Cải
cách điền địa ở Việt Nam Cộng Hòa ra sao?
Phỏng vấn Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa về Thảm Họa
Bắc Thuộc
Nguyễn Quang DuyGửi tới BBC từ Úc
Ông Ngô Đình Diệm đã
tiến hành cải cách nông thôn khi còn làm Thủ tướng
Trong khi miền Bắc phóng
tay Cải cách Ruộng đất tiêu diệt tầng lớp địa chủ thì chính quyền miền Nam liên
tục tiến hành tư hữu hoá đất đai, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống
nông dân.
Qua việc thu mua đất từ
các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình
nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu của mình.
Chương trình Người Cày
Có Ruộng (NCCR) là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn
miền Nam.
Chương trình được thực
hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật pháp, hoà giải và hòa hợp
xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ đất, khôi phục và bảo vệ quyền tư
hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể nông dân có ruộng cày.
Thành công một phần nhờ
vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh.
Nhưng chính yếu vẫn là
từ hai vị lãnh đạo miền Nam: Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện chương trình
ngay khi về nước và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện
chương trình.
Ông Thiệu hiểu rõ Luật
NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ nghị viện non trẻ, mà còn là
một chính sách mang lại chính nghĩa cho công cuộc đấu tranh chống cộng sản.
Những tài liệu phổ biến
gần đây cho thấy, sau Mậu Thân 1968 số thanh niên miền Nam theo cộng sản càng
ngày càng ít đi, không đủ bổ xung số cán binh cộng sản ra hồi chánh, lên đến
trên 200.000 người.
Chính vì lý do này cộng
sản Bắc Việt đã phải mang quân chính quy từ miền Bắc vượt biên giới xâm lấn
miền Nam.
Tình hình ruộng đất miền Nam
Khi quân Pháp xâm chiếm
nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được khẩn hoang, nhiều vùng vì chiến
tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn.
Lợi dụng cơ hội một số
người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông đồng với nhà cầm quyền Pháp
hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm được. Trước 1945, theo ước tính
trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha đất) có 6.316 là ở miền Nam.
Miền Nam không xảy ra
Cải cách Ruộng đất, không có nghĩa là cộng sản miền Nam nhân đạo hơn cộng sản
miền Bắc.
Từ cuộc Nam Kỳ Khởi
Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay tàn sát tiêu diệt giai cấp điền chủ. Các sử
liệu cộng sản tóm tắc việc này như sau: “…lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản
động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa các khoản nợ, tịch thu đất thóc gạo của
địa chủ chia cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân.”
Khi Việt Minh cướp được
chính quyền năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều bỏ ruộng vườn về sống tại
Sài Gòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch thu ruộng đất rồi chia cho tá
điền canh tác và lấy thuế.
Ở các vùng thuộc Hòa Hảo
và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia lại ruộng đất hoặc chấm dứt
nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng cấy.
Sắc lệnh Cải cách Điền
Địa của Cựu Hoàng Bảo Đại vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên không mang lại
kết quả cụ thể
Năm 1949, khi người Pháp
bắt đầu trao trả độc lập Cựu Hoàng Bảo Đại cho ban hành sắc lệnh về Cải cách
Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên sắc lệnh này
không mang lại kết quả cụ thể nào.
Sau hiệp định đình chiến
Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính
sách về ruộng đất.
Cải cách điền địa lần một
Bước đầu của chính sách
cải cách điền địa, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm
thiết thiết lập quy chế tá canh.
Địa tô được tính không
quá 25% vụ lúa thu hoạch chánh. Thời gian cho thuê được quy định là 5 năm. Tá
điền và điền chủ có thể xin hủy bỏ họăc tái ký hợp đồng.
Trường hợp ruộng đất bị
bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn ha, thì thuộc quyền sở hữu quốc gia. Chính quyền
thu và cấp phát không cho tá điền.
Các tá điền trước đây
theo Việt Minh được tiếp tục canh tác trên mảnh ruộng do Việt Minh cấp phát
trong thời chiến. Địa tô và quyền tá canh nay được chính phủ nhìn nhận và bảo
đảm.
Ngày 22-10-1956, Tổng
thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ.
Mỗi điền chủ chỉ được
quyền giữ tối đa 100 ha ruộng, trong số nầy 30 ha được phép trực canh, còn 70
ha phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế tá canh.
Ðiền chủ bị truất hữu
được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả
ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12
năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng bị truất hữu được
bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải
trả cho nhà nước trong vòng 12 năm.
Giá tiền bán bằng với
giá Chính phủ trả cho chủ điền. Như vậy chủ yếu Chính phủ chỉ làm trung gian
trong việc chuyển nhượng quyền tư hữu đất đai.
Chiếu theo Dụ số 57,
chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ.
Một số ruộng truất hữu
cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi
hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam
Ngày 11-9-1958, Chính
phủ còn ký kết Hiệp định Việt Pháp, truất hữu thêm 220.813 ha ruộng đất của
Pháp kiều. Như vậy tổng số diện tích đất đai được truất hữu là 651.182 ha.
Số ruộng được truất hữu
được giao cho 123.198 tá điền. Ngoài ra còn có 2.857 tá điền khác đã trực tiếp
mua lại đất của các đại điền chủ.
Một số ruộng truất hữu
cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi
hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Giới điền chủ đều ủng hộ
chính sách CCĐĐ. Trong thời chiến ruộng đất của họ bị xem như đã mất.
Nay chính phủ khôi phục
lại quyền sở hữu ruộng đất, họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng
thiệt hại nếu bị truất hữu. Đại điền chủ vẫn còn được giữ lại 100 ha.
Các chính sách khác
Nhằm giải quyết công ăn
việc làm cho đồng bào miền Bắc di cư, giải quyết nạn thất nghiệp hậu chiến và
đồng thời cũng để cô lập họat động du kích cộng sản, Tổng thống Ngô đình Diệm
còn thực hiện chính sách xây dựng các khu dinh điền, khu trù mật và các ấp
chiến lược.
Đến năm 1961, chính phủ
đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng
bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư.
Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Tháng 4-1957, Tổng thống
Ngô Đình Diệm cho thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho nông dân vay tiền một
cách dễ dàng, nhẹ lãi và không đòi hỏi thế chấp hay người bảo lãnh.
Đến năm 1963, Quốc Gia
Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền lên đến 4 tỷ 600 triệu đồng, 85% số tiền để
giúp các tiểu điền chủ hay tá điền. Nhưng vì không có thế chấp và vì chiến
tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ.
Chính phủ cũng đào tạo
cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho
nông dân. Nhờ đó năng suất lúa đã tăng từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954,
lên đến 2 tấn/ha năm 1960-1963.
Thành quả và giới hạn
Nhờ các chính sách nói
trên, việc sản xuất, xuất cảng và lợi tức nông nghiệp đã không ngừng gia tăng.
Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu
tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn.
Các điền chủ có ruộng
đất truất hữu nhận các các khỏan bồi thường lớn, họ đầu tư xây dựng các nhà
máy, các phân xưởng tại nông thôn, hay trong lĩnh vực công nghiệp, thương
nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ riêng nông thôn, mà tòan miền Nam sống
trong cảnh thái bình.
Giới hạn của chính sách
CCĐĐ là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thuộc
65.757 trung điền chủ (từ 5 đến 50 ha) và 6.316 đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn
còn 795.480 gia đình nông dân chưa được làm chủ mảnh ruộng đang cày.
Khi đời sống nông dân
nâng cao thì ảnh hưởng của cộng sản cũng bị giảm sút. Để tồn tại cộng sản đã
tiến hành bạo lực chính trị ám sát, bắt và thủ tiêu cán bộ và chuyên viên phát
triển nông thôn.
Cộng sản cấm tá điền làm
đơn xin mua ruộng đất truất hữu, cấm tá điền ký hợp đồng với chủ điền, buộc
điền chủ hủy bỏ địa tô. Một số ngừơi đã bị giết vì không tuân theo các lệnh cấm
nói trên.
Từ sau đảo chánh 1/11
năm 1963 cho đến năm 1965, các chính phủ thường xuyên thay đổi, chính sách Cải
cách Điền Địa không được tiếp tục, dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ,
nhiều ấp chiến lược bị phá bỏ
Cùng lúc cộng sản cho
trưng thu thóc lúa của nông dân, tiến hành chiến tranh du kích, khủng bố phá
họai làng xã miền Nam.
Sau đảo chánh 1/11 năm
1963 cho đến năm 1965, các vụ đảo chánh liên tục xảy ra, các chính phủ thường
xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ không được tiếp tục. Chính sách dinh điền và
khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều ấp chiến lược bị phá bỏ.
Cộng sản lợi dụng tình
thế đưa cán bộ và quân đội từ miền Bắc vào gia tăng họat động. Sẵn cơ sở hạ
tầng rộng rãi chỉ sau một thời gian ngắn cộng sản đã kiểm sóat được một phần
nông thôn. Ở những vùng chiếm được cộng sản chia lại ruộng đất cho nông dân.
Đến năm 1965, với sự can
thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần
được vãn hồi.
Ngày 3-9-1966, Quốc Hội
Lập Hiến được bầu ra. Ngày 1-4-1967, Hiến Pháp mới được ban hành. Ngày 3-9-1967
cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra, Tướng Nguyễn Văn Thiệu trở
thành Tổng thống của nền Ðệ nhị cộng hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương
Trình CCĐĐ.
Cải cách điền địa lần hai
Cuộc tổng công kích Mậu
Thân cộng sản thất bại, tại nông thôn cơ sở hạ tầng cộng sản bị cô lập, an ninh
được vãn hồi. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay được cấp phát cho nông dân.
Đến năm 1969, có thêm
261.874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên
438,004 người.
Tháng 7-1969, Chương
trình bình định và phát triển nông thôn được tiến hành. Chính phủ cho tổ chức
lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng
quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật nông nghiệp cho dân.
Ngày 25-8-1969, Tổng
Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận.
Điểm chính của dự luật
là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha, trưng thu và cấp (không
bồi hoàn) cho hơn tãm trăm ngàn nông dân chưa có ruộng cày.
Chiến tranh đã tàn phá
miền Nam Việt Nam
Nhiều dân biểu nghị sĩ
thuộc tầng lớp đại điền chủ không muốn bị truất hữu ruộng đất nên đã tìm cách
ngăn cản thông qua dự luật. Mãi đến ngày 6-3-1970 đạo luật mới được Thượng viện
thông qua. Ngày 16-3-1970 được Hạ viện thông qua.
Ngày 26-3-1970, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày
này làm Ngày Nông Dân.
Tại Cần Thơ vào ngày
26-3-1970, ngày ban hành Luật NCCR Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
"Hôm nay là ngày
vui sướng nhất của đời tôi.” Ông cho biết: “Tôi đã từng tham gia Việt Minh. Tôi
biết rằng Việt Minh là cộng sản, họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ
tịch thu đất đai”.
Các ruộng đất không được
trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang canh tác. Mỗi tá điền được
phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần.
Điền chủ trực canh được
giữ lại tối đa 15 ha.
Đất truất hữu được trả
20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10% lãi trong tám năm. Giá trị
của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh
đất đó.
Trong vòng 3 năm,
1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu.
Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa số các điền chủ bị truất
hữu đều không bất mãn.
Để đền đáp chính phủ cho
phổ biến rộng rãi các bích chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy
sinh của điền chủ.”
Nhìn chung ông Thiệu thu
phục được nhân tâm của giới cựu điền chủ miền Nam.
Luật NCCR cũng quy định
nông dân lãnh ruộng do cộng sản cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu
số ruộng.
Cho đến ngày 28-2-1973
Chương trình CCRĐ coi như đã hòan tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa
1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam đều có ruộng cày.
Chương trình NCCR đã tạo
ra một tầng lớp tiểu và trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
(trái) công bố luật Người Cày Có Ruộng
Chỉ còn chừng 10% là có
từ 5-15 ha đất, với 10% diện tích trồng trọt và họ cũng phải tự chăm sóc cho
đất đai. Đại điền chủ không còn và việc tá canh coi như đã chấm dứt.
Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu cũng cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, thêm cán bộ xây dựng nông
thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng phương pháp canh tác mới với kỹ thuật
mới thúc đẩy gia tăng năng suất.
Ngân Hàng Phát Triển
Nông Thôn được thành lập. Với bằng khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu
tư sản xuất.
Chương trình cơ giới hóa
nông nghiệp được đưa về nông thôn. Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh
tác, sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng
gia sản xuất gia súc lai giống… Cơ sở hạ tầng phát triển nông dân hăng say học
hỏi và sản xuất.
Năng suất lao động trong
sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Năm 1974, sản lượng gạo sản xuất đã tăng
đến 7,2 triệu tấn với viễn tượng xuất cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được
cải thiện một cách rõ ràng.
Số điền chủ có ruộng bị
truất hữu, cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn kinh doanh các dịch vụ cơ
khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, dịch vụ chế biến
thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp
nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
Thể chế đi ngược lòng
dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương trình Người Cày Có Ruộng của
Việt Nam Cộng Hòa là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân.
Chính phủ tương lai ở
Việt Nam cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân sách
đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới
mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam và lịch sử đã
chứng minh họ luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân
có giàu thì nước mới mạnh.
Nhìn lại 'Cải cách Ruộng Đất' ở Miền Bắc Việt Nam
76 - Cải Cách Ruộng
Đất 1
<iframe
width="624" height="315"
src="//www.youtube.com/embed/MhtWSQznlHw" frameborder="0"
allowfullscreen></iframe>
Mặc dù cuộc cải cách
ruộng đất do Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện 60 năm về trước đã trôi qua,
nhưng nhiều người vẫn chưa thể 'quên được' 'sự thật' vẫn chưa được Đảng nói ra
hết, cũng như Đảng phải nhìn nhận 'tội lỗi' của mình, theo một khách mời của
tọa đàm trực tuyến về "Cải cách ruộng đất" do BBC thực hiện hôm 18/9/2014.
Từ Moscow, hôm thứ Năm,
ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp của Hà Nội,
nguyên cán bộ sửa sai cải cách ruộng đất của Đảng ở ngoại thành Hà Nội, một nhà
bất đồng chính kiến nhiều năm tị nạn chính trị ở Nga, cho rằng Đảng và chính
quyền phải 'sám hối'. Ông nói:
"Bây giờ cải cách
ruộng đất đã qua rồi, chúng ta muốn quên đi, nhưng mà sự thực không quên được.
Vì sao, bởi vì tôi đã rất đồng ý với nhà văn Trần Mạnh Hảo, là vì trước hết Nhà
nước, Đảng cầm quyền phải nói sự thật, phải nhìn nhận tội lỗi của mình, phải
sám hối, mới xóa bỏ được hận thù.
"Mới xóa bỏ được:
thôi, ta coi vấn đề cải cách ruộng đất là qua rồi. Điều đó nhà nước chúng ta
không làm, cuộc triển lãm vừa qua không làm. Đó là điều thứ nhất tôi xin khẳng
định như thế.
Điều thứ hai là bây giờ
rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải
cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là
phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của
nông dân
Ông Nguyễn Minh Cần
"Điều thứ hai là
bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một
cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa,
mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất
của nông dân và đem ruộng đất trả lại cho nông dân."
'Quyết tìm sự thật'
Nhà văn Trần Mạnh Hảo,
một nhân chứng mà gia đình là 'nạn nhân' của cuộc cải cách, như ông tự giới
thiệu, nói với cuộc tọa đàm từ Sài Gòn:
"Tôi cho rằng lịch
sử phải được thể hiện một cách trung thực, nếu tất cả lịch sử bị bóp méo, và bị
dối trá hóa, bị tuyên truyền nhảm, tức là bịa ra lịch sử để sự tuyên truyền,
thì chừng đó, sau này dù thời gian sau này chăng nữa, con cháu chúng ta họ vẫn
quyết tâm đi tìm sự thật.
"Bởi vì sự thật,
chỉ có sự thật mới giải phóng được con người. Chỉ có sự thật mới giúp chúng ta
nhìn nhận chân lý, cái gì sai, cái gì đúng, còn cứ bịa chuyện, cứ bịp bợm nhân
dân, thì mọi thứ sẽ không bao giờ tốt đẹp."
"Tôi không muốn nói
lại cuộc cải cách ruộng đất, bởi vì vết thương của gia đình tôi, bố mẹ tôi. Bố
tôi bị bắt, mẹ tôi phải nuôi ba đứa con, tôi phải đi bắt rận thuê để lấy gạo
nấu cháo cho mẹ ăn và các em ăn, tức là rất là thảm.
Và những gia đình bị bắn
ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng
mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách
tốt đẹp được
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
"Đẩy gia đình chúng
tôi vào thảm kịch có thể chết đói cả ba bốn mẹ con. Và cuộc cải cách ruộng đất
tôi đã nhìn thấy nông dân ở làng đến lấy ở nhà tôi từng cái đũa, cái bát, cái
mâm, cái hòn gạch, phá nhà, phá cửa, cướp hết toàn bộ những tài sản của gia
đình chúng tôi, mà một gia đình lao động, không bao giờ là địa chủ.
"Và những gia đình
bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan
hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải
cách tốt đẹp được."
'Không có cơ sở'
Từ Paris, nhà văn Vũ Thư
Hiên, tác giả của cuốn hồi ký chính trị "Đêm giữa ban ngày" đặt vấn
đề liệu vào thời điểm tiến hành cuộc cải cách, Đảng có tiến hành một cuộc điều
tra 'đàng hoàng không'.
Nhà văn đặt câu hỏi cho
ông Nguyễn Minh Cần:
"Thắc mắc của tôi
là vào giai đoạn đó, có một cuộc điều tra về cải cách ruộng đất đàng hoàng
không, thành lập được mấy đoàn điều tra, đã đi những địa phương nào để điều tra
cải cách ruộng đất, trưởng phó đoàn là ai và báo cáo về cải cách ruộng đất để
chuẩn bị cho cải cách ruộng đất có hay không?"
Sự thực ở đây là không
chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi vân vân,
thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả
Ông Nguyễn Minh Cần
Khách mời từ Moscow trả
lời:
"Sự thực ở đây là
không chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi
vân vân, thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả," cựu Phó Chủ
tịch Hà Nội phụ trách nông nghiệp nói.
"Hoàn toàn không có
một điều tra nông thôn để mà quyết định vấn đề thành phần, ruộng đất, rồi vân
vân, ở trong nông dân như thế nào cả, nông thôn ra làm sao cả. Đấy là một sự
thật."
'Không thể sửa được'
Về vấn đề sửa sai, ông
Nguyễn Minh Cần thuật lại những gì mà ông đã trải nghiệm, cựu thành viên ủy ban
sửa sai của Đảng ở Hà Nội nói:
"Ngay bản thân tôi,
tôi là người phụ trách sửa sai ở ngoại thành Hà Nội, thì ông Võ Nguyên Giáp thời
bấy giờ, Ủy viên Bộ chính trị, phụ trách Hà Nội trong việc sửa sai, chúng tôi
bàn với nhau có bao nhiêu việc không thể nào sửa được.
Vợ, chồng, con cái của
người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc
trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế
nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết
được?
Ông Nguyên Minh Cần
"Vợ, chồng, con cái
của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên
lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu
thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết
được?
"Rồi nhà cửa người
ta chia ra rồi, bây giờ sửa sai, chúng tôi phải trả lại cho những người đó,
nhưng mà trả lại thế nào được? Khi mà nông dân đã nhận được nhà cửa thì họ được
tin là phải trả lại, thì họ lấy ngói, lấy gạch rồi phá hết tất cả của người ta.
"Mà khi vào chia
đấy, thì bao nhiêu gia đình được một ngôi nhà, thì những cây cảnh, những cái
chậu v.v..., thì mình phá hết, thì bảo là trả lại thế nào?"
Các khách mời trong cuộc
thảo luận cũng nhìn lại hai luồng ý kiến chính trên các mạng xã hội Việt Nam
nhân cuộc triên lãm Cải cách Ruộng đất ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà
Nội khai mạc rồi bị đóng cửa vì 'lý do kỹ thuật' sau khi vừa khai trương đầu
tháng 9/2014.
Các ý kiến cũng nhằm
sáng tỏ bối cảnh chung, tác động của Trung Quốc, việc tiến hành, vai trò của
Ban lãnh đạo Việt Nam khi đó như việc lập các đoàn cải cách.
Ông Hồ Chí Minh đã thừa nhận Đảng sai lầm và
tuyên bố 'sửa sai' sau cải cách ruộng đất.
Cuộc thảo luận cũng
nhìn vào ý nghĩa, tác động của Cải cách Ruộng Đất với nông thôn, nông dân
Việt Nam tới ngày nay.
'Bài học lịch sử'
Thảo luận còn nêu ý
kiến cần có một cuộc cải cách về đất đai hiện nay ở Việt Nam để giải quyết
vấn đề tham nhũng đất, khiếu kiện khá phổ biến về đất đai.
Có khách mời cũng cho
hay từ kinh nghiệm của Liên Xô thì sau năm 1991 vẫn không hề có sự nhìn lại về
các cuộc cải tạo tiêu diệt nông dân thời Stalin.
Nhưng riêng với Việt
Nam, có ý kiến thảo luận nói cần khép lại quá khứ dù không được quên những vụ
tàn sát thời Cải cách Ruộng Đất.
Về bài học rút ra và
thái độ đối với quá khứ, lựa chọn ứng xử trong hiện tại, ông Nguyễn Quang
Thạch, nhà vận động 'sách cho nông thôn' nói với BBC:
Lịch sử là thứ đã qua rồi, chúng ta không được
phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng phẳng về nó. Chúng ta không
quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành
động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi
Ông Nguyễn Quang Thạch
"Lịch sử là thứ đã
qua rồi, chúng ta không được phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng
phẳng về nó.
"Chúng ta không
quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành
động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi.
"Chứ nếu chúng ta,
như kiểu vừa rồi, là chỉ đưa trưng bày ra, phô diễn cho người ta, chỉ nói cái
tốt, không nói cái sai, khuyết, để rồi cùng nhau nhìn nhận, và không lặp lạih
những sai lầm trong tương lai.
"Cho câu chuyện tôi
nghĩ là người Việt mình, chính quyền đã đến lúc phải đánh giá lại sai lầm của
mình, và sau đó công bố rõ ràng, và chúng ta điều chỉnh chính sách đất đai để
không tạo ra sự xung đột giữa chính quyền và người dân. Để không tạo ra sự dồn
tích, sự căm phẫn trong đời sống cộng đồng."
'Mong cải cách mới'
Bây giờ có những người
nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống, trong khi những kẻ tham
nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm héc-ta rừng để bóc lột nhân
dân... Vì vậy theo tôi, tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới
Bà Lê Hiền Đức
Cũng hôm thứ Năm, bà Lê
Hiền Đức, nhà hoạt động chống tham nhũng và vận động cho nhân quyền, nói với
tọa đàm từ Hà Nội:
"Tôi lại muốn cải
cách ruộng đất bây giờ nữa, nhưng trên tinh thần của tôi bây giờ là gì: tổ chức
cải cách ruộng đất không phải là đấu tố như ngày xưa, nâng thành phần từ phú
nông lên địa chủ để giết chóc, đàn áp nhau.
"Nhưng cải cách ruộng đất bây giờ là gì:
để người nông dân của tôi bây giờ sống bằng đồng ruộng thì nhiều bà con nông
dân đã căng khẩu hiệu là 'Nông dân coi đồng ruộng như máu xương của mình'.
"Nhưng bây giờ mất hết ruộng, mất hết
vườn, mất hết rừng, thì hỏi rằng còn gì nữa, vì vậy theo suy nghĩ của tôi, tôi
lại mong muốn có cuộc cải cách, nhưng cải cách bây giờ đừng lặp lại những sai
lầm dã man, tàn ác, giết chóc như những năm trước đây.
"Mà cải cách bây
giờ là gì: để cho những người nông dân đứng lên tố cáo những bọn tham nhũng.
Bây giờ có những người nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống,
trong khi những kẻ tham nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm
héc-ta rừng để bóc lột nhân dân...
"Vì vậy theo tôi,
tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới," nhà vận động năm nay 83
tuổi nói với cuộc tọa đàm của BBC từ Hà Nội.
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TRONG LỊCH SỬ
Trần Gia Phụng
Cuộc cải cách ruộng đất
(CCRĐ) của cộng sản Việt Nam (CSVN) bắt đầu từ năm 1949 đến năm 1956, diễn ra ở
Bắc Việt Nam. Sách báo đã viết nhiều về CCRĐ, về phương pháp CCRD,
về tội ác của Hồ Chí Minh (HCM) và CSVN trong CCRĐ. Bài nầy
xin đặt lại cuộc CCRĐ trong khung cảnh lịch sử hiện đại
1.- TRƯỚC KHI CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT
Sau thế chiến thứ hai, tại Bắc Kỳ, mặt trận Việt
Minh (VM) do đảng CS chỉ huy nhanh tay cướp chính quyền và lập chính phủ tại Hà
Nội ngày 2-9-1945 do HCM lãnh đạo. Trong khi đó, Pháp trở lui Việt
Nam, chiếm Nam Kỳ rồi tiến ra Bắc Kỳ. Hồ Chí Minh liền thỏa hiệp với Pháp,
ký hiệp ước Sơ bộ (6-3-1946) tại Hà Nội vàTạm ước (14-9-1946)
tại Paris, hợp thức hóa sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam.
Pháp càng ngày càng áp lực VM và đòi kiểm soát
an ninh Hà Nội, thì VM bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946, để lãnh đạo VM có
lý do chính đáng trốn khỏi Hà Nội, tránh bị Pháp bắt. Việt Minh và
HCM để lại Hà Nội 4,000 quân tự vệ nhằm bảo vệ Hà Nội chống Pháp, thực chất là
cầm chân quân đội Pháp tại đây để lãnh đạo VM có thời giờ trốn chạy vào các
chiến khu trên rừng núi. Quân tự vệ chiến đấu anh dũng, trong từng
ngôi nhà được gần 2 tháng, cầm cự cho đến ngày 17-2-1947 mới hoàn toàn rút lui. Đây
cũng là kế hoạch của HCM và VM, vì cuộc chiến đấu trong gần 2 tháng đã làm cho
Hà Nội sụp đổ, nhà cửa hư hại. Dân Hà Nội bỏ chạy lánh nạn chiến
tranh, về vùng nông thôn lân cận do VM kiểm soát. Việc làm cho Hà
Nội sụp đổ hoang tàn đúng theo “Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến”
do HCM đưa ra ngày 16-1-1947, một tháng trước khi cuộc chiến đấu ở Hà Nội chấm
dứt. (Hồ Chí Minh toàn tập tập 5, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 25-26.) “Lời
kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến” chính là kế hoạch “tiêu thổ kháng
chiến”, với những khảu hiệu “Phá hoại để kháng chiến”, “Tản cư cũng là kháng
chiến” “Vườn không nhà trống”.
2.- CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT
Chủ trương “Vườn không nhà trống” không hiệu quả
đối với quân Pháp vì quân Pháp được tiếp liệu dồi dào từ Nam Việt Nam. Ngược
lại “vườn không nhà trống” làm cho dân chúng thêm nghèo đói trong chiến tranh,
không có lúa gạo mà ăn, lấy thực phẩm đâu mà nuôi quân CS? Lương
thực nuôi quân càng ngày càng cạn kiệt, nên CSVN mở ra kế hoạch CCRĐ bằng sắc
lệnh số 78/ SL ngày 14-7-1949, rất nhẹ nhàng để nông dân cày bừa, tăng gia sản
lượng nông nghiệp. Đây là giai đoạn CCRĐ lần thứ nhứt.
Giai đoạn thứ hai vào năm 1950, CSVN ra sắc lệnh
số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động viên toàn bộ "nguồn nhân lực [người], vật
lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho
tổ quốc". Tiếp đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng một lúc
hai sắc lệnh CCRĐ số 89/FL và số 90/ FL, vẫn chưa nặng nể.
Giai đoạn CCRĐ thứ ba bắt đầu bằng sắc lệnh ngày
20-4-1953, đăng trên Công báo CSVN ngày 20-5-1953. Giai
đoạn thứ tư vào cuối năm 1953, CSVN ra sắc lệnh CCRĐ ngày 4-12-1953 gồm 3 phần,
12 đề mục và 38 điều khoản.
Vào giữa năm 1954, nước Việt Nam bị chia hai sau
Hiệp định Genève (20-7-1954). Cộng sản Việt Nam ở phía
bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17. Sau khi tái tổ chức
chính quyền, tạm ổn định tình hình, HCM ký sắc luật về CCRĐ giai đoạn thứ 5
ngày 14-6-1955, rất cứng rắn so với các sắc luật trước. (Lâm Thanh Liêm, Chính
sách cải cách ruộng đất Việt Nam (1954-1994), Paris: Nhà sách và xuất bản
Nam Á, 1995, tr. 14.) Sau những cuộc thảm sát “long trời lỡ đất”,
CCRĐ đợt 5 của CSVN chấm dứt ngày 20-7-1956.
3.- CỘNG SẢN CÀNG THÀNH CÔNG, CCRĐ CÀNG CỨNG RẮN
Các giai đoạn CCRĐ chẳng những khác nhau về nội
dung cải cách mà quan trọng hơn là khác nhau về cách thi hành CCRĐ. Đặc
biệt, CS càng thành công trên chiến trường thì CCRĐ càng cứng rắn.
Trong chiến tranh, khi thiếu lương thực nuôi
quân, CSVN mở cuộc CCRĐ một cách nhẹ nhàng, bằng sắc lệnh số 78/ SL ngày
14-7-1949, thành lập "Hội đồng giảm tô", giảm thiểu đồng bộ tiền thuê
đất, nhằm khuyến khích nông dân ra sức cầy bừa, tăng gia sản lượng nông nghiệp,
cung ứng nhu cầu đội quân CS càng ngày càng đông.
Từ năm 1950, CSVN được Trung Cộng viện trợ võ
khí, quân nhu, quân dụng và cả kinh tế nữa. Cộng sản bắt đầu chuyển
qua phản công trong chiến tranh. Từ đó, CSVN cần thêm nhân lực, tăng
cường quân đội, dân công tải đạn... Vì vậy gọi là để tiếp tục công
cuộc CCRĐ, CSVN ra sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động viên toàn bộ
"nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc,
nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc". Nhờ
đó, CSVN dễ bắt lính, đưa cả phụ nữ đi dân công, tải đạn. Kế hoạch đưa phụ
nữ đi dân công do tướng Trần Canh đưa ra khi qua làm cố vấn cho HCM năm 1950.
(Trương Quảng Ba, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp”, đăng trong Hồi ký của những người trong cuộc…”, Nxb. Lịch sử
đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Dương Danh Dy dịch, tr. 23.)
Trong thời gian từ 1951 đến 1953, phương pháp
CCRĐ cứng rắn dần, nhất là trong các vùng hoàn toàn do CS kiểm soát. Tuy
nhiên, CS còn dè dặt, e ngại tiếng đồn trong quần chúng lan rộng, khiến người
ta sợ hãi, bỏ vùng CS mà “dinh tê”, về vùng do chính thể Quốc Gia kiểm soát,
hoặc di cư vào Nam năm 1954.
Ngày 20-7-1954, hiệp định Genève được
ký kết. Đảng CSVN làm chủ miền bắc vĩ tuyến 17. Ngay
khi vừa về Hà Nội ngày 15-10-1954, CSVN ra các quy định nghiêm cấm báo chí:
"Không được chống chính phủ và chế độ; không được xúi giục nhân dân và
bộ đội làm loạn; không được nói xấu các nước bạn; không được tiết lộ các bí mật
quân sự; không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Mặt trận Bảo vệ Tự do
Văn hóa, Sài Gòn 1959, tr. 31.)
Nắm vững ngành truyền thông, không còn lo ngại
dân chúng Bắc Việt có thể thông tin liên lạc với bên ngoài lãnh thổ, CSVN mở
lại cuộc CCRĐ “long trời lỡ đất”, tự do hoành hành bằng phương pháp tàn bạo bất
nhân nhất trong lịch sử Việt Nam. Điều mà dân chúng rất lo sợ trong CCRĐ
lần nầy là bị quy vào thành phần địa chủ và bị đưa ra đấu tố trước tòa án nhân
dân (TAND).
Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực,
đấu pháp và đấu ảnh. Đấu ảnh khá lạ lùng trong lịch sử tòa án, xảy
ra trong trường hợp nạn nhân đã chết. Đội CCRĐ đem hình ảnh hay một
vật dụng tượng trưng (áo, quần...) của nạn nhân để đấu tố. Nhân vật bị đấu
ảnh nổi tiếng nhứt là nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ảnh của ông bị
đem ra đấu tố, rồi vứt ảnh vào chuồng trâu. (Theo lời kể của đại tá
cộng sản Phan Thiệu Cơ (cháu nội Phan Bội Châu) do Phan Thiện Chí viết lại trên
báo Kiến Thức Ngày Nay số 50, Tp.HCM ngày 15-12-1990. Ngoài
ra, Lê Nhân cũng kể lại việc nầy trong thư viết từ Hà Nội ngày 05-12-2005 gởi
cho Phan Văn Khải, lúc đó là thủ tướng CS. (Đàn Chim Việt ngày
5-12-2005.) (Người viết cũng được cháu nội Phan Bội Châu ở Canada
xác nhận điều nầy khi gặp nhau ở Toronto năm 2006.)
Các biện pháp trấn áp, tra tấn, bắt đầu từ bỏ
đói, bỏ khát, phơi nắng, phơi mưa, mắng chửi, hành hạ, nhục hình, thậm chí đào
một cái hố, bắt nạn nhân nằm xuống, rồi bắt dân chúng tiểu và đại tiện lên nạn
nhân, giựt tóc, đánh đập, gìm nước (rồi kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn
xuyên thủng tay chân, thân thể. Có khi đội CCRĐ chôn nạn nhân xuống
đất, chừa cái đầu lên trên, dùng bò kéo lưỡi cày có răng nhọn ngang qua đầu nạn
nhân cho đến chết. Nhiều nạn nhân chứng kiến các cuộc trấn áp dã
man, sợ quá, lên cơn đau tim chết, hoặc tìm cách tự tử để khỏi bị hành hạ.
Kết quả theo một tài liệu trong nước, trong cuộc
CCRĐ đợt 5 (1955-1956), tổng số người bị quy và bị giết thuộc thành phần địa
chủ trong CCRĐ là 172,008 người. Tài liệu nầy cho biết 123,266 người tức
tỷ lệ 71,66% bị quy sai. (Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt
Nam tập II, 1955-2000, Hà Nội: Nxb.Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 85.) Đó
mới chỉ là thiệt hại nhân mạng. Quan trọng hơn nữa là lần nầy, do tự
do hoành hành, cuộc CCRĐ hết sức khốc liệt, đẵm máu, vô luân, đảo lộn văn hóa,
đạo lý, đúng là “bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn”. (Lời Nguyễn Trãi
trong “Bình Ngô đại cáo”.)
4.- TRUNG CỘNG HAY CSVN ĐỘC ÁC?
Theo dõi diễn tiến các cuộc CCRĐ, điểm dễ nhận
thấy là trong hai đợt CCRĐ đầu tiên (1949 và 1950), CSVN thực hiện CCRĐ để phục
vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh. Sau
đó, CSVN thực hiện CCRĐ theo bài bản “thổ cải” của Trung Cộng. Nguyên
vào đầu năm 1950, Hồ Chí Minh qua Trung Cộng và Liên Xô xin viện trợ. Stalin
giao cho Mao Trạch Đông giúp đỡ CSVN. Từ đó, Trung Cộng viện trợ và
đáp ứng tối đa cho nhu cầu của CSVN, viện trợ võ khí, quân nhu, quân dụng, kinh
tế, cả cố vấn quân sự và cố vấn chính trị, trong đó có cả cố vấn CCRĐ.
Sau Đại hội 2 tại Tuyên Quang ra mắt đảng Lao
Động (từ 11 đến 19-2-1951), CSVN cử người sang Trung Cộng tham dự khóa học tập
về chủ nghĩa Mác-Lê tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng chính là để học phương thức
CCRĐ theo đường lối “thổ cải” của Trung Cộng. (Nguyễn Văn Trấn, Viết
cho mẹ và quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tr. 164.)
Theo các cố vấn Trung Cộng, Mao Trạch Đông đã
nói “... Cái cây nó cong về bên hữu, ta muốn uốn nó cho ngay thì tất
nhiên là phải bẻ cong nó qua về bên tả, bên trái. Buông ra nó trở
lại là vừa.” Các cố vấn Trung Cộng còn cho rằng: “Không
sợ quá trớn. Có quá trớn mới bớt lại mà ngay được. Đấu
tranh ruộng đất là một cuộc cách mạng kinh thiên động dịa. Trong một
cuộc đảo lộn lớn lắm của cuộc sống, có người chưa quen, họ kêu. Không
có gì lạ cả. Ta đánh họ đau mà họ không kêu, đó mới đáng lấy làm lạ
chớ... Một xã có từng nầy bần cố nông thì theo kinh nghiệm Trung
Quốc, nhất định phải có bằng nầy địa chủ...” (Nguyễn Văn Trấn, sđd.
tr. 166.) Từ đó cuộc CCRĐ của CSVN trở nên cứng rắn, sắt máu như mọi
người đều biết. Vì vậy, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh và CSVN
thực hiện CCRĐ giai đoạn thứ 5 tàn bạo theo mô thức Trung Cộng vì do sức ép của
Trung Cộng.
Điều nầy không ai phủ nhận. Tuy
nhiên, nhìn thật kỹ từ phía CSVN, bản thân Hồ Chí Minh và nhóm lãnh đạo CSVN chẳng
những rất ưng ý mô thức tàn bạo của Trung Cộng, mà còn cố tình làm mạnh hơn,
không phải chỉ vì CSVN vâng lời Trung Cộng, mà chính vì bản chất gian ác, Hồ
Chí Minh và CSVN tự ý cố tình làm như thế. Vì vậy, không thể nói
cuộc CCRĐ ác độc là do lệnh của cố vấn Trung Cộng, mà còn vì sự ác độc thú tính
của Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN.
5.- ĐẤT ĐAI CỦA TOÀN DÂN DO NHÀ
NƯỚC QUẢN LÝ
Âm mưu chính của CSVN là muốn xóa bỏ quan niệm
tư hữu đất đai thâm căn cố đế của nông dân Việt Nam, là giới rất bảo thủ và thủ
cựu, đồng thời CSVN muốn áp đặt nền nông nghiệp chỉ huy của chế độ CS, thực
hiện chủ trương đất đai thuộc “quyền sở hữu của toàn dân, do nhà nước quản lý”. Xin
hãy chú ý đến tổ chức hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) do CS bày ra sau CCRĐ. Sau
CCRĐ, CSVN chia đất cho nông dân cày cấy, nhưng nông dân chưa kịp mừng vui, thì
CSVN tổ chức HTXNN, lùa nông dân vào HTX, buộc nông dân đem đất đã được chia và
cả đất riêng nhỏ nhoi do tổ tiên để lại, gia nhập vào đất HTX do nhà nước quản
lý. Từ đây, nông dân hoàn toàn tay trắng, chẳng còn đất đai, chỉ làm
công cho HTX tức cho nhà nước CSVN, nghĩa là CSVN chẳng những ăn cướp đất của
địa chủ, phú nông mà ăn cướp cả đất của nông dân nghèo khổ hết sức bài bản vào
tay CSVN.
Một khi đã quản lý đất đai canh tác ở nông thôn,
đảng Lao Động (LĐ) quản lý luôn kho lúa gạo toàn dân, nghĩa là dễ dàng làm chủ
nền kinh tế nước nhà, bởi vì nền kinh tế Việt Nam lúc đó hoàn toàn dựa trên
nông nghiệp. Quản lý lương thực đồng thời, còn giúp quản lý hộ khẩu
(gia đình) vì gạo bán theo sổ hộ khẩu. Đó là lý do chính của cuộc
CCRĐ giai đoạn thứ 5 vào năm 1955.
6.- THIẾT LẬP HỆ THỐNG LÃNH ĐẠO CS
Ở NÔNG THÔN
Âm mưu thứ hai là cuộc CCRĐ nhắm xóa bỏ hệ thống
cấu trúc xã thôn cũ và thay bằng lãnh đạo CS. Tổ chức xã thôn Việt
Nam có từ lâu đời và rất phức tạp, gồm có (bất thành văn): Ban cố
vấn, Hội đồng kỳ mục, và Hương hội. Tổ chức xã thôn cũ còn có
đặc tính chung là tự trị. Tục ngữ có câu: “Luật vua thua lệ làng”. Chẳng
những tự trị, sinh hoạt xã thôn rất dân chủ. Các việc quan trọng
trong làng đều được đem ra bàn bạc trong các kỳ họp hằng tháng tại đình làng để
hỏi ý dân. Điều nầy đi ngược lại với lối cai trị độc tài của CS. Do
đó, CCRĐ với những màn đấu tố dã man nhằm xóa bỏ hẳn cấu trúc xã thôn với những
tổ chức và nấc thang giá trị văn hóa cũ, để thay thế bằng tổ chức xã thôn mới,
hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của cán bộ đảng viên CS. Giới lãnh
đạo xã thôn cũ lại là giới khá giả trong làng, có ít nhiều ruộng đất, nên dễ bị
CS quy vào thành phần địa chủ, và trở thành đối tượng đấu tố trong cuộc CCRĐ do
đội CCRĐ đưa ra đấu tố, đúng theo chủ trương: “Trí, phú, địa, hào; đào tận
gốc, trốc tận rễ”, mà cộng sản quyết tâm càn quét toàn bộ giới lãnh đạo cũ
trong làng.
7.- CHUẨN BỊ TẤN CÔNG NAM
VIỆT NAM
Âm mưu thứ ba là CSVN tổ chức thanh lọc kỹ càng
dân chúng Bắc Việt Nam, ổn định tuyệt đối nông thôn Bắc Việt Nam. Hồ
Chí Minh vốn là một gián điệp của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, đã học ngành tình
báo tại Moscow (Liên Xô). Sau năm 1954, Hồ Chí Minh và CSVN lo sợ
chính phủ Quốc Gia Việt Nam và các tổ chức hay đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc
hoặc các tôn giáo, gài người ở lại đất Bắc sau hiệp định Genève. Xa
hơn, CSVN nghi ngờ các thế lực thù địch cho người trà trộn trong nhóm miền Nam
tập kết ra Bắc để phá hoại hoặc làm tình báo. Vì vậy, tiến hành CCRĐ
là phải truy xét, soi rọi lý lịch ba đời nông dân, điều tra cặn kẽ, không bỏ
sót bất cứ một gia đình hay nhân vật nào bị nghi ngờ có thể nằm trong mạng lưới
điệp viên của miền Nam.
Cuộc CCRĐ áp đặt nông thôn Bắc Việt Nam với
khoảng 70% dân số, dưới quyền thống trị của CSVN,
mở đầu cho kế hoạch áp đặt sự toàn trị của CSVN
ở Bắc Việt Nam sau 1954, bằng việc cải cách công thương nghiệp ở thành phố,
khóa sổ báo chí (vụ Nhân Văn Giai phẩm) và thanh trừng nội bộ đảng CSVN (Vụ án
chống đảng), đi đến chỗ ổn định tuyệt đối Bắc Việt Nam, nhằm chuẩn bị tấn công
Nam Việt Nam.
8.- ĐOẠN KẾT CCRĐ: THỜI CƠ CHO LÊ
DUẪN
Trong khi đó, Lê Duẫn đứng đầu Trung ương cục
miền Nam (đổi thành Xứ ủy Nam Bộ tháng 10-1954, rồi trở lại TƯCMN tháng
1-1961). Lê Duẫn đã dày công xây dựng cơ sở CS ở miền Nam trong thời
gian chiến tranh (1946-1954). Tuy nhiên, thành tích nầy không sáng
chói bằng giới lãnh đạo CS ở miền Bắc. Vì vậy sau năm 1954, Lê Duẫn trốn
lại ở miền Nam, quyết chí đánh miền Nam, vì nếu CSVN đánh miền Nam, thì quyền
lãnh đạo chiến tranh chắc chắn phải vào tay Lê Duẫn. Vì tham vọng
quyền lực, nên Lê Duẫn nóng lòng đánh miền Nam, nhằm tạo hào quang cho chính
mình.
Điểm đáng chú ý là tuy phản ứng của dân chúng
đối với sự tàn bạo của cuộc CCRĐ năm 1956 bị dẹp yên, nhưng để lấy lòng dân
chúng, hội nghị Trung Ương Đảng LĐ lần thứ 10 từ tháng 9 đến tháng 11-1956 quyết
định Trường Chinh, trưởng ban chỉ đạo CCRĐ trung ương, rời chức tổng bí thư
đảng LĐ tuy vẫn còn trong Bộ chính trị. Hồ Chí Minh, chủ tịch đảng
LĐ, kiêm nhiệm chức vụ nầy.
Lúc đó, Lê Duẫn đang nằm
vùng ở miềnNam, không lãnh đạo CCRĐ giai đoạn 5 ở ngoài Bắc, không bị tai tiếng
vì vụ CCRĐ, nên được gọi về Hà Nội ngày 4-7-1957, giữ chức ủy viên thường vụ bộ
chính trị đảng LĐ, phụ tá cho Hồ Chí Minh. Sau đó, đại hội III đảng
LĐ từ 5-9 đến 10-9-1960 bầu Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất (không phải là tổng bí
thư) thay Trường Chinh. Như thế có nghĩa là kết cục của CCRĐ năm
1956 tạo cơ hội cho Lê Duẫn thay Trường Chinh. Nhờ đó Lê Duẫn thăng
tiến nhanh chóng.
Ngày nay, một số người cho rằng việc CCRĐ do Hồ
Chí Minh chủ trương, còn việc tấn công Nam Việt Nam do Lê Duẫn thúc đẩy, Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp không muốn đánh Nam Việt Nam (?). Xin lưu ý
một điểm quan trọng: chủ trương tấn công Nam Việt Nam do chính Hồ Chí Minh và
Võ Nguyên Giáp đưa ra đầu tiên tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây) từ 3 đến
5-7-1954 với thủ tướng Trung Cộng là Chu Ân Lai, trước khi hiệp định Genève được
ký kết. Lúc đó Lê Duẫn còn ở trong Nam và không tham dự hội nghị
nầy. Như vậy, không thể nói là Hồ Chí Minh không chủ trương tấn công
Nam Việt Nam mà phải khẳng định chắc chắn rằng chủ trương tấn công miền Nam là
do tham vọng của Hồ Chí Minh và toàn thể tập đoàn lãnh đạo CSVN, muốn thống trị
toàn cõi Việt Nam. Cấp bậc càng cao, trách nhiệm và tội lỗi càng
nhiều.
KẾT LUẬN
Đặt các giai đoạn CCRĐ từ 1949 đến 1956 trong
khung cảnh lịch sử, những điểm dễ thấy là: 1) Nội dung và phương pháp các giai
đoạn CCRĐ do CS thực hiện thay đổi theo hoàn cảnh chiến tranh. Lúc
đầu (năm 1949), nhẹ nhàng để tăng gia lương thực nuôi quân, rồi khi CS siết
chặt vùng cai trị, thì CCRĐ cứng rắn dần dần, và trở nên tàn bạo theo sự thành
công của CS trên chiến trường. Cuộc CCRĐ lên cực điểm dã man sau khi
CSVN chiếm được miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Genèvengày
20-7-1954. 2) CCRĐ khốc liệt không phải chỉ do sự chỉ đạo và hỗ trợ
của cố vấn Trung Cộng, mà do chính lãnh đạo CSVN tự ý muốn đẩy mạnh CCRĐ đến độ
tàn bạo để thực hiện chủ quyền và chủ thuyết CS. 3) CCRĐ
nằm trong tiến trình của CSVN cải đổi nền nông nghiệp tư nhân tự do qua nông
nghiệp chỉ huy của CS theo chủ trương “đất đai là tài sản của toàn dân do nhà
nước quản lý”. 4) CCRĐ nhắm xóa bỏ hệ thống lãnh đạo xã thôn cũ và thay bằng
lãnh đạo của CSVN. 5) CCRĐ cấp bách ổn định Bắc Việt Nam, để tiến hành chiến
tranh xâm lăng Nam Việt Nam của giới lãnh đạo CSVN. 6) Kết
cục của CCRĐ đưa đến sự thoái lui tạm thời của Trường Chinh, lý thuyết gia hàng
đầu của CSVN, tạo thời cơ cho Lê Duẫn tiến lên.
Cuối cùng, một kẻ giấu mặt
trong CCRĐ là Trung Cộng. Trung Cộng xúi giục CSVN thực hiện CCRĐ
một cách tàn bạo, vì Trung Cộng ngầm chủ trương tàn phá Việt Nam. Việt
Nam càng bị tàn phá, càng yếu kém, thì càng có lợi cho Trung Cộng.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 23-9-2014).