Hình ảnh nói lên: Sự kiện Tội Ác Việt Cộng ! ! !






https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj6kLmYKa-hPj1HvFQ9_a90KHJhUV_iUMIMpX4OuUtcp6iY8tidLohE38X7ObP2c42O5V9-qDdwu0FmyTgJjcSZI_uM_-UibAiDC_1ucag_fkHs2pV3BymecImeC0W5_uks9TF3NPCej5k/s1600/babui-danlambao-%C4%90a%CC%82%CC%81t+nu%CC%9Bo%CC%9B%CC%81c+la%CC%80+ca%CC%81i+%C4%91uo%CC%82i+sam1.jpg








Thursday, April 30, 2015

40 Năm vươn lên từ nước mắt



40 Năm vươn lên từ nước mắt

29.04.2015, WESTMINSTER (NV) – Đó là tựa đề bộ phim do Trần Nhật Phong, một ký giả ở miền Nam California, tổng hợp và thực hiện. Phim do ABNC LLC sản xuất và được trình chiếu trên các hệ thống truyền thông của người Việt hải ngoại.
Bấm vào để xem phim

Bộ phim dài hơn 95 phút ghi lại hành trình 40 năm của cộng đồng người Viêt hải ngoại, vươn lên từ nước mắt, vươn lên từ khổ đau, vươn lên từ mất mát.
40 năm trước họ rời Việt Nam bằng hay bàn tay trắng, và rồi 40 năm sau vươn lên bằng chính khát vọng của mình.

Từ những bãi đất trống, vườn dâu, vườn cam bãi rác, họ xây dựng  thành những khu thương mại sầm uất, những ngôi chùa nguy nga, những nhà thờ tráng lệ.
40 năm hình thành một xã hội cộng đồng trong xã hội rộng lớn của Hoa kỳ, họ vẫn không ngừng tranh đấu, không ngừng làm việc, để thế hệ sau có thể hãnh diện rằng, ông cha họ đã có công xây dựng mảnh đất ly hương trở thành vùng đất hứa, vùng đất mà họ khẳng định là "quê hương". (KN)


#40 NĂM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC NHƯNG KHÔNG THỐNG NHẤT ĐƯỢC LÒNG DÂN....
Đã 40 năm ăn mừng là quá đủ rồi. Chúng ta đâu phải thắng Tây, thắng Tàu đâu mà đã 40 năm đã qua, chúng ta vẫn nổi mãi hồi kèn lạc điệu để tự ca ngợi cái chiến công xưa cũ khi thắng người anh em phía bên kia trận tuyến.

Mà Than ôi! Đó lại là những người anh em đồng bào máu đỏ da vàng của mình. Đó cũng là người Việt Nam, nói tiếng Việt và cùng lớn lên trong tiếng hời ru, điệu hò tiếng hát của ông bà tổ tiên chung với chúng ta.

Và họ chiến đấu cũng giống như chúng ta chỉ để bảo vệ mảnh đất hình chữ S này giống như chúng ta. Nếu có một người thắng cuộc thì cũng có một người thua cuộc.

Một người hò reo thắng lợi thì một người nghiến răng căm hận. Một người nâng ly mừng thì một người lặng lẽ rơi nước mắt...
40 năm là gần một đời người và đó là khoảng thời gian mà hận thù với người anh em bên kia trận tuyến phải quên đi. Phải quên đi để hòa giải, và chỉ có quên đi thì mới có hòa hợp dân tộc.

Đó là thời gian mà tiếng reo hò chiến thắng phải nhạt dần nhường chỗ cho tiếng khóc than thua thiệt bởi lẽ qui luật muôn đời là tiếng hò reo mừng chiến thắng chỉ có giới hạn nhưng nỗi đau buồn là vĩnh viễn.

Đó là khoảng thời gian đủ để một nửa dân tộc phải thấy là lố bịch vô cảm khi mừng vui trước một nửa kia buồn tủi nghiến răng khóc hận.

Và đất nước ta mãi mãi có một người mừng chiến thắng thì mãi mãi sẽ một người thân như cha, mẹ, vợ con ông bà phải tủi hổ, rồi những đứa con, cháu chắt ta sẽ mãi mãi có kẻ thắng người thua ngay chỉ trong một gia đình. Đất nước cứ chia rẽ Quốc Lễ với Quốc Hận đến muôn đời sao...

Giờ đây thì thắng thua còn ý nghĩa gì nữa khi đã 40 năm qua thì đất nước vẫn là nghèo, khi nỗi mừng chiến thắng đã cạn nhưng nỗi đau thì vẫn còn nguyên vẹn và không ngừng rỉ máu. Diễu binh, bắn pháo hoa ăn mừng chiến thắng mãi thì có hòa giải và có hợp lòng toàn dân tộc Việt Nam bất kể chính kiến không...

Thống nhất đất nước mà không thống nhất lòng dân thì có gì để đáng tự hào mãi. Chúng ta chẳng được gì hết khi giờ này còn tổ chức mừng vui lễ hội, để cho một nửa dân tộc mừng vui vì đã xát muối vào lòng một nửa dân tộc còn lại như đã làm suốt 40 năm qua.

Chúng ta biết hòa hợp hòa giải dân tộc là mệnh lệnh của thời đại, chậm ngày nào là tụt hậu ngày ấy.

Vậy chúng ta mong chi điều thiêng liêng ấy khi cứ đến ngày này lại ăn mừng vào chiến công xưa như một kẻ chỉ biết ăn mày vào quá khứ, giống như con thằn lằn ăn đuôi để sống….

FB Nhà văn Mai Tú Ân


40 Năm Nhìn lại Công Cuộc Đấu Tranh Cho Tự Do, Dân Chủ Việt Nam

Đặng Vũ Chấn

Cùng tác giả:

Có thể nói trong suốt 40 năm qua kể từ khi VNCH thất thủ vào ngày 30-4-75, công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ đã khởi đi từ ngày đó, và không hề ngưng nghỉ đứt đoạn, dù có lúc thăng lúc trầm. Nhìn lại tiến trình đấu tranh trong suốt thời gian này, ta có thể chia ra làm ba thời kỳ:

1/ Từ 1975 đến 1989: Thời kỳ kháng cự với ý chí phục quốc.

2/ Từ 1990 đến 2005: Đấu tranh chính trị áp lực từ bên ngoài vào, bên trong nhen nhúm lên và mở ra sự liên kết trong ngoài.

3/ Từ 2006 đến nay: Trong ngoài đồng hành cùng công khai đấu tranh bất bạo động với sự đâm chồi của xã hội dân sự.

Bài này xin tổng lược tiến trình đấu tranh qua các thời kỳ trên.

Thời Kỳ 1975-1989: Kháng Cự Quật Cường
Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam vào tháng tư 1975, CSVN đã thống nhất toàn thể đất nước dưới một chế độ khắt khe toàn trị. Dưới chế độ như thế, những ai không cam chịu bị khuất phục chỉ có một trong hai con đường để chọn: hoặc tìm cách vượt thoát tìm tự do, hoặc tìm cách chiến đấu để từ kháng cự để sống còn, rồi tiến lên phục quốc giải phóng đất nước khỏi gông cùm CS.
Cho nên đây là thời kỳ mà những cuộc vượt biên vượt biển của người Việt đã thành một cao trào đánh động lòng cảm phục và thương cảm của thế giới tự do và đồng thời trở thành vấn nạn của thế giới, khi các quốc gia đệ tam phải tìm cách giải quyết làn sóng tỵ nạn.

Có thể nói trước đó chưa có một xứ nào đang bị CS thống trị lại xẩy ra hiện tượng vượt biển hàng loạt như nước Việt, với những con thuyền mong manh quá tải, bất chấp hiểm nguy giông bão, hải tặc cướp hiếp, gây ấn tượng mạnh mẽ trên dư luận truyền thông quốc tế.

Dù hình ảnh có vẻ tiêu cực, là một phong trào trốn chạy khỏi CS, nhưng thực chất đây cũng là một hình thức kháng cự, biểu lộ trước dư luận quốc tế sự quyết tâm dũng cảm không chấp nhận CS, phá đi cái hình ảnh mà CSVN ra sức tuyên truyền rằng họ chiến thắng vì là bên chính nghĩa được toàn dân tin tưởng để giải phóng dân tộc.

Nhưng đa số đồng bào ở lại cũng không phải hoàn toàn chịu khuất phục. Nhiều người dân trong nước đã thể hiện tinh thần kháng cự bằng cách kín đáo bất hợp tác với và thậm chí phá hỏng tiến trình đi lên XHCN, như làm thịt trâu bò để khỏi xung vào hợp tác xã, làm việc cầm chừng lấy lệ cho những chỉ tiêu báo cáo đạt được chỉ là báo cáo láo, trốn thuế, câu điện chùa để khỏi trả tiền cho nhà nước, mánh mung hủ hoá cán bộ VC v.v...

Song song đó, có những hình thái kháng cự tích cực hơn. Ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không phải toàn bộ quân lực VNCH rã đám. Có những toán quân nhỏ không chấp nhận buông súng đã rút vào rừng lẩn tránh thành lập những ổ kháng cự, để tìm cách sống còn, kháng chiến phục quốc.

Những ổ kháng cự này là những hạt nhân đầu tiên tạo sự nối kết các thành phần quân dân cán chính và tu sĩ tôn giáo không chấp nhận đầu hàng CS. Từ đó nhiều lực lượng kháng cự ra đời rải rác tại nhiều nơi trong Nam như Lực Lượng Liên Tôn, Mặt Trận Kháng Chiến Miền Tây, Lực Lượng Kháng Chiến Tả Ngạn Cửu Long Giang, Lực Lượng Phục Quốc Đồng Bò, Lực Lượng Kháng Chiến Vùng Thất Sơn, Lực Lượng Thanh Long v.v...

Cùng lúc đó tại Hải Ngoại, nhiều tổ chức tìm cách đưa người về lại trong nước để kháng chiến như Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng VN của các ông Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh,Trần Văn Bá, Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc của ông Võ Đại Tôn, Phục Hưng, Người Việt Tự Do, Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoại, 3 tổ chức sau này là tiền thân kết hợp nên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN do đô đốc Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, quy tụ được nhiều lực lượng kháng cự ở trong nước.

Có thể nói khi mà CSVN hoàn toàn kiểm soát được mọi mặt của xã hội, và cai trị một cách khắc nghiệt trong khung cảnh của chiến tranh lạnh, mọi hình thức đối kháng đối đầu đều là những đấu tranh sinh tử một mất một còn, cho nên khó có sự lựa chọn nào khác ngoài đấu tranh võ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.
Mặc dù các nỗ lực kháng cự đã gặp rất nhiều khó khăn với kết quả không mấy sáng sủa khi một số người lãnh đạo của các lực lượng này lần lượt hy sinh như bị bắt (ông Võ Đại Tôn, nhóm Nhà thờ Vinh Sơn), bị xử tử (anh Trần Văn Bá, ông Lê Quốc Quân, Tu sĩ Hồ Thái Bạch) hoặc phải tuẫn tiết (Tướng Hoàng Cơ Minh).
Tuy thế, chính những hy sinh kể trên đã góp phần nung nấu tinh thần kháng cộng khiến ngọn lửa đấu tranh vẫn không hề bị dập tắt và chuyển sang thời kỳ kế tiếp. Nói cách khác, ngọn lửa chống cộng tiếp tục duy trì và lan tỏa ở trong và ngoài nước hiện nay chính là nhờ những hy sinh cao cả của những người đã vị quốc vong thân trong thời kỳ kháng cự, phục quốc đầy gian lao này.

Thời Kỳ 1990-2005: Liên Kết Trong Ngoài
Sự sụp đổ của CS Đông Âu đã thổi lên một làn gió và hy vọng mới cho công cuộc đấu tranh. Trước đó vào cuối thập niên 80, do bản chất của nền kinh tế XHCN, do sự thụ động bất hợp tác của người dân trong nước, do sự mất mát một bộ phận lớn tinh hoa tài năng, chất xám của dân tộc qua những đợt tù cải tạo, đánh phá tư sản thành công, đợt sóng vượt biên vượt biển cộng với sự cấm vận phong toả kinh tế của Mỹ và một số đồng minh Mỹ, và sự tiếp tục o ép của ông chủ cũ Bắc Kinh, Hà Nội đã không thể không học theo Liên Xô để “đổi mới”, nới lỏng dây trói, tìm cách mở cửa ra thế giới bên ngoài để cứu vãn nền kinh tế đang kiệt quệ. Nhưng đồng thời để bảo vệ sự sống còn của mình, khỏi theo vết xe sụp đổ của Thầy Liên Xô, Hà Nội lại quay đầu về khấu tấu chủ cũ Bắc Kinh qua Hội Nghị Thành Đô vào năm 1990.

Sự mở cửa ra bên ngoài và nới lỏng dây trói trên, khiến các xu hướng bất đồng với Đảng CS ở trong nước có chút khoảng trống để ngọ nguậy. Bắt đầu có những tiếng nói đơn lẻ cất lên, mới đầu từ rón rén, rồi mạnh dạn thẳng thừng hơn như bài Chia Tay Ý Thức Hệ của ông Hà Sĩ Phu, dần dần đến những nhóm như Cao Trào Nhân Bản của BS Nguyễn Đan Quế, Diễn Đàn Tự Do của GS Đoàn Viết Hoạt, Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ với ông Nguyễn Đình Huy v.v...

Ngay cả trong hàng ngũ CS các tiếng nói bất đồng cũng nổi lên như Câu Lạc Bộ Kháng Chiến Cũ của Nguyễn Hộ.... Những tiếng nói đối kháng càng ngày càng công khai lộ diện nhiều hơn sau khi những tin tức v/v Hà Nội nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh bị rò rỉ tiết lộ khiến dân Việt lo âu về viễn cảnh Bắc thuộc một lần nữa.

Song song đó, với niềm lạc quan mới từ sự tan rã của chủ nghĩa CS, ở hải ngoại ta thấy nở rộ lên những phong trào, tổ chức, cá nhân cùng xuất hiện để tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Càng ngày càng nhiều tổ chức cộng đồng Việt Nam tỵ nạn được thành lập ở khắp các nơi có đông người Việt tỵ nạn góp phần xây dựng một phòng tuyến người Việt Tự Do vững chắc, xiển dương lá cờ vàng tự do, ngăn chặn những nỗ lực xâm nhập vào cộng đồng tỵ nạn của CS, chặn đánh những khuôn mặt hay phái đoàn đại diện chế độ CS đi ra công cán nước ngoài. Các nỗ lực ngoại vận và quốc tế vận bắt đầu khởi sắc hơn để tố cáo trước công luận quốc tế về những vi phạm nhân quyền của CSVN.

Trong thời kỳ này, sự liên lạc trong ngoài bắt đầu dễ dàng hơn. Cho nên người Việt hải ngoại đã có thể mở ra những chiến dịch chuyển lửa và tin tức đấu tranh về trong nước, góp phần làm soi mòn sự bưng bít thông tin của chế độ CS, động viên tinh thần người trong nước. Các tổ chức đấu tranh chính trị ở hải ngoại như Liên Minh VN Tự Do, Thông Luận, v.v... bắt đầu với tới trong nước, tìm cách giao lưu với giới đối kháng quốc nội. Từ đó một trận thế liên kết trong ngoài bắt đầu được hình thành.

Tuy thế, bộ máy áp chế của chế độ Hà Nội vẫn còn mạnh nên các thành phần đối kháng trong nước đã bị trù dập, bắt bớ, vô hiệu hoá gần hết. Nhưng thay vì làm nản lòng người yêu nước hay dập tắt được ngọn lửa đấu tranh, những bắt bớ trù dập trên càng làm cho các tổ chức đấu tranh và cộng đồng tỵ nạn hải ngoại thấy mình phải nỗ lực hơn nữa để hỗ trợ những người bị trù dập trong nước về mặt ngoại vận, tinh thần cũng như vật chất.
Trong tinh thần đó, cuối năm 2004, Đảng Việt Tân công khai hoá từ sau vỏ bọc MTQGTNGPVN để chuẩn bị cho giai đoạn tới, chuyển lực về địa bàn quốc nội để đồng cam cộng khổ với người trong nước trực diện với CSVN, khai thông ranh giới đấu tranh trong ngoài.

Thời Kỳ 2006 - Đến Nay:
Thời kỳ này được khai phá bởi Tuyên ngôn của Khối 8406 vào ngày 8-4-2006, nhân dịp Hà Nội chuẩn bị cho Hội Nghị APEC là lúc mà chế độ Hà Nội phải giữ bộ mặt cởi mở tôn trọng nhân quyền trước truyền thông và các phái đoàn quốc tế. Đây là một tuyên ngôn mạnh mẽ nhất từ trước đến nay ở trong nước lên án CSVN, đòi thay đổi chế độ. Và từ đó những hoạt động đấu tranh trong nước được nâng cấp công khai, dù có bị trù dập, chứ không còn rụt rè lén lút như trước.

Những đặc điểm của thời kỳ này là:
1- Sự bộc phát của mạng internet và mạng xã hội đã xoá đi ranh giới địa dư trong ngoài và khiến chế độ mất đi khả năng kiểm soát thông tin.

2- Các đảng chính trị công khai xuất hiện trong nước dù chỉ là trong thời gian ngắn trước khi bộ phận lãnh đạo bị vô hiệu hoá trong tù (Thăng Tiến, Lạc Hồng, Dân Chủ Thế Kỷ 21....)

3- Đấu tranh bất bạo động là một phương pháp đấu tranh phổ quát được hầu hết người đấu tranh chấp nhận và áp dụng với những lối đánh sáng tạo đẩy cầm quyền vào những thế khó xử tiến thoái lưỡng nan.

4- Sự tung hứng chan hoà giữa giới đấu tranh ở hải ngoại và giới đấu tranh trong nước. Người hải ngoại ra vào trong nước hiện diện sát cánh cùng bà con quốc nội, người trong nước ra hải ngoại làm ngoại vận và quốc tế vận, các nhóm, tổ chức đấu tranh như Việt Tân, khối 8406, Con Đường Việt Nam, VOICE v,v... hoạt động minh danh tại cả hai địa bàn trong và ngoài nước.

5- Sự xuất hiện của truyền thông lề trái hay lề dân để cạnh tranh với truyền thông của Đảng và dần dần đang nắm thế chủ động đẩy bộ máy tuyên truyền của Đảng vào thế bị động, phản ứng, chạy theo chống đỡ, nói xuôi.

6- Sự ra đời và dần dần phát triển của một xã hội dân sự độc lập với nhà nước qua sự xuất hiện nhiều nhóm đa dạng hoạt động trên nhiều phương diện sở thích khác nhau. Đặc biệt là các đoàn thể xã hội dân sự này đang tạo thế liên kết và cùng nhau lên tiếng về những vấn đề của đất nước.

7- Sự xuất hiện càng ngày càng nhiều những khuôn mặt đấu tranh mới, nhất là sau mỗi đợt trù dập của nhà cầm quyền CS. Trong thời kỳ trước, phong trào đấu tranh thường chìm đi một thời gian như để bảo toàn lực lượng, dành thì giờ hồi phục. Thời kỳ này những đợt trù dập ngược lại càng kích thích phong trào đấu tranh đi lên tới nữa, với khuynh hướng tập trung tranh đấu cho quyền lập hội, tự do thông tin, và tụ họp để dọn đường cho giai đoạn kết.

Có thể nói thời kỳ hiện nay là thời kỳ tăng tốc đấu tranh. Những biến chuyển từ 2006 đến nay càng ngày càng dồn dập, số lượng các động thái thoát độc tài trong 4, 5 năm trở lại bằng toàn thể những hoạt động đối kháng trong 30, 40 năm qua. Không những thế, chất lượng của các nỗ lực đấu tranh càng ngày càng cao, hiệu quả hơn, qua những lối đánh sáng tạo trong đấu tranh phi bạo lực, làm chế độ độc tài hoàn toàn mất khả năng toàn trị tuyệt đối như xưa, nhiều khi phải lúng túng bị động, phải có bước lùi trước sức ép của người Việt trong ngoài.
*
Trải qua ba thời kỳ đấu tranh từ những nỗ lực kháng cự đơn lẻ của từng người, từng nhóm sau năm 1975, cho đến những kết hợp rộng rãi trong và ngoài nước, để hỗ trợ nhau tạo thành những sức ép đáng kể lên chế độ độc tài Hà Nội, giờ đây chúng ta có thể khẳng định rằng phong trào đấu tranh tại Việt Nam sẽ chỉ ngày một lớn mạnh mà thôi.

Với cái đà này, ta sẽ không ngạc nhiên khi một ngày gần đây thấy công cuộc đấu tranh đang bước vào giai đoạn kết thúc lúc mà đại đa số quần chúng nhân dân đã hoàn toàn hết sợ, xuống đường đông đảo giành lấy quyền làm chủ thực sự cuộc sống và xã hội của chính mình.
40 năm với CS đã là quá đủ. Đã đến lúc lịch sử cần phải sang trang!

Đặng Vũ Chấn
28/4/2015


Monday, April 27, 2015

Diễn đàn Kinh tế mùa xuân: “Đổi mới hay là chết”


Diễn đàn Kinh tế mùa xuân: “Đổi mới hay là chết”

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Diễn đàn Kinh tế mùa xuân: “Đổi mới hay là chết” Phần âm thanhTải xuống âm thanh
ddktmx2015-622.jpg
Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 diễn ra hai ngày 21 và 22 tháng 4 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An.
Courtesy chinhphu.vn
Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 diễn ra hai ngày 21 và 22 tháng 4 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An đã gây sôi nôi dư luận báo chí, khi nhiều đề nghị cải cách đã có sự đụng chạm tới Hiến pháp Việt Nam hiện hành. Thí dụ như cần thay đổi khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trên thực tế Kinh tế Nhà nước không phải là chủ đạo nền kinh tế.

Cải cách thể chế sẽ vướng Hiến pháp?

Theo tường thuật của Thời báo kinh tế Việt Nam, TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã quyết liệt bảo vệ quan điểm: “không chuyển sang kinh tế thị trường thì không giải quyết được gì cả.”
Chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh, vừa trở về Hà Nội từ thành phố Vinh đã trả lời câu hỏi của chúng tôi về sự kiện những đề xuất cải cách thể chế sẽ vướng Hiến pháp hiện hành. Ông nói:
Không thể cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn không thể thực thi nền kinh tế thị trường đầy đủ, theo những gì mà Việt Nam đang đề nghị quốc tế đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên minh Châu âu linh hoạt về nền kinh tế thị trường đầy đủ để Việt Nam có thể tham gia vào TPP.
-TS Phạm Chí Dũng
“Trong tất cả ý kiến thảo luận đó thì đều khẳng định và nhấn mạnh là cần tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước và phải có Luật về cổ phần hóa, phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ về thể chế và cắt giảm giấy phép con không còn có hiệu lực từ 1/7 và phải qui định rõ trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng; phải chống tham nhũng và đã nêu lên các tác động cụ thể của việc chống tham nhũng. Còn về lâu về dài các việc đó có dẫn đến phải sửa đổi bổ sung Hiến pháp hay không thì việc đó sẽ còn chờ xem xét. Tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân chúng tôi không đặt vấn đề gì về việc sửa đổi Hiến pháp cả.”
Báo mạng vneconomy.vn dẫn lời TS Nguyễn Đình Cung Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 nói rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm được sử dụng thường xuyên, nhưng nội hàm của khái niệm chưa rõ, chưa thống nhất và những gì được giải thích liên quan đến khái niệm này không còn phù hợp. TS Cung đề nghị đổi mới khái niệm đó như sau: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, trong đó, Nhà nước và thị trường là hai yếu tố không thể thiếu, phối hợp, cộng sinh và bổ sung cho nhau hướng đến thị trường hoàn hảo.”
Nhận định về đề xuất của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, TS Phạm Chí Dũng nhà phản biện xã hội dân sự độc lập phát biểu từ Saigon:
le-dang-doanh-400.jpg
Chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh, ảnh minh họa. Courtesy photo.
“Tôi thấy là ông Nguyễn Đình Cung dù có đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường, nhưng ông vẫn đưa ra một định nghĩa mà theo ông là đầy đủ hơn trong đó vẫn giữ nguyên khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì và bao gồm những nội hàm như thế nào. Có nghĩa là không cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa mà không cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì không có ý nghĩa gì về kinh tế thị trường; cũng như không có ý nghĩa gì đối với thành phần kinh tế tư nhân mà người ta vẫn xem là động lực chính hiện nay. Vấn đề này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đụng chạm tới Hiến pháp, đặc biệt là vấn đề Điều 4 Hiến pháp vai trò độc đảng. Cho nên là không thể cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn không thể thực thi nền kinh tế thị trường đầy đủ, theo những gì mà Việt Nam đang đề nghị quốc tế đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên minh Châu âu linh hoạt về nền kinh tế thị trường đầy đủ để Việt Nam có thể tham gia vào TPP…
Khi ghi nhận những đề xuất vừa nêu, người đọc báo nhớ lại phát biểu của ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư tại Học viện Chính trị Quốc gia vào năm 2014 là làm gì có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nghiên cứu và đi tìm. Phát biểu của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh được nhiều báo đưa tin trong đó có SaigonTimes Online.

Chính phủ đã thực sự lắng nghe?

Từ khi Ủy ban Kinh tế Quốc hội khởi sự tổ chức các Diễn đàn Kinh tế vào dịp Xuân-Thu mỗi năm, rất nhiều ý kiến đột phá về cải cách thể chế đã được đề xuất. Nhưng trên báo chí không thấy đưa tin là Chính phủ đã thực sự lắng nghe và ứng dụng được những ý kiến nào. TS Lê Đăng Doanh nhận định:
“Tôi nghĩ rằng những biện pháp thiết thực có thể làm được sẽ được xem xét. Thí dụ như những biện pháp cắt giảm giấy phép con, những biện pháp giảm phiền hà thì Chính phủ đã cam kết sẽ đẩy mạnh việc thực hiện như qua Nghị quyết 19 ngày 12/3/2015, Chính phủ cam kết sẽ cố gắng đạt mức của các nước ASEAN-6 về các chỉ tiêu về nộp thuế v..v.. Thế thì tôi nghĩ bây giờ hãy cứ thực hiện một số tiến bộ có thể đạt được, còn các việc khác có lẽ là sẽ xem xét và từng bước sẽ được thực hiện. Tôi không nghĩ là cùng một lúc có thể có sự thay đổi đột ngột trong hoàn cảnh hiện nay.”
Cùng về câu hỏi đánh giá thế nào về sự lắng nghe, tiếp thu và ứng dụng các ý kiến đề xuất để giúp cho dân giàu nước mạnh, được các chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015, cũng như các Diễn đàn trước đó. Nhà phản biện độc lập TS Phạm Chí Dũng nhận định:
Tôi nghĩ bây giờ hãy cứ thực hiện một số tiến bộ có thể đạt được, còn các việc khác có lẽ là sẽ xem xét và từng bước sẽ được thực hiện. Tôi không nghĩ là cùng một lúc có thể có sự thay đổi đột ngột trong hoàn cảnh hiện nay.
-TS Lê Đăng Doanh
“Những tranh luận này thực ra không mới, tại vì những Đại hội Đảng trước bao giờ cũng có thảo luận và tranh luận thậm chí cũng đã đặt ra việc bỏ vai trò động lực chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhưng mà cuối cùng vẫn không bỏ. Do người ta bảo thủ đến mức như vậy nên cho tới nay không có gì thay đổi. Thực tình mà nói tôi không hy vọng là Dự thảo báo cáo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 sẽ được thay đổi về những định hướng và những chính sách cơ bản. Sẽ khó mà có chuyện đó, do vậy ở Việt Nam vẫn diễn ra một cảnh nghịch lý vô cùng tận là sự chênh biệt rất lớn giữa lý thuyết và thực tế. Các nhà lý thuyết và kinh tế cứ việc nói còn thực tế diễn biến ngược lại và cho đến khi nào mà thực tế bùng nổ như là cuộc đình công của 90 ngàn công nhân ở Pouyuen vừa rồi, thì người ta mới chợt ngộ ra một điều rằng tất cả đều sống trong một lâu đài trên cát.”
Tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 tổ chức tại Vinh, kinh tế gia Lê Đăng Doanh đã trình bày tham luận “Môi trường đầu tư kinh doanh và tác động của tham nhũng và chi phí phi chính thức. Theo VnExpress đây là bài tham luận gây chú ý ngay phiên khai mạc Diễn đàn.
TS Lê Đăng Doanh nói thêm về tham luận của ông.
“Tham nhũng sẽ dẫn đến những méo mó trong việc phân bổ tiền vốn, không phải phân bổ tiền vốn theo hiệu quả mà phân bổ tiền vốn theo mức độ đút lót và mức độ ưu đãi có thể đạt được. Thứ hai nữa, việc đút lót làm bóp méo tất cả khung pháp luật từ khung pháp luật bảo vệ môi trường, khung pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm rồi thì tất cả khung pháp luật về thi tuyển về bằng cấp có thể bị bóp méo và là vì do tham nhũng. Một điểm nữa là với môi trường tham nhũng như thế những doanh nghiệp kém mà tham nhũng đút lót lại có thể được hưởng lợi và nó làm nản lòng các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Từ đấy dẫn tới năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế tham nhũng thì sẽ bị tác hại rất là lớn…”
Tham luận của TS Lê Đăng Doanh tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 được báo chí giật tít lớn “Một đồng đút lót đổi một đồng lãi” đã nói lên tình trạng tham nhũng đang làm cản trở mọi ý định mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. TS Lê Đăng Doanh cho biết thêm:
“Chúng tôi có trích dẫn một báo cáo của cơ quan hỗ trợ phát triển của Anh đã tài trợ nghiên cứu và xuất bản tháng 8 năm 2014 vừa qua và được Ngân hàng Thế giới ở Việt Nam bảo trợ. Trong báo cáo đó đã điều tra các doanh nghiệp và đi đến con số hết sức đáng chú ý là để kiếm được một đồng lãi thì bình quân các doanh nghiệp phải đút lót khoảng 0,72 cho tới 1,2 đồng và tỷ lệ đó là rất cao.
Vấn đề chúng tôi đưa ra là phải nhanh chóng chống tham nhũng nếu không thì với chi phí cao như vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài mà các doanh nghiệp nước ngoài đến 2016 Cộng đồng kinh tế ASEAN hiệu lực thì họ đã ập vào Việt Nam rồi.”
Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 tổ chức tại TP. Vinh hai ngày 21-22 tháng 04 diễn ra trong lúc Việt Nam có nhu cầu thực hiện một cuộc đổi mới lần thứ hai sau 30 năm. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm 67% tổng kim ngạch xuất khẩu và chiếm 70% giá trị sản xuất công nghiệp. Đây là một sự thật đắng lòng vì Hiến pháp 2013 qui định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Vai trò của World Bank trong tái kiến thiết cơ sở hạ tầng cho Việt Nam ?



On Sunday, April 26, 2015 7:35 PM, Truc Nguyen <> wrote:


Vai trò của World Bank trong tái kiến thiết cơ sở hạ tầng cho Việt Nam

© Tú Hoa

I. SỰ THÀNH LẬP WORLD BANK (Ngân Hàng Thế Giới -WB):
WB có trụ sở chính tại Hoa Thịnh Đốn ( Washington, DC), được thành lập sau hội nghị Bretton Wood năm 1944 do Hoa Kỳ khởi xướng với tổng số cổ phần chủ yếu từ Hoa Kỳ nhằm một mục đích duy nhất là tài trợ phát triển kinh tế cho toàn cầu.
Nguyên nhân chủ yếu cho sự thành lập là giới chính trị gia cấp tiến của Hoa Kỳ lúc bấy giờ chủ yếu là từ đảng Dân Chủ cầm quyền của Tổng Thống Franklin Roosevelt cho rằng bất ổn về kinh tế và tài chánh là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh tàn phá và đã đến lúc toàn cầu cần có một tổ chức tài chánh ( finance institution ) vững mạnh đáp ứng cho nhu cầu trợ giúp kinh tế bình ổn an ninh trên toàn cầu
Ngoài ra , Hoa kỳ muốn có một tổ chức tài chánh finance institution để đứng ra thay mặt chính phủ Hoa Kỳ điều hành công cuộc tài trợ tái kiến thiết cho các quốc gia bị tàn phá bởi Đệ Nhị Thế Chiến . Cho nên World Bank là “bàn tay nối dài” của chính phủ Hoa Kỳ trong các kế hoạch sách lược phát triển toàn cầu của mình.
Do đó , các vị chủ tịch điều hành World Bank ĐỀU DO Tổng Thống Hoa Kỳ đích thân bổ nhiệm!
Ngày 22 tháng Ba năm 2012 , Tổng Thống Obama đã bổ nhiệm bác sĩ Jim Yong Kim làm chủ tịch của WB kế thừa vị tiền nhiện là Robert Zoellick . Bác sĩ Jim Young Kim trước nguyên là viện trưởng viện Dartmouth College
Như vậy, mọi hành động của WB đều đồng điệu với đường lối chính trị toàn cầu của Hoa Kỳ
Cho nên trong chiến lược “Nhìn Về Châu Á ” của Tổng Thống Obama , vai trò của WB đương nhiên nổi bật. Bàn về sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì cần đề cập tới vai trò của World Bank trong công cuộc tái thiết kinh tế Việt Nam .

II. SÁCH LƯỢC TIẾP CẬN NỀN KINH TẾ & XÃ HỘI VIỆT NAM CỦA WB
Khác với tình huống của nước Pháp và nhiều quốc gia đang phát triển khác , Việt Nam lại là một nước Cộng Sản cho nên sách lược tiếp cận của WB không đồng điều ào ạt ở mọi mặt như đã từng thấy mà là tiếp cận theo cách thức từng bước qua thỏa hiệp.
Lý do chủ yếu là Cộng Sản Hà Nội , vốn còn nặng nề quan niệm điều hành kinh tế theo kiểu Mác Lê , tập trung quản lý , độc tài toàn trị-không muốn nhượng bộ quyền kiểm soát độc đoán của Đảng lên mọi mặt của xã hội trong đó có kinh tế. Cho nên, trong quá trình bang giao thuơng thuyết , các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ép Cộng Sản Hà Nội nhượng bộ tới đâu trong việc nới lõng quyền kiểm soát của Đảng thì WB đầu tư hỗ trợ tới đó.
Do đó , sự hiện diện của WB tại Việt Nam là hệ lụy của một quá trình thương thảo cam go, thành công lấn từng bước một của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trước sự trì trệ, ngu dốt và độc tài toàn trị cố chấp của Cộng Sản Hà Nội.
Khi bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bật đèn xanh cho sự thuơng thảo thắng lợi từng điểm một, từng ngành kinh tế một , thì World Bank tiến sâu vào điểm thành công thuơng thảo này mà đầu tư tái thiết.
Khung sườn hành động của WB tại Việt Nam có thể tóm lượt qua năm mục tiêu phù hợp với nỗ lực của Hoa Kỳ trong quá trình tái thiết và hiện đại hóa Việt Nam như sau:
1. Xóa đói giảm nghèo cho Việt Nam
2. Tài trợ giáo dục cho trẻ em Việt Nam
3. Cải thiện bình đẳng giới tính về thu nhập
4. Cải Thiện y tế và nhiều mặt an sinh xã hội , trong đó có phòng chống bệnh dịch và bảo vệ môi trường
5. Tài trợ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
Trong đó , mục tiêu thứ năm đòi hỏi nguồn tài chánh nhiều nhất và chỉ được thực thi khi có sự hậu thuẫn của chính phủ Hoa Kỳ

III. NỖ LỰC CỦA WB TRONG VIỆC XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG KINH TẾ CHO VIỆT NAM ( mục tiêu thứ năm)
Đồng hành với chiến lược ” Nhìn Về Châu Á ” của Tổng Thống Obama , trong đó có việc tái kiến thiết cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế Việt Nam , WB gia tăng các khoản tài chánh tài trợ cho các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng từ chính phủ của Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam ông Nguyễn Tấn Dũng. Các dự án này bao gồm điện lực, đường xá, cầu cống, nhà máy xử lý nước thải, nhà máy sản suất nước ngọt, vân vân.
Thật tế , các dự án xây dựng này điều đã được thảo luận trước với Hoa Kỳ và WB trước khi chính thức loan báo.
Ngày 18 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội , bác sĩ Jim Young Kim, chủ tịch WB, đã loan báo một khoảng tài trợ gần 4 tỷ Mỹ kim cho ba năm 2915-2017 nhằm tài trợ các chương trình tái kiến thiết và hiện đại hóa cấu trúc hạ tầng cho Việt Nam. Tuyên bố này , một lần nữa khẳng định quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc tái kiến thiết cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế-xã hội của Việt Nam trong sách lược “Nhìn Về Châu Á ” của của Tổng Thống Obama

Vào ngày 17 tháng 11 năm 2014, WB chính thức cho Cộng Sản Việt Nam vay 500 triệu Mỹ kim để xây dựng công trình tải điện dài trên 1000 cây số(km) dựa trên các thiết bị tân tiến (Smart Grid technologies) với tổng số vốn cần cho xây dựng là 731 triệu Mỹ kim. Đây được coi là một món tài trợ vô cùng lớn từ WB với sự hậu thuãn của chính phủ Hoa Kỳ ở đàng sau, chiếm gần 68.5 % tổng số vốn đầu tư.
WB đã loan báo phê chuẩn một khoản tài trợ khoảng 450 triệu Mỹ kim cho chương trình xử lý nước thải, sản suất nước sạch tại Sài Gòn trong nổ lực giúp đở , tài trợ cho hiện đại hóa – canh tân cơ sở kinh tế hạ tầng về mặt an sinh xã hội cho thành phố Sài Gòn . Tổng số vốn của chương trình này lên đến 500 triệu Mỹ kim Như vậy , Hoa Kỳ thông qua WB đã tài trợ tới 90% tổng số vốn của dự án
Vào tháng 10 năm 2009, WB đã cho Việt Nam mượn 50 triệu Mỹ kim để đầu tư cho các chương trình giáo dục nghiên cứu ở mức cử nhân và trên cử nhân. Đây cũng là lần đầu tiên WB tham dự hổ trợ vào lãnh cực này của Việt Nam
WB cũng đã loan báo tài trợ cho Việt Nam thêm 522 triệu Đô la trong bốn năm 2012-2016 để tái kiến thiết và hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng lưu vực sông Cửu Long , trong đó bao gồm cả vấn đề về điện lực.
Tổng kết tổng số nợ WB dành cho Việt Nam trong việc tái kiến thiết trong giai đoạn hiện nay:
securedownload
Biểu đồ trên cho thấy Việt Nam còn 1.6 tỷ Mỹ kim đang chờ giải ngân (disburse) cho các chương trình tái kiến thiết cơ sở hạ tầng của mình từ WB (ghi chú IBRD: International Bank for Reconstruction (tái kiến thiết) and Development (phát triển) nằm dưới quyền điều khiển của WB)
Tổng kết tổng số tiền mà WB dành cho Việt Nam trong việc tái kiến thiết:
securedownload (1)
Như vậy Việt Nam còn một khoảng tài khóa khoảng 4.3 tỷ Mỹ kim từ WB cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua chương trình IDA( International Developement Asistance ) của WB.

Sự hổ trợ liên tục từ WB cho thấy vai trò của ngân hàng Nhà Nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam kiễm soát lần hồi phải hoạt động theo những phương thức của WB để sự trợ giúp của WB thành hiện thực và hiệu quả.

Mức độ trợ giúp không ngừng nghĩ của WB cho tái kiến thiết về cấu trúc hạ tầng kinh tế của WB tại Việt Nam sẽ khiến các nhà đầu tư tư bản tự tin hơn khi tham gia vào các dự án làm ăn tại Việt Nam đãm bảo tốc độ tăng trưởng về đầu tư ngoại quốc kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm số người thất nghiệp trong xã hội , gia tăng thu nhập bình quân quốc gia

Cho nên , mặc dù trên danh nghĩa chính thức, Hoa Kỳ chỉ là nước đầu tư đứng hàng thứ 8 sau cả Trung Quốc Nhật Bản , nhưng trên thực tế , nếu thừa nhận WB cũng là một cánh tay của Hoa Kỳ thì sẽ dễ dàng nhận ra, tại Việt Nam, Hoa Kỳ đã là người đầu tư và tái thiết kinh tế đứng hàng đầu tại Việt Nam trong âm thầm.
Dầu sao, một sự thật hiển nhiên không thể chối là chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới (World Bank-WB ) PHẢI DO Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm!

IV. VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA VỀ VAI TRÒ CỦA WB
Sau mười năm Quá Độ theo kinh tế Mác Lê cùng với những tác hại do chiến tranh để lại , Việt Nam hoàn toàn tụt hậu và đứng hàng thứ ba nghèo nhất trên thế giới vào năm 1985 . Để phát triển , cơ sở hạ tầng kinh tế của Việt Nam cần phải được hiện đại hóa càng sớm càng tốt. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có Hoa Kỳ hợp tác đàng sau thông qua WB hay các tổ chức tài chánh khác do Hoa Kỳ thành lập như ADB(Asian Development Bank ) , IMF( International Monetary Bank ).

Không có Hoa Kỳ hậu thuẫn và tài trợ, Việt Nam không thể xóa đói , giãm nghèo và tái kiến thiết cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nước nhà

Sự hiện diện WB còn là một biểu hiện ngầm sự cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ Việt Nam về mặt quốc phòng và môi trường. Sự bảo vệ này sẽ giúp Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc mọi mặt đầy khiêu khích và độc đoán từ phía Trung Quốc, một quốc gia láng giềng có một nhà nước cùng chung một bản chất tàn bạo và độc đoán trong cai trị như tại Việt Nam.

Việt Nam mà bị Trung Quốc khống chế hoàn toàn từ kinh tế đến chính trị thì số phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ giống số phận của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam trước kia : điểu tàn cung tận.

Phải chăng thủ tướng Cộng Sản Nguyễn Tấn Dũng đang kiếm một con đường tháo chạy an toàn về sanh mạng và tài sản không những cho riêng ông mà cho cả toàn bộ Đảng của ông khi đang cố thuyết phục Đảng Cộng Sản hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ?

V. KẾT LUẬN
WB sẽ còn tiếp tục hiện diện tại Việt Nam lâu dài để hoàn thành sứ mạng tài trợ cho sự canh tân và phát triển. Đây là một sứ mạng đã được Hoa Kỳ đứng sau hỗ trợ và giao phó cho WB
Mối quan hệ Hoa Kỳ- Việt Nam ẩn chứa một quan niệm chiến lược lâu dài của Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy Đông Nam Á thành một vùng phát triển thịnh vượng trong hòa bình và tự do -phù hợp với sách lược “Nhìn Về Châu Á” của Tổng Thống Obama .
Cho nên có quá lắm không nếu cho rằng trong “đôi mắt” của Tổng Thống Obama có trùng dương dạt dào sóng vỗ, cứ mãi nhấp nhô bồi đắp một tương lai?
—————————————
Ghi chú:
Bài viết sử dụng tư liệu của Vietnamnews.vn; Universityworldnews, Devex, Tuoitrenew.vn, Wikipedia


__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-18/11/2024

My Blog List