành lập Lao Động Việt trong 8 năm qua cũng là nằm trong xu hướng dân chủ hóa đất nước và là một đòi hỏi không thể bỏ qua của phong trào lao động thế giới (ITUC, AFL-CIO...) trong tiến trình Việt Nam đang tìm cách tham gia vào Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP).

Hôm nay, ngày 9/6/2014, Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do quyết định ra thông cáo này để công khai hóa sự hiện diện của Lao Động Việt (LĐV) trong cộng đồng các xã hội dân sự hiện có mặt ở Việt Nam, nhằm bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người lao động VN, những quyền lợi mà hiện không có ai bảo vệ.

Nhân dịp này, Lao Động Việt đòi hỏi nhà cầm quyền VN phải tức khắc trả tự do cho các nhà tranh đấu cho quyền lao động ở VN, đặc biệt : các anh Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và cô Đỗ Thị Minh Hạnh--mà giờ đây đã được nhiều tổ chức nhân quyền trên thế giới (Amnesty International, Freedom Now, Defending the Defenders...) và Quốc hội Mỹ lên tiếng bảo vệ.

Đại diện LAO ĐỘNG VIỆT:

Trần Ngọc Thành, Chủ tịch
Lê Thị Công Nhân, Phó Chủ tịch
Đoàn Huy, Phát ngôn nhân - E-mail: congnhanbinhduong05@gmail.com


Giấc mơ của Hạnh

THE KIM NHUNG SHOW: Trò chuyện cùng mẹ nhà tranh đấu Đỗ Thị Minh Hạnh



Trọng (Danlambao) - Chưa bao giờ mà vấn đề bảo vệ quyền lợi công nhân được bàn luận và hưởng ứng rộng rãi như hiện nay, nhu cầu thành lập những công đoàn độc lập đại diện cho người lao động từ đó cũng trở nên rất cấp bách. Cách đây 6 năm, những điều mà hôm nay chúng ta nói đến đã được ba thanh niên trẻ thực hiện trong những điều kiện hết sức khó khăn và nguy hiểm lúc bấy giờ.

Nhóm ba người bạn gồm Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã dấn thân để biến ước mơ thành sự thật, đó là việc xây dựng một tổ chức đại diện cho giới lao động Việt Nam. Hậu quả mà những con người tiên phong mở đường ấy phải chịu đựng là từ 7 đến 9 năm tù nghiệt ngã. Họ đã hy sinh tuổi xuân đẹp nhất cho dân tộc và chưa biết còn có thể sống được đến ngày mãn hạn tù hay không.

*  

Khi các cuộc đình công chống Trung Quốc mau chóng bùng phát thành bạo lực không thể kiểm soát, người dân cả nước bỗng phải giật mình chất vấn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có còn đại diện cho giới công nhân, hay chỉ là một tổ chức ăn hại?

Sự phản bội của đảng cộng sản đối với ‘đội ngũ tiên phong’ gây ra một khoảng trống lớn trong các hoạt động bảo vệ quyền lợi công nhân, khiến tình trạng mâu thuẫn trở nên ngày càng gay gắt. Dù vậy, lãnh vực công nhân vẫn luôn bị chế độ toàn trị tự cho mình cái quyền độc tôn.

Giữa lúc Biển Đông đang bên bờ vực chiến tranh, TPP là con đường duy nhất giúp nhà cầm quyền CSVN thoát khỏi cuộc khủng hoảng chính trị toàn diện, hay ít nhất có thể thoát khỏi sự thần phục vô điều kiện đối với Trung Quốc.

Cái giá phải trả cho giấc mộng TPP cũng buộc giới cầm quyền VN phải tôn trọng quyền tự do thành lập nghiệp đoàn lao động. Điều kiện này mở ra một cơ hội chưa từng có đối với những người mong mỏi thay thế và lấp đầy khoảng trống trong lãnh vực bảo vệ quyền lợi công nhân.

Những ‘cú hích’ mạnh mẽ tạo ra nhiều tiếng nói đòi hỏi phải có một công đoàn độc lập tại Việt Nam. Cuộc họp hôm 5/6 tại chùa Liên Trì đã dẫn đến thành quả chung của 18 tổ chức, hội đoàn cùng đồng thanh tuyên bố ủng hộ hoàn toàn công đoàn độc lập do chính công dân Việt Nam thành lập và điều hành.

Sau cuộc ‘Diên Hồng’ chưa từng có của Xã hội Dân sự, chắc chắn sẽ phải có thêm rất nhiều nỗ lực để hiện thực hóa giấc mơ về một công đoàn độc lập hoạt động hiệu quả và thực sự đại diện cho giới công nhân Việt Nam.

Cách đây 6 năm, một cô gái 23 tuổi đã biến những giấc mơ này thành hiện thực. Đỗ Thị Minh Hạnh và những người bạn của cô đã cho ra đời Phong Trào Lao Động Việt vào ngày 29/10/2008. Vào thời điểm bấy giờ, đây là một nỗ lực phi thường giữa lúc hiểm nguy ngặt nghèo.

Tuổi trẻ nhiệt huyết

Đỗ Thị Minh Hạnh sinh năm 1985 tại Di Linh, Lâm Đồng. Từ bé, những chuyến theo mẹ công tác trong Hội Chữ Thập Đỏ khiến Hạnh có những quan sát khác hẳn với bạn bè cùng lứa tuổi, trong cô bé Hạnh luôn tràn ngập tình yêu thương và mong muốn giúp đỡ mọi người.

Bác Minh - mẹ Hạnh cảm thấy vô cùng hạnh phúc và tự hào khi chứng kiến sự trưởng thành của con gái út. Thế nhưng, một biến cố lớn đã ập đến gia đình vào năm 18 tuổi, Hạnh bị công an bắt vì một tội danh mang tên ‘phản động’. Những đợt khủng bố liên tiếp của CA nhắm vào bà mẹ thương con khiến bác Minh nhiều lần gục ngã vì sợ con gái bị bỏ tù. 

Thương mẹ, Hạnh hứa sẽ chuyên tâm lo học hành. Dù vậy, nhiều đêm nước mắt cô chảy dài, hình ảnh những dân oan kêu cứu vô vọng giữa dòng xe tấp nập Sài Gòn khiến Hạnh không thể ngồi yên. 

Đỗ Thị Minh Hạnh - thiên thần của giới công nhân và những dân oan thấp cổ bé họng

Một ngày, khi không còn nước mắt để khóc, Hạnh bắt đầu hành động. Cô âm thầm đến hỗ trợ người dân mất đất và công nhân bị bóc lột.  

Thời gian này, Hạnh vẫn phải vừa học vừa làm, nhờ vậy có nhiều cơ hội tiếp xúc với giới công nhân và hiểu thêm về tình cảnh bi đát của họ. Hạnh bắt đầu ấp ủ giấc mơ giúp công nhân tạo nên sự thay đổi và có đủ khả năng đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình.

Năm 2008, phong trào dân chủ Việt Nam bị đàn áp khốc liệt, hàng chục nhà hoạt động bị bỏ tù. Đỗ Thị Minh Hạnh đi đến một quyết định lớn trong cuộc đời: từ bỏ một công việc lương cao và tạm rời xa ghế nhà trường, cô muốn dành toàn bộ thời và công sức để dấn thân bảo vệ quyền lợi người lao động. 

Biến ước mơ thành hiện thực

Đối với một cô gái 23 tuổi, tham gia vào lãnh vực hoàn toàn mới lạ như bảo vệ quyền lợi người lao động là một công việc đầy gian truân và nguy hiểm. 

Trước Hạnh, hai nhà hoạt động khác là anh Đoàn Huy Chương và Trần Quốc Hiền đã bị chế độ CS kết án nhiều năm tù giam chỉ sau một thời gian ngắn cho ra đời Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam. Sự trả thù mạnh tay đối với những nhà hoạt động bảo vệ quyền công nhân luôn là một rào cản rất lớn.

Bắt đầu với những bước đi chập chững, Đỗ Thị Minh Hạnh bằng sự quyết tâm và lòng chân thành đã giúp nhiều người vượt qua sự sợ hãi ban đầu. Điện thoại của cô bắt đầu nhận nhiều các cuộc gọi từ công nhân gọi đến.

Việc ngày càng nhiều, đôi chân Hạnh không khi nào ngơi nghỉ, có khi sáng ở khu công nghiệp Đồng Nai, chiều đã có mặt trong các dãy nhà trọ tồi tàn ở Long An. Có lần, Hạnh đã gần như ngất xỉu vì thiếu ngủ.

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng - thanh
niên đầy hoài bão
Những cố gắng âm thầm của Hạnh đã tạo nên nhiều thành quả bước đầu, một số công nhân hiểu rõ hơn về quyền lợi chính đáng của mình và đã mạnh mẽ lên tiếng. Việc làm của Hạnh cũng giúp cô có được nhiều người ủng hộ hơn, trong đó có anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng - một thanh niên can đảm và đầy lý tưởng.

Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng ảnh hưởng nhiều từ ông Trần Ngọc Thành - chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động và cũng là một nhà hoạt động công đoàn kỳ cựu tại Ba Lan. Ông Trần Ngọc Thành từng là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, sau khi chứng kiến cuộc cách mạng Đông Âu với vai trò của Công đoàn Đoàn kết Ba Lan, ông Thành tuyên bố vứt thẻ đảng và tham gia đấu tranh.

Ông Trần Ngọc Thành là người đã hy sinh cả cuộc đời và gia sản để đấu tranh giành quyền lợi cho người lao động Việt Nam. Giống như hầu hết các thành viên của Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động, ông Trần Ngọc Thành và hai người bạn trẻ Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng cùng có chung một ước mơ sẽ thành lập một công đoàn độc lập đại diện cho giới công nhân lao động tại Việt Nam.

Những ước mơ lớn gặp nhau, ngày 29/10/2008, Phong Trào Lao Động Việt ra đời với sự hình thành các nhóm công nhân âm thầm hoạt động trên nhiều khu công nghiệp.

Nhu cầu phát triển phong trào công nhân khiến Hùng và Hạnh ngày càng hăng hái dấn thân, mặc dù điều kiện hết sức khó khăn và thường xuyên đối mặt với các mối nguy hiểm.

Từ một cô gái xinh đẹp, chỉ sau vài tháng Hạnh trở nên đen đúa vì nắng gió, khuôn mặt xanh xao vì làm việc quá sức và ăn uống thiếu chất. Tài sản duy nhất của Hạnh là chiếc xe máy Tàu cũng đã bị bán đi để có chi phí đi lại và làm việc.

Hạnh luôn tin tưởng rằng, không ai đơn độc trên con đường chính nghĩa. Thực vậy, sau quãng đường không ngừng nghỉ, hai bạn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt thành của những người bạn đồng hành mới, trong đó có anh Đoàn Huy Chương. 

Đoàn Huy Chương - người đấu tranh
không mệt mỏi
Đoàn Huy Chương là người sáng lập Hiệp hội Đoàn kết Công nông Việt Nam, bị chế độ CS bắt giam và kết án 18 tháng tù. Giữa năm 2008, Chương ra khỏi tù mang theo nhiều chứng bệnh nặng, bên cạnh nỗi lo cơm áo gạo tiền của người trụ cột gia đình. 

Đoàn Huy Chương mang hình ảnh của một người chiến sỹ phục quốc, ngọn lửa tranh đấu nhiệt huyết trong anh không bao giờ tắt. Bất chấp việc bị công an quản chế và theo dõi gắt gao, Chương vẫn bí mật liên lạc và tham gia làm việc cùng hai bạn Hùng, Hạnh.

Một điều có lẽ ít ai biết là vào năm 2009, sau khi vượt thoát sự theo dõi dày đặc của lực lượng công an, Đoàn Huy Chương một mình băng rừng vượt suối theo đường bộ và bí mật đến Thái Lan. Tại đây, Chương được một nhà hoạt động Miến Điện huấn luyện và hướng dẫn các kỹ năng tổ chức, hỗ trợ công nhân đình công, đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng.

Trở về Việt Nam mang theo những kiến thức học được, nhóm Hạnh - Hùng - Chương tiếp tục hăng say làm việc và đã đạt được những thành quả ngoài sức tưởng tượng. Sự tham gia hưởng ứng của giới công nhân nhiều tỉnh thành cùng sự hỗ trợ của Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động đã giúp Phong Trào Lao Động Việt có những bước đi vững chắc.

Nỗ lực không mệt mỏi của nhóm Hạnh - Hùng - Chương giúp giới công nhân mạnh mẽ đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính đáng. Nhiều cuộc đình công nổ ra từ từ Sài Gòn cho đến Trà Vinh, trong đó cuộc đình công tại nhà máy Mỹ Phong là một trong nhiều thành quả mà Phong Trào Lao Động Việt đạt được. 

Để có được hình ảnh sau cùng là cuộc đấu tranh của hơn 10 ngàn công nhân Trà Vinh, ngoài những nỗ lực vượt trội, ba người bạn trẻ  Hạnh - Hùng - Chương đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, máu xương và những tháng năm tù đày nghiệt ngã.

Vụ đình công tại Nhà máy Mỹ Phong

Trên thực tế, nhóm Hạnh - Hùng - Chương đã làm được nhiều việc rất đáng trân trọng và lớn lao hơn nữa. Tuy nhiên, do thời điểm chưa cho phép nên bài viết này chỉ xin kể lại vụ việc tại nhà máy Mỹ Phong như một ví dụ điển hình về hoạt động của ba bạn trẻ chúng ta.  

Nhà máy giày da Mỹ Phong là công ty có vốn 100% của Đài Loan, với 2 chi nhánh cùng đặt tại Trà Vinh, tổng cộng có khoảng 11.000 công nhân.

Đầu năm 2010, tại đây liên tục xảy ra nhiều trường hợp chuyên gia Trung Quốc, Đài Loan chửi bới, đánh đập lao động Việt Nam. Công nhân nữ bị chuyên gia nước ngoài ném giày vào mặt gây thương tích, số khác bị chửi bới, xúc phạm bằng cách phải chui xuống gầm bàn để nhặt những lô giày mà các chuyên gia này vừa ném đi. Nhiều trường hợp bị ngất xỉu vì làm việc quá sức... 

Mặc dù tình trạng vi phạm quyền lợi người lao động tại nhà máy Mỹ Phong diễn ra hết sức nghiêm trọng và đều diễn ra trước mặt cán bộ công đoàn nhà máy, nhưng phía công đoàn vẫn tỏ ra vô cảm. 

Cuối tháng 1/2010, trước tết nguyên đán 2 tuần, ban giám đốc công ty Mỹ Phong ngang nhiên ăn chặn tiền lương và thưởng tết của công nhân, điều này đã tạo nên làn sóng bất bình trong công ty. Một số người đã nhờ công đoàn nhà máy can thiệp, nhưng đáp lại vẫn là những cái lắc đầu vô cảm. Trên thực tế, các cán bộ công đoàn đều nhận tiền từ nhà máy Mỹ Phong, nên họ đứng về giới chủ và bỏ mặc công nhân.

Nhận được lời cầu cứu của một số anh chị em công nhân, ba bạn Hạnh - Hùng - Chương lập tức có mặt. Sau khi lắng nghe chia sẻ và hiểu nguyện cọng của giới công nhân, các bạn đã giải thích để những người lao động hiểu được quyền lợi chính đáng của mình. Đồng thời, một kế hoạch đấu tranh bằng cách đình công nhanh chóng được mọi người hưởng ứng.

Các yêu sách đòi hỏi quyền lợi chính đáng gửi lên lập tức bị ban giám đốc nhà máy Mỹ Phong vứt vào sọt rác. Căng thẳng giữa người lao động và giới chủ ngày một gia tăng. Thông tin về kế hoạch đình công bị bại lộ bởi sự trà trộn của cán bộ công đoàn.

Để ngăn chặn đình công, giới chủ công ty đã yêu cầu lực lượng bảo vệ và công an chi viện, đóng chốt ngay tại nhà máy. Đồng thời, để không cho công nhân tập trung, ban giám đốc ra lệnh khóa kín cổng các phân xưởng, ngăn cách mọi liên lạc. Hành động này khiến một số công nhân nữ bị nhốt đã ngộp thở dẫn đến ngất xỉu. Sự phẫn nộ ngày một gia tăng nhưng chưa ai dám đứng lên kêu gọi đấu tranh.

Công nhân nhà máy Mỹ Phong (Trà Vinh) đình công đòi quyền lợi

Ngày 28/01/2010, ba thanh niên trong màu áo công nhân đã vượt thoát hàng rào công an, bảo vệ dày đặc để xuất hiện bên trong nhà máy đúng vào giờ nghỉ. Ba thanh niên này chính là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương. Lời kêu gọi đình công đấu tranh ngay lập tức vang lên và nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ, dẫn đến những cuộc đình công kéo dài liên tiếp trong nhiều ngày. 

Đáp lại, ban giám đốc ra lệnh khóa chặt cổng các phân xưởng nhằm không cho công nhân ra ngoài. Việc đóng kín cổng đã khiến 16 nữ công nhân ngất xỉu do ngộp thở, buộc lòng các công nhân phải phá cổng để đưa những người ngất xỉu đi cấp cứu.

Liên đoàn lao động tỉnh Trà Vinh liền xuất hiện tạo dựng hiện trường đập phá giả nhằm vu khống cuộc đình công. Hai công nhân tham gia đình công bị giám đốc và bảo vệ công ty bắt giữ, sau đó giao nộp cho công an. Hành động này như đổ dầu vào lửa, sự phẫn nộ leo thang có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát.

Nhóm Hạnh - Hùng - Chương đã kiên trì giải thích và nhận được sự hưởng ứng của nhiều công nhân. Cuộc đình công diễn ra có tổ chức và giúp ngăn chặn được một số hành động thiếu kiềm chế như đập phá máy móc, nhà xưởng...

Sau 3 ngày đình công liên tiếp, ban giám đốc nhà máy Mỹ Phong đã buộc phải xuống nước, chấp thuận yêu sách cả thiện mức lương. Do là thời điểm gần tết, nhiều công nhân cần tiền để lo cho gia đình nên đã tỏ ý muốn quay trở lại làm việc. Bầu không khí phân vân bắt đầu xuất hiện trong giới công nhân.

Đỗ Thị Minh Hạnh và các bạn cô cho rằng, việc chấp nhận chế độ lương bổng cho công nhân chỉ là giải pháp đối phó của công ty, và đây không phải là mục đích cao nhất của cuộc đình công. Cho dù tăng lương, nhưng giới chủ công ty vẫn tiếp tục xúc phạm, hành hung người lao động như trước thì vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề. 

Lập tức, một kế hoạch khác được nhóm Hạnh - Hùng - Chương gấp rút thực hiện ngay trong đêm. 

Truyền đơn tại nhà máy Mỹ Phong, Trà Vinh

Ngày 31/1 và 1/2/2010, xung quanh nhà máy Mỹ Phong xuất hiện hàng ngàn truyền đơn kêu gọi tiếp tục đình công, đấu tranh cho những công nhân bị đuổi việc trước đó, đòi hỏi thành lập công đoàn do chính công nhân bầu ra, yêu cầu công ty phải tôn trọng nhân phẩm người lao động... Những truyền đơn này sau đó đã được truyền tay đến rất nhiều người, khiến những công nhân đang quay trở lại làm việc cũng lập tức nghỉ việc để tham gia cuộc đình công.

Lần đầu tiên sau năm 1975, tại Việt Nam xuất hiện một cuộc đình công mà người lao động mạnh mẽ yêu cầu trách nhiệm của giới công đoàn, đòi hỏi phải được tôn trọng nhân phẩm và đấu tranh cho những công nhân khác. Một cuộc đình công với thái độ rõ ràng và tinh thần đoàn kết rất cao.

Chính điều này đã khiến phía công ty tỏ ra lúng túng khi bắt đầu xuống nước đối thoại với công nhân. Ngay cả khi phía công ty chấp nhận yêu sách về lương bổng cũng không thể khiến các cuộc đình công chấm dứt. Đòi hỏi được tôn trọng nhân phẩm là điều kiện tiên quyết để người lao động quay trở lại làm việc.

Thậm chí, lực lượng hỗn hợp gồm công an, Liên đoàn lao động cùng đại diện giới chức Trà Vinh phải vất vả kéo đến can thiệp nhưng vẫn không giải quyết được tình hình. 

Cuối cùng, sau 7 ngày đình công liên tục, phía công ty buộc lòng phải đáp ứng hoàn toàn các yêu sách được đưa ra, công nhân nhà máy Mỹ Phong mới bắt quay trở lại làm việc.

Cuộc đình công của hàng vạn công nhân Mỹ Phong đã thành công vang dội, gây được sự ảnh hưởng tích cực đối với công nhân các nhà máy lân cận. Tuy nhiên, sự thành công quá lớn của một cuộc đình công có kỷ luật đã khiến lực lượng công an huy động lực lượng truy tìm 3 người đứng sau tổ chức.


Công nhân nhà máy Mỹ Phong (Trà Vinh) đình công




Trả thù nghiệt ngã

Năm 2010, nhà cầm quyền CSVN rầm rộ chuẩn bị đại lễ Nghìn năm Thăng Long cùng với việc gia tăng đàn áp nhân quyền. 16 nhà hoạt động bị kết án và bỏ tù chỉ vì thể hiện lòng yêu nước, lên tiếng đòi tự do dân chủ.

Phong trào Lao Động Việt gồm Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương cùng nhiều người khác lên kế hoạch rải truyền đơn mang tên “Lời Kêu gọi Ngàn Năm Thăng Long”, cảnh báo họa xâm lăng Trung Quốc, kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh đòi dân chủ nhân quyền cho Việt Nam.

Liên tục nhiều ngày trong dịp tết Canh Dần năm 2010, hàng trăm ngàn truyền đơn “Lời Kêu gọi Ngàn Năm Thăng Long” được phát tán khắp Sài Gòn, Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Riêng trong sáng ngày 9/2/2010, truyền đơn xuất hiện tràn ngập tại các quận Tân Bình, Bình Tân, Tân Phú, Bình Chánh, Quận 10… Nhiều nơi, truyền đơn trắng xóa cả tuyến đường.

Bộ công an Việt Nam lập tức ban hành công điện khẩn cấp truy nã, bằng mọi giá phải bắt nhóm ba bạn Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương. 

Ngày 11/02/2010, công an bắt giữ anh Đoàn Huy Tâm, anh trai của Đoàn Huy Chương, đồng thời bắn tin với gia đình sẽ thả anh Tâm nếu Chương ‘chịu ra đầu thú’. Sau khi thông báo tình hình gửi lời chia tay đến với Hùng và Hạnh, ngày 13/02/2010, Chương trực tiếp đến cơ quan công an để cứu anh trai và bị bắt mất tích từ đó.
Đỗ Thị Minh Hạnh trước khi bị bắt

Sau khi Chương bị bắt, Hạnh và Hùng biết rằng sắp đến lượt mình. Hạnh dành những ngày ít ỏi còn lại để trở về Di Linh chăm sóc mẹ, còn Hùng vẫn tiếp tục đi khắp các tỉnh rải truyền đơn.

Trong những ngày sau cùng, Hạnh tâm sự với bạn bè rằng “Ước gì có thêm thời gian, mình sẽ làm được nhiều việc hơn cho đất nước”, khi ấy không ai hiểu điều chị nói. 

Ngày 23/02/210, Hạnh bị công an bắt và đánh đập dã man tại Dinh Linh. Khi cơ quan công an áp giải Hạnh về nhà lục soát, dù đã bị còng tay, nhưng cô vẫn tiếp tục bị đánh bởi những cú đấm vào đầu và mặt.

Khuôn mặt be bét máu của con gái lúc bị công an bắt đã khiến bà Minh - mẹ Hạnh vô cùng hoảng sợ. Nhiều tháng trời, bạn bè Hạnh không thể liên lạc với gia đình. Người mẹ ấy không muốn bạn bè con gái mình bị liên lụy, bà không muốn bất cứ ai phải chịu trận đòn thù tương tự như những gì con bà phải chịu đựng. Đến nay, mỗi khi nhớ lại trận đòn kinh hoàng của công an đối với Hạnh, khuôn mặt bà Minh lại ràn rụa nước mắt.   

Vài tiếng sau khi Hạnh bị bắt, lúc rạng sáng ngày 24/02, công vây bắt Nguyễn Hoàng Quốc Hùng khi anh đang rải truyền đơn tại Đồng Nai. Ngay đêm hôm đó, Hùng bị công an đánh đập và tra khảo hết sức tàn nhẫn. Hùng bị biệt giam suốt 8 tháng trời, gia đình không được tiếp xúc. 

Ngày 26/10/2010, phiên tòa sơ thẩm không luật sư, không báo chí được mở ra tại Tòa án Nhân dân tỉnh Trà Vinh. Nhân chứng có mặt tại phiên tòa hôm ấy là một công nhân Mỹ Phong từng bị đuổi việc vì tham gia đình công. 

Trước khi áp giải đến tòa, công an đã đe dọa và ép buộc anh công nhân này phải tố cáo nhóm Hạnh Hùng Chương, và phải khai theo những gì soạn sẵn. Dù vậy, khi đến phần xét hỏi, anh công nhân liền phản bác bản cung, anh một mực nói rằng Chương đến giúp anh ta tìm một công việc tốt hơn tại Sài Gòn, ngoài ra không nói bất cứ điều gì bất lợi cho Chương.

Người công nhân này sau đó quay sang mỉm cười, gật đầu chào Chương. Rồi anh đưa mắt nhìn về những viên công an đang bừng bừng nổi giận, anh công nhân sẵn sàng đón nhận tất cả sự trả thù sắp giáng xuống cho gia đình.
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam. Người ngồi ghế là Đoàn Huy Chương bị kết án 7 năm tù giam

Tại tòa, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng trông nhợt nhạt và tiều tụy với những bước đi mệt mỏi. Hùng lên tiếng tố cáo việc bị CA bức cung và tra tấn, thậm chí suýt bị nguy hiểm đến tính mạng. Anh hổn hển nói từng câu khó nhọc, nhưng chưa dứt lời thì chiếc micro bị cắt.
Phiên tòa diễn ra chóng vánh và kết thúc với một bản án nặng nề cho cả ba bạn. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương bị kết án 7 năm tù giam. Cả ba bạn trẻ đều không nhận tội, không xin khoan hồng. 

Cuối phiên xử, để tạm biệt hai bạn, Hạnh cười rất tươi và nói lớn: “Anh Hùng, anh Chương ơi. Em hát cho hai anh nghe nha”. Rồi cô cất tiếng hát bài “Tiễn bạn lên đường” ngợi ca tình bạn lúc chia tay. Giọng cô trong trẻo, thánh thót vang lên giữa phiên tòa ô nhục của chế độ. Đoàn Huy Chương hát theo những câu điệp khúc. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng dù không còn hơi sức nhưng vẫn nở nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt nhợt nhạt, lần đầu tiên anh cười kể từ lúc bị lôi đến phiên tòa với hai công an kè kè sốc nách.

Khi Chương vừa hát xong thì anh liền bị đánh và lôi đi. Hạnh cũng bị lôi ra xe, một viên công an cầm dùi cui đánh vào gáy cô, rồi một người khác nắm tóc đập đầu vào thành xe nhiều lần. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng còn lại chút hơi tàn cố hét lớn “Đả đảo cộng sản” trước khi anh bị đánh gục ngay tại chỗ. 

Trong tù, cả ba bạn trẻ tiếp tục bị trả thù và hành hạ vô cùng nghiệt ngã. Trong một lần gặp vợ, Đoàn Huy Chương đã bật khóc và xin lỗi vợ, anh nói không biết còn có thể sống được đến ngày ra tù hay không. Còn Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị điếc hoàn toàn phần tai trái sau nhiều lần bị công an đánh vào đầu, một bên ngực của cô teo cứng lại - dấu hiệu của bệnh ung thư vú. Gia đình Hạnh đã nhiều lần yêu cầu được đưa đi khám chữa bệnh, nhưng phía trại giam không hề đáp ứng.

Ước mơ nối tiếp ước mơ

Đỗ Thị Minh Hạnh - thiên thần trong ngục tối
Dù bị tù đày khắc nghiệt, Đoàn Huy Chương tiếp tục đấu tranh tuyệt thực trong trại giam Z30A để đòi quyền lợi chính đáng. Đỗ Thị Minh Hạnh từ chối lao động nhằm phản đối trại giam Thủ Đức bóc lột sức lực tù nhân và làm giàu cho cán bộ quản giáo. Công an buộc phải chuyển Đỗ Thị Minh Hạnh ra trại giam tận Hà Nội nhằm ngăn chặn tầm ảnh hưởng của cô đối với những tù nhân khác.

Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương vẫn luôn tiếp tục đấu tranh trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, thậm chí có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Tinh thần dấn thân của cả ba bạn là tấm gương và nguồn cảm hứng mãnh liệt cho những người đấu tranh ở trong và ngoài nước.

Dù buộc phải lui vào hoạt động bí mật, Phong trào Lao Động Việt vẫn tiếp tục ước mơ còn dang dở của ba bạn Hạnh - Hùng - Chương.

Nhiều hoạt động như phát tờ rơi, hướng dẫn quyền lao động, đình công có tổ chức… trong những năm vừa qua đều mang dấu ấn của 3 người bạn trẻ tiên phong mở đường.  

Bên ngoài, Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động gồm bà Ca Dao, các ông Nguyễn Đình Hùng, Đoàn Việt Trung, Nguyễn Tánh, Trần Ngọc Thành… đã bí mật đưa mẹ Hạnh là bà Trần Thị Ngọc Minh sang Châu Âu, bắt đầu chiến dịch vận động quốc tế đòi trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh và tất cả các tù nhân lương tâm tại Việt Nam. 

Mỗi lần nhắc đến con, bà Minh đều bật khóc
Ảnh: Huỳnh Minh Tú
Trong lần vào trại giam cuối cùng trước khi rời Việt Nam, bà Minh nước mắt chảy dài ôm con và nói: “Má sẽ làm tất cả để con được tự do, dù có phải đi đến tận cùng trời cuối đất má cũng sẽ đi kêu cứu cho con. Má sẽ...”, bắt gặp ánh mắt chăm chú của người cán bộ quản giáo, bà Minh chợt im lặng. Đã hai năm qua, người mẹ ấy chưa được nói lời từ biệt con, và cũng chưa có cơ hội gặp lại con. Trong những chuyến vận động sang tận Mĩ, Úc… đêm nào bà cũng khóc nhớ con.
Ngày 17/1/2014, một đại hội được tổ chức tại Thái Lan đã công khai tuyên bố thành lập Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt. Đây là một liên minh với sự tham gia của 4 tổ chức, gồm: Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, Phong Trào Lao Động Việt và Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam. 

Đại hội kỳ 1 đã bầu ông Trần Ngọc Thành giữ chức Chủ tịch, Lao Động Việt chính thức hoạt động bán công khai sau một thời gian phải bí mật. Bước đầu, Lao Động Việt đã thành lập được một số công đoàn cơ sở tại Malaysia và Việt Nam.

Sự ra đời của Lao Động Việt là nỗ lực giúp phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của giới công nhân cả nước ngày càng mạnh mẽ, một công đoàn thực sự đại diện cho người lao động.

Cùng với xu thế thời đại, xã hội dân sự Việt Nam có những bước đi vững chãi cùng những lợi ích từ TPP mang lại đã góp phần mở ra vận hội mới cho hoạt động công đoàn độc lập tại Việt Nam. Chưa bao giờ phong trào đấu tranh cho quyền lợi người lao động được quan tâm và đòi hỏi mạnh mẽ như hiện nay. Tuyên bố chung của 18 tổ chức dân sự hôm 8/6 cũng đã ủng hộ việc phải có một công đoàn độc lập tại Việt Nam. 

Trong thời gian sắp tới, cuộc đấu tranh cho quyền lợi người lao động sẽ còn rất nhiều thử thách và chông gai. TPP không phải là cây gậy thần có thể khiến chế độ toàn trị chấp nhận cạnh tranh trong các hoạt động công đoàn - lãnh vực mà đảng cộng sản tự cho mình cái quyền độc tôn thống trị. Sự trở mặt sau khi nhà cầm quyền CSVN được vào WTO và tổ chức xong hội nghị APEC hồi 2006 là những bài học còn rất gần.

Dù vậy, Đỗ Thị Minh Hạnh cùng các bạn của cô đã để lại những di sản vô cùng quý giá về tình đoàn kết, thái độ đấu tranh kiên cường và tinh thần bất khuất trước bạo quyền.

Sự đoàn kết của 4 tổ chức tạo thành Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do chính là sự tiếp nối ước mơ và con đường mà Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã mở lối tiên phong.

Trong một cuộc phỏng vấn vào lúc cận kề ngày bị bắt, Đỗ Thị Minh Hạnh từng nói: “Nếu chúng ta không lên tiếng thì ai sẽ lên tiếng? Nếu chúng ta không làm thì ai sẽ làm? Và nếu như có nguy hiểm đi chăng nữa thì chúng tôi vẫn chấp nhận điều đó.”

Chấp nhận hiểm nguy, nhóm ba người bạn Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã hy sinh những năm tháng đẹp nhất đời người để cống hiến và đấu tranh cho quyền lợi người lao động. Trong cảnh sống lao tù, cả ba vẫn trước sau như một: không nhận tội, không sợ hãi, không lùi bước.

Hôm 13/3/2014, trong ngày sinh nhật lần thứ 5 trong tù, Đỗ Thị Minh Hạnh đã nhờ ba gửi đến tất cả mọi người bức thư như sau:


“Con xin cảm ơn tất cả mọi người đã yêu thương và dành tình cảm đặc biệt cho con trong ngày sinh nhật. Thật ấm áp và hạnh phúc. Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017”.

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017” - Hạnh bị bắt vào năm 2010 khi 25 tuổi, đến ngày mãn hạn bản án 7 năm tù giam vào năm 2017 thì cô đã bước sang tuổi 32. Những năm tháng đẹp nhất đời người con gái trôi qua sau song sắt nhà tù. 

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017” - lời nhắn nhủ của Hạnh gửi đến tất cả chúng ta. Hạnh không nhận tội, không xin khoan hồng và cũng không thỏa hiệp để được ra tù trước thời hạn. Cô chấp nhận ngồi tù đến khi hết án chứ không xin xỏ chế độ độc tài.

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017” - sợ rằng khối u trong ngực sẽ không cho phép Hạnh sống được đến ngày đó. Mặc dù dấu hiệu ung thư đã quá rõ ràng, nhưng nhà cầm quyền CSVN vẫn không để gia đình đưa Hạnh được khám chữa bệnh đúng chuyên khoa. Phải chăng, chế độ độc tài muốn trả thù Hạnh bằng cách để cô chết dần chết mòn như đã từng làm với thầy giáo Đinh Đăng Định?

Dứt khoát, công đoàn độc lập sẽ luôn phải gắn liền cuộc đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động và cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho những người tiên phong là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và tất cả các tù nhân lương tâm khác. Vốn quý của dân tộc dứt khoát phải được tự do, đây cũng là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước đến dân chủ và cường thịnh.

Ước mơ của Hạnh cũng chính là ước mơ của Chúng Ta!


Featured Post

Lisa Pham Vấn Đáp official19/4/2024

Popular Posts

My Blog List