Hình ảnh nói lên: Sự kiện Tội Ác Việt Cộng ! ! !






http://1.bp.blogspot.com/-H2UASSKYcOk/UJml_6fpwuI/AAAAAAAA0Q8/ThhrjwncSGc/s1600/babui-danlambao-%C4%90a%CC%82%CC%81t+nu%CC%9Bo%CC%9B%CC%81c+la%CC%80+ca%CC%81i+%C4%91uo%CC%82i+sam1.jpg








Saturday, July 9, 2016

Bà nghị sĩ và Tập đoàn Formosa


Bà nghị sĩ và Tập đoàn Formosa

Mai Thái Lĩnh
Bài viết sau đây của Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh, bằng những sự kiện được mô tả chi tiết sẽ cho chúng ta thấy rõ lai lịch và “thành tích” của Tập đoàn siêu hạng Formosa trước khi đầu tư vào Việt Nam:
- Formosa đã bị tai tiếng rất nhiều vì tội phạm hủy hoại môi trường;
- Ngay ở Đài Loan đã nổ ra những cuộc phản đối Formosa dữ dội, ngoài việc bắt đền tiền đã khởi kiện và yêu cầu đóng cửa;

- Sự phản đối của dân Đài Loan với Tập đoàn Formosa không chỉ đơn thuần về kinh tế và môi trường. Về nguồn gốc Formosa thuộc phái thân Hoa lục độc tài cực đoan, đối lập với Đảng Dân Tiến Đài Loan có tính chất thân dân chủ, và bảo vệ môi trường, bảo vệ dân sinh.

Đọc xong, không thể không bật ra câu hỏi: Các cấp lãnh đạo ở Việt Nam khi chấp nhận cho Tập đoàn Formosa lập một khu liên hợp công nghiệp, độc quyền vận hành trong 70 năm, tại một vùng hiểm yếu về an ninh như Vũng Áng, các vị có biết những thông tin này không, có biện pháp cảnh giác gì tương xứng không, hay chỉ nhìn thấy một mối lợi trước mắt nào đó? Hay là… còn gì gì nữa, để đến nay đã thành thảm họa, dễ chừng 50 năm nữa chắc gì đã gột rửa xong?

H.S.P

Ngày 16/6/2016, trong một cuộc họp báo tại Đài Bắc, ba nghị sĩ của Đảng Dân Tiến (hiện đang cầm quyền) đã lên tiếng yêu cầu Chính phủ Đài Loan chỉnh đốn hoạt động của các nhà đầu tư ở hải ngoại, vì các cáo buộc cho rằng hàng triệu con cá chết tại Việt Nam là do một nhà máy thép của Tập đoàn Formosa gây ra.

clip_image002
Hình 1: (Từ phải qua trái) Bà Tô Trị Phần, bà Vưu Mỹ Nữ và ông Ngô Côn Dụ. Người thứ tư ngồi kế ba nghị sĩ là Linh mục Nguyễn Văn Hùng (người Việt Nam).
Ba nghị sĩ đó là Tô Trị Phần (Su Chih-fen 蘇治芬)[1][i], Vưu Mỹ Nữ (Yu Mei-nu 尤美女) và Ngô Côn Dụ (Wu Kun-yu 吳焜裕).
Câu hỏi đặt ra là: tại sao các nghị sĩ Đài Loan này lại quan tâm đến các ngư dân Việt Nam? Và tại sao cách đây không lâu, Tập đoàn Formosa vẫn hùng hồn tuyên bố chuyện cá chết tại Việt Nam là do “thủy triều đỏ”, không liên quan gì đến nhà máy thép của Formosa Hà Tĩnh, vậy mà từ sau cuộc họp báo đó, Chủ tịch Formosa Hà Tĩnh đã thay đổi thái độ, thừa nhận cá chết là do chính họ?

Hãy thử lý giải hiện tượng này bằng cách tìm hiểu mối liên hệ giữa nhân vật quan trọng nhất trong buổi họp báo (bà Tô Trị Phần) với Tập đoàn Formosa, thông qua một số tài liệu nghiên cứu và tin tức trên báo chí Đài Loan.

Bà Tô Trị Phần là ai?

Bà Tô Trị Phần (Su Chih-fen 蘇治芬) xuất thân từ một gia đình rất nổi tiếng tại Đài Loan, mặc dù ở ngoại quốc người ta ít biết đến. Cha bà là Tô Đông Khải (Su Tung-chi 蘇東) – một nhân sĩ nổi tiếng tại huyện Vân Lâm (Yunlin), ở Trung-Tây đảo Đài Loan. Ông đã từng theo học tại Đại học Meiji (Nhật Bản) và vào đầu thập niên 1960 là nghị viên hội đồng tỉnh Đài Loan. 

Năm 1960, xảy ra vụ án Lôi Chấn (Lei Chen ). Lôi Chấn nguyên là một trí thức ở đại lục, theo chân quân đội Quốc Dân Đảng (QDĐ) đến Đài Loan sau khi cộng sản chiếm được Đại lục. Ông là người sáng lập và phát hành tạp chí Trung Hoa tự do vào năm 1950. Mặc dù là đảng viên QDĐ, cố vấn của Tưởng Giới Thạch, nhưng do lập trường ủng hộ dân chủ của tờ báo, ông đã làm phiền lòng nhà độc tài. Đầu tháng 9 năm 1960, ông bị bắt giam và kết tội phản quốc với bản án 10 năm tù theo lệnh của Tưởng Giới Thạch. Tờ tạp chí cũng bị đóng cửa từ đó.

Một vài trí thức nổi tiếng đã ký kiến nghị yêu cầu Chính phủ trả tự do cho Lôi Chấn nhưng không thành công; trong số những người ký kiến nghị có chính trị gia Tô Đông Khải. Một năm sau (1961), hàng trăm nhà hoạt động tại Đài Loan bị bắt, trong đó có ông Tô. Ông bị kết tội âm mưu nổi loạn chống chính quyền và lãnh án tử hình.[ii] Bà vợ của ông là Tô Hồng Nguyệt Kiều (Su Hung Yueh-chiao 蘇洪月嬌) cũng bị bắt, sau đó bị kết án tù chung thân. Mãi đến năm 1976, dưới thời Tưởng Kinh Quốc, sau 15 năm ngồi tù bà Tô Hồng mới được trả tự do. Theo Linda Gail Arrigo, sau khi được ra khỏi tù, bà ứng cử vào hội đồng địa phương và trúng cử. 

Chính quyền QDĐ tìm cách gây khó dễ, nhưng sau đó không thể loại bỏ bà ra khỏi chức vụ dân cử.[iii] Gia đình họ Tô tại Vân Lâm trở thành một trong những hạt nhân địa phương đầu tiên góp phần quan trọng vào việc hình thành đảng đối lập lớn nhất tại Đài Loan vào năm 1986 – Đảng Dân chủ Tiến bộ, thường gọi tắt là Đảng Dân Tiến (tên trong tiếng Anh là Democratic Progressive Party, viết tắt là DPP).

Khi cha mẹ bị bắt giam, bà Tô Trị Phần mới lên 8 tuổi. 
Những nỗi đau mà gia đình bà phải gánh chịu đã thúc đẩy bà tham gia vào hoạt động chính trị. Bà bắt đầu nổi tiếng trên chính trường khi trúng cử chức vụ huyện trưởng Huyện Vân Lâm (Yunlin) vào cuối năm 2005. Vào lúc này, Đảng Dân Tiến đã nắm được chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ và bước vào nhiệm kỳ thứ hai. 

Đảng Dân Tiến bước vào một giai đoạn khó khăn vì tuy nắm được quyền hành pháp nhưng tại Viện Lập pháp, Quốc Dân Đảng nắm đa số ghế. Trong cuộc bầu cử địa phương năm 2005, QDĐ thắng lớn: QDĐ thắng tại 14/23 thành phố và huyện, trong khi Dân Tiến trước đây nắm được 9 thành phố và huyện, nay chỉ còn nắm được 6 địa phương – trong đó có huyện Vân Lâm và huyện Gia Nghĩa (Chiayi). Huyện trưởng tại hai huyện này là bà Tô Trị Phần và ông Trần Minh Văn (Chen Ming-wen 陳明文).

Vụ án tham nhũng của cựu Tổng thống Trần Thủy Biển và gia đình là sự kiện lớn nhất trong giai đoạn này. Ngày 20/5/2008, chỉ một giờ sau khi rời khỏi chức vụ Tổng thống (nghĩa là mất quyền miễn tố), ông Trần Thủy Biển lập tức bị bắt giữ và hạn chế quyền đi lại (lấy cớ là có thể bỏ trốn ra nước ngoài) vì bị cáo buộc các tội tham nhũng và lạm dụng quyền lực. Vụ án này kéo dài hơn hai năm, đến tận tháng 11 năm 2010, với phán quyết cuối cùng của Tòa án Tối cao: ông Trần Thủy Biển và vợ ông là bà Ngô Thục Trân (Wu Shu-jen 吳淑珍) bị kết án tù (17 năm rưỡi) và phải nộp phạt 154 triệu Đài tệ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Đài Loan, một nguyên thủ quốc gia bị án tù.

Ngày 4/11/2008, lợi dụng vụ án tham nhũng của Trần Thủy Biển đang ở thời kỳ cao điểm, cơ quan công tố đã bắt giữ và thẩm vấn bà Tô Trị Phần – Huyện trưởng huyện Vân Lâm, vì cho rằng bà đã nhận hối lộ 5 triệu Đài tệ (tương đương 151 ngàn đô-la Mỹ) để thông qua một dự án xây dựng một hố chôn rác (landfill construction project). Việc bắt giữ này đã gây phẫn nộ trong người dân tại địa phương. 

Các đảng viên Dân Tiến lên án cơ quan công tố vì cho rằng họ chịu sự chỉ đạo từ phía Chính phủ (của QDĐ) để nhân cơ hội này bức hại các đảng viên Dân Tiến – nhất là những người có uy tín tại địa phương như bà Tô Trị Phần (huyện trưởng Vân Lâm) và ông Trần Minh Văn (Chen Ming-wen 陳明文) – Huyện trưởng huyện Gia Nghĩa.

clip_image004
Hình 2: Bà Tô trị Phần đang giơ cao hai tay bị còng để phản đối khi bị đưa lên một xe cảnh sát đến cơ quan công tố để thẩm vấn (Ảnh chụp ngày 10/11/2008)
Các công tố viên đòi kết tội bà Tô bằng một bản án 15 năm tù và 8 năm bị tước quyền công dân (có lẽ để bà không thể nào tiếp tục sự nghiệp chính trị), thế nhưng qua hai lần xét xử, tòa án đã tha bổng bà Tô Trị Phần. 

Vì cơ quan công tố không chịu bỏ cuộc, tiếp tục kháng cáo nên mãi đến giữa tháng 1 năm 2012, Tòa án Tối cao mới ra phán quyết chung thẩm bác bỏ toàn bộ các cáo buộc của phía công tố, trả lại sự trong sạch cho bà Tô.[iv] Điều an ủi đối với bà Tô là trong kỳ bầu cử địa phương năm 2009, bà tiếp tục trúng cử chức vụ Huyện trưởng. Và chính trong nhiệm kỳ thứ hai này, bà Huyện trưởng Tô Trị Phần đối đầu với Tập đoàn hóa dầu “khổng lồ” Formosa.

Để có thể hiểu rõ hơn về một huyện, cũng cần nói thêm đôi điều về cách phân chia hành chính của Đài Loan. Thời gian đầu Đài Loan được chia thành hai tỉnh Đài Loan và Phúc Kiến, nhưng tỉnh Phúc Kiến chỉ bao gồm hai quần đảo Kim Môn và Mã Tổ, còn lại đều thuộc tỉnh Đài Loan. Từ năm 1967 đến nay, có 6 thành phố lần lượt trở thành thành phố đặc biệt (special municipalities, 直轄市 trực hạt thị) trực thuộc trung ương: Đài Bắc (Taipei), Cao Hùng (Kaohsiung), Tân Đài Bắc (New Taipei), Đài Trung (Taichung), Đài Nam (Tainan) và Đào Viên (Taoyuan). Tỉnh Đài Loan chỉ bao gồm 3 thành phố thuộc tỉnh (provincial cities, thị) và 11 huyện (counties, huyện). Vân Lâm là một huyện, đứng đầu là huyện trưởng (magistrate, có khi gọi là commissioner).

Cuộc đối đầu giữa bà Huyện trưởng và Tập đoàn Formosa

Tập đoàn Formosa (tên đầy đủ là Formosa Plastics Group – Tập đoàn Nhựa Formosa, thường viết tắt là FPG) khởi công xây dựng khu công nghiệp Mạch Liêu (Mailiao 麥寮) tại huyện Vân Lâm từ năm 1994, và bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1999. Đó là một tổ hợp công nghiệp khổng lồ được xây dựng trên một diện tích khoảng 2.600 hec-ta, với 61 nhà máy (dữ liệu năm 2014). Hạt nhân của khu công nghiệp hóa dầu này là nhà máy naphtha cracker số 6 (sử dụng naphtha để sản xuất ra ethylene – một hóa chất được sử dụng nhiều nhất trong ngành hóa dầu). Gọi là “nhà máy naphtha cracker số 6” nhưng thực chất là ba nhà máy được lần lượt xây dựng, nhà máy thứ ba hoàn thành vào năm 2007. Tổng công suất của cả ba nhà máy là 2,9 triệu tấn ethylene/năm, chiếm 75% sản lượng ethylene của Đài Loan (dữ liệu 2010). Nhà máy naphtha cracker số 6 được các nhà khoa học đánh giá là “tác nhân gây ô nhiễm môi trường lớn nhất tại Đài Loan”. Trong bài viết này, tôi tạm gọi nhà máy naphtha cracker là “nhà máy NC”.
Ngày 7 tháng 7 năm 2010, một đám cháy đã xảy ra sau vụ nổ tại một phân xưởng của nhà máy NC nhỏ nhất trong 3 nhà máy NC tại Mạch Liêu (công suất 700 ngàn tấn/năm) khiến cho nhà máy phải ngừng hoạt động. Ba tuần lễ sau đó, ngày 25/7, một đám cháy thứ hai lại xảy ra tại một phân xưởng khác của nhà máy này. Qua ngày hôm sau, đứng ở phía bắc cảng Đài Trung, cách đó hơn 70 km, người ta vẫn còn nhìn thấy cột khói đen của đám cháy.

Thật ra, cháy nổ vẫn xảy ra thường xuyên tại khu công nghiệp hóa dầu Mạch Liêu của Formosa. Chỉ tính riêng trong năm 2009, đã xảy ra tổng cộng 11 vụ cháy nổ tại khu công nghiệp này, khiến cho tin cháy nổ trở thành quen thuộc tựa như tai nạn ô tô. Nhưng hai vụ cháy nổ lớn liên tiếp xảy ra chỉ trong vòng chưa đầy một tháng đã khiến cư dân trong vùng bàng hoàng. Hàng trăm cư dân tại Mạch Liêu đã tụ tập trước cổng của nhà máy NC, một số đeo mặt nạ có chữ “độc () để phản đối Formosa – thủ phạm gây ra ô nhiễm môi trường.

Đám cháy âm ỉ suốt 36 giờ đã gây thiệt hại cho ngành nuôi trồng thủy sản cũng như nông nghiệp tại địa phương. Tại một nông trại nuôi 300 ngàn con vịt – trong đó có 6 ngàn con vịt con, chỉ trong một đêm gần 2 ngàn con vịt con đã chết. Người ta ngờ rằng nguyên nhân của tình trạng này là do tro than và mưa a-xít mà đám cháy gây ra đã làm ô nhiễm nguồn nước.

Sáng ngày 28/7, bà Thái Anh Văn (Chủ tịch Đảng Dân Tiến) đã đến huyện Vân Lâm để thanh tra sự thiệt hại đối với ngành thủy sản tại đây. Tháp tùng bà có bà Huyện trưởng Tô Trị Phần. Các nông dân đã cho bà Thái Anh Văn xem những con nghêu, sò (clams) đã chết – bị ngả sang màu nâu hay đen, có lẽ do nước bị ô nhiễm. 

Chủ tịch Thái nói rằng hai tai nạn công nghiệp liên tiếp không chỉ gây ra thiệt hại cho các nhà nuôi trồng thủy sản ở gần nhà máy NC số 6 mà còn gây thiệt hại lớn lao cho môi trường, vượt quá quyền hạn của chính quyền địa phương.[v]

Ngày 29/7, bà Tô Trị Phần (Huyện trưởng Vân Lâm) đã đích thân tham gia một cuộc biểu tình phản đối tại Đài Bắc. Cùng với các cư dân địa phương và các chính trị gia, bà quỳ gối trước trụ sở của Viện Hành pháp (tức Chính phủ Đài Loan) để bày tỏ sự phản đối các chính sách của chính quyền trung ương trong lĩnh vực công nghiệp và bảo vệ môi trường. 

Hành động này đã kích thích sự quan tâm và tranh luận rộng rãi trên toàn quốc. Ngày hôm sau (30/7) Thủ tướng Ngô Đôn Nghĩa (Wu Den-yih ) sau khi đích thân đến thị sát tại nhà máy, đã tuyên bố nhà máy bị cháy nổ phải lập tức đóng cửa và chỉ được phép mở lại sau khi chính quyền trung ương đã kiểm tra mức độ an toàn.[vi]

Cơ quan quản lý môi trường của Đài Loan – Cục Bảo vệ Môi trường (Environmental Protection Administration, EPA) đã quyết định phạt Formosa 1 triệu Đài tệ ($NT), tương đương 31.000 đô-la Mỹ (31,000 $US), mức phạt cao nhất theo quy định của luật pháp. 

Đây là một mức phạt “quá nhẹ” dưới con mắt của các nhà đấu tranh bảo vệ môi trường. Họ cho rằng EPA thực ra chỉ là một cơ quan “đóng dấu” (rubber stamp) thừa hành lệnh của cơ quan hành pháp trung ương – vốn luôn chủ trương “ủng hộ phát triển công nghiệp mà xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường”.

Ngày 17/8/2010, sau khi các cuộc thương thảo về tiền bồi thường giữa cư dân địa phương và Tập đoàn Formosa không đạt được thỏa thuận, hàng ngàn cư dân đã tức giận, kéo nhau chặn tất cả ba con đường chính dẫn đến tổ hợp hóa dầu của Formosa tại Mạch Liêu. Sử dụng còi và loa phóng thanh, đám đông giận dữ đã vây hãm tổ hợp, đòi hỏi Tập đoàn phải trả cho cư dân 1,8 tỷ Đài tệ (NT$ 1.8 billion) – tương đương 53 triệu đô-la Mỹ, vì đã làm ô nhiễm khu vực và gây nguy hại đến sức khỏe của họ. Họ cũng yêu cầu Công ty hứa di chuyển nhà máy đi chỗ khác trong thập niên này. Gần 1000 cảnh sát và ít nhất ba công tố viên đã được gửi đến hiện trường trong một nỗ lực để giải tỏa đường cho các nhân viên Công ty và ngăn ngừa các hoạt động bất hợp pháp. Đã có đụng độ nhẹ giữa hai bên mặc dù không có thương vong. Cảnh sát đã ra lệnh bắt 7 người lãnh đạo cuộc biểu tình, nhưng sau khi thẩm vấn đã phóng thích họ mà không buộc tội hoặc yêu cầu đóng tiền bảo lãnh.
3clip_image006
Hình 3: Cư dân biểu tình trước cổng khu tổ hợp Mạch Liêu
Về phía Tập đoàn, đại diện của Formosa nói không thế chấp nhận đòi hỏi của những người biểu tình, và Công ty sẽ cung cấp không hơn 500 triệu Đài tệ ($NT) tiền bồi thường. (“Mailiao protestors block access to FPG plant”, Taipei Times Aug 18, 2010)
clip_image007
Hình 4: Cảnh sát bảo vệ cổng nhà máy NC số 6 tại Mạch Liêu.
Vì chưa nguôi cơn giận, sáng hôm sau (18/8), dưới sự lãnh đạo của một “hội tự-cứu”[vii] tại địa phương, những người biểu tình đã ngăn chặn một con đường vào khu tổ hợp công nghiệp, gây ra ách tắc trên một quãng đường dài 3km. Cảnh sát đã phải tạo thành một “bức tường người” để mở đường cho khu công nghiệp hóa dầu hoạt động. (“Residents block access to FPG plant for a second day”, Taipei Times Aug 19, 2010).

Theo tài liệu của Yi-En Tso, mãi đến ngày 2/9/2010, các cuộc thương thảo về bồi thường mới đạt được thỏa thuận. Về phía Formosa, Tập đoàn đồng ý kiểm tra sức khỏe miễn phí thông qua Bệnh viện Chang Gung – một bệnh viện tư thuộc quyền sở hữu của Tập đoàn. Ngoài ra, Tập đoàn sẽ trả tiền bồi thường 250 triệu Đài tệ trong năm đầu tiên, và kể từ năm thứ hai mọi cư dân tại Mạch Liêu sẽ được nhận tiền bồi thường hàng năm 7.200 Đài tệ (7,200 NT$).
(còn tiếp)
M.T.L.

[i] Trong sách báo tiếng Anh hiện nay, tên bà Tô Trị Phần được phiên âm là Su Chih-fen, hoặc Su Chih-feng. Tôi dựa vào cách ghi trên chính trang Facebook của bà.
[ii] Hannah Pakula, The Last Empress: Madame Chiang Kai-shek and the Birth of Modern China, Simon and Schuster, 2009, p. 625. Về việc ông Tô Đông Khải có bị hành quyết hay không, Pakula nói “có lẽ” đã bị hành quyết, có tác giả khẳng định “đã hành quyết một năm sau đó”, nhưng lại có tác giả cho rằng đã chuyển thành án tù chung thân.
[iii] Linda Arigo, “Social Origins of Taiwan’s Democratic Movement”, 1981:
[iv] Tương tự là trường hợp của Trần Minh Văn, huyện trưởng huyện Gia Nghĩa (2001-2009). Ông cũng được Tòa án tha bổng. Hiện nay, ông là nghị sĩ của Viện Lập pháp khóa 9, và được coi là một nhân vật lãnh đạo sáng giá của Đảng Dân Tiến.
[v] “Cai Ying-wen Consoled Southern Aquaculture Farmers suffered from the Sixth Naphtha Cracker Plant Fire”, 2010-07-28:
[vi] Yi-En Tso, David A. McEntire, “Emergency Management in Taiwan: Learning from Past and Current Experiences”, In David McEntire (Ed.) Comparative Emergency Management: Understanding Disaster Policies, Organizations, and Initiatives from Around the World, FEMA, DHS, 2011.
[vii] Hội tự cứu (self-help association) là một hình thức của nhóm lợi ích (interest group) tại Đài Loan. Từ thập niên 1980, nông dân thường tập hợp trong các hội tự cứu để hợp sức đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho chính bản thân và gia đình họ.
Tác giả gửi BVN.
__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

KẺ BÁN NƯỚC CHÍNH LÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM


                                        KẺ BÁN NƯỚC CHÍNH LÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM
                                                                                          

Vừa qua, sau khi đã bị người dân phanh phui về việc bán biển đảo cho Tàu cộng thì đảng CSVN phải bào chữa một cách gượng ép qua bài viết được đăng trên website và facebook của dư luận viên với tiêu đề “AI MỚI THỰC SỰ LÀ KẺ BÁN BIỂN ĐẢO?”. Trước hết xin được điểm qua vài nét chính trong bài viết của đảng CSVN về việc bán biển đảo đất nước.
Bài viết này có đoạn như sau :“ Dưới thời VNCH chủ quyền biển đảo đối với họ là không quan trọng(còn thì giữ mất thì thôi).Bằng chứng 1956 họ đã dâng 2 đảo nổi lớn nhất trong quần đảo Trường Sa lần lượt cho Đài Loan(Ba Bình) và Trung Quốc(Phú Lâm).Đến năm 1970 họ còn hào phóng cho Philippines"mượn" 10 đảo và bãi cạn lớn nhất nhì ở Trường Sa(Thị Tứ,Song Tử Đông,Bến Lạc,Loại Ta,Bình Nguyên,Vĩnh Viễn,Bãi An Nhơn,Bãi Cỏ Mây,Đá Cá Nhám,Đá Công Đo).
Năm 1974 họ dâng nguyên quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc trong một trận hải chiến được coi là nỗi nhục lớn nhất của nền quân sự Việt suốt hàng ngàn năm.Bởi ưu thế và thực lực quân sự vượt trội so với đối phương.Sau khi mất nguyên quần đảo họ vẫn tổ chức ăn mừng linh đình như chưa hề có gì xảy ra...
Đó là chưa kể Malaysia cũng được "cho mượn" 7 đảo gồm(Đá Én Ca,Đá Hoa Lau,Đá Kỳ Vân,Đá Sác Lốt,Đá Suối Cát,Đá Kiêu Ngựa,Bãi Thảm Hiểm).Thậm chí Campuchia cũng được họ nhờ"giữ dùm" vài đảo nhưng may mắn ta đã lấy lại được!
Nếu 1975 Quân Đội Nhân Dân Việt Nam không ưu tiên giải phóng những đảo còn lại từ tay VNCH thì có lẽ bây giờ Việt Nam đã không còn đảo,bởi chắc chắn sẽ rơi vào tay ngoại bang!” (Hết trích). Bài viết ký tên: Hội Sử Học Dân Lập Việt Nam.
Trước hết, cần phải nói là cái Hội Sử Học Dân Lập Việt Nam không biết là cái hội nào và ai công nhận nó. Nhưng điều đó cũng không quan trọng lắm bởi vì nội dung của bài viết mới là điều tối quan trọng. Và cái mà chúng ta thấy ở bài viết này đó là chỉ nói và nói mà thôi. Không có bất cứ một lý luận hay bằng chứng khoa học nào. Nếu mà viết sử theo kiểu khơi khơi như thế này thì có lẽ con nít cũng có thể viết được sử mà chẳng cần nghiên cứu hay bằng cớ.
Trở lại nội dung của bài viết, chúng ta thấy bài viết vu cáo cho VNCH là “bán” Hoàng Sa – Trường Sa cho Trung Cộng, Philippines nhưng lại không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh cho sự vu cáo đó. Ngược lại, sự thật lịch sử lại hoàn toàn khác những gì bài viết và đảng CSVN cố gắng tuyên truyền dối trá. Bởi vì, thực tế lịch sử cho biết VNCH luôn luôn cho người canh giữ và xác lập chủ quyền trên tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam mà báo chí, sách sử VNCH đã ghi lại rõ nét. Nhưng ở đây, điều đáng nói là chính báo chí của nhà cầm quyền cộng sản VN cũng đã phải công nhận điều này.
Thứ nhất, báo điện tử VNEXPRESS.NET ngày 17/01/2014 có bài “Chủ quyền không thể xác lập bằng vũ lực”. Bài viết có đoạn: “ Suốt quá trình trước, trong và sau trận hải chiến Hoàng Sa, Việt Nam Cộng hòa (VNCH) liên tục phản đối các hành động của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao VNCH đã ra Tuyên cáo lên án Trung Quốc xâm chiếm và khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của VNCH tại quần đảo này. Trên thực địa, nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền, hải quân VNCH đã phải nổ súng, thực hiện quyền tự vệ chính đáng, dù biết đối phương mạnh hơn.
Một ngày sau trận chiến, Bộ Ngoại giao VNCH tiếp tục có công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc để yêu cầu Tổng thư ký, theo Điều 99 Hiến chương, lưu ý Hội đồng Bảo an về tình hình nghiêm trọng xảy ra bởi hành động xâm chiếm của Trung Quốc. Tiếp đó, VNCH gửi thư cho các quốc gia thành viên của Hiệp định Paris.
Ngày 22/3/2974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã đến New York (Mỹ) hội kiến Tổng thư ký Liên hợp quốc để tái xác định lập trường của VNCH về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa…”. Qua bài viết, chúng ta thấy điều gì ? Đó là đảng CSVN đã phải công nhận sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của VNCH đối với Hoàng Sa- Trường Sa là không thể chối cãi. Những luận điệu của dư luận viên như vậy đã đập lại vào chính báo chí của đảng. Đó là một sự mâu thuẫn đến nực cười của cái gọi là Hội Sử Học Dân Lập Việt Nam.
Thứ hai, Trên tờ Thanh Niên điện tử số ra 09/07/2014 cũng khẳng định rõ ràng về việc VNCH chăm lo và gìn giữ biển đảo quê hương như sau “Vấn đề hải phận đã được cụ thể hóa bằng Sắc lệnh số 81-NG của Thủ tướng chính phủ VNCH ngày 27/5/1965 ấn định hai khu vực: Một khu vực gọi là Khu vực phòng vệ trong giới hạn 03 Hải lý kể từ bờ. Một khu vực gọi là Khu vực kế cận kể từ ranh giới ngoài hải phận đến giới hạn 12 hải lý kể từ bờ. Trong khu vực kế cận, văn kiện ấn định cho quốc gia những thẩm quyền tương đương với quyền mà thỏa ước Geneve quy định cho một quốc gia ven biển, đối với vùng kế cận hải phận của mình.
Năm 1969, VNCH đã thành lập một Ủy ban Liên bộ soạn thảo dự luật quy định hải phận quốc gia. 
Vấn đề thềm lục địa cũng nóng lên cùng với những hoạt động con thoi: Một bản tuyên cáo của Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia ngày 7/9/1967 xác định phần lòng đất và đáy biển thềm lục địa là một phần lãnh thổ quốc gia, và thuộc thẩm quyền của Chính phủ VNCH.
Năm 1968, VNCH thành lập một Ủy ban nghiên cứu thềm lục địa, sau đó giao công việc lại cho Ủy ban Quốc gia dầu hỏa 2/6/1971.
Ngày 13/7/1961 dưới thời Đệ nhất cộng hòa, Tổng thống VNCH đã ban hành sắc lệnh 174NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam thay vì tỉnh Thừa Thiên và thành lập lại quần đảo này thành xã Định Hải, quận Hòa Vang.
Dưới thời Đệ nhị cộng hòa, Nghị định số 709-BNV/HC ngày 21/10/1969 của Thủ tướng chính phủ VNCH đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.” (Hết trích). Rõ ràng, tờ Thanh Niên của đảng CSVN cũng đã khẳng định VNCH đã làm hết sức mình gìn giữ non sông Việt Nam, khác hẳn với những tuyên truyền bôi nhọ của đội ngũ dư luận viên đảng CSVN.
http://hon-viet.co.uk/HaiChienHoangSa3b.JPG
Trong khi đó, đảng CSVN không những không gìn giữ biển đảo mà còn bán nó cho Tàu Cộng có bằng chứng, văn bản hết sức rõ ràng. Cụ thể ở đây là công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh, cùng những tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa có lợi cho Tàu cộng của quan chức bạo quyền cộng sản.


Ngay sau khi công hàm công nhận Hoàng Sa – Trường Sa là của Tàu cộng do Hồ Chí Minh giao cho Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 thì thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam đưa tin.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUxtZr4xh8lxoLzCtMJK_JWdEec4F06UHN2bwEW9wlbY3pAfiZEPvDycAQr0tdtkayWgtBnmCQon73Wby015pGSh1Jva49GodQYn2MUAjJia7NvEHtqgAKkkjI2zGm6BJEcf7fcunrvoY/s1600/BaoNhanDan1.jpg

Và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, đã gặp Cơ Bàng Phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân Lai. 
Trước đó, năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung Cộng, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân, tham tán sứ quán Trung Cộng tại Việt Nam: “Chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ.”
Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".
Hoàng Tùng, nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng CSVN đã nói : “Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và  chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả cho mình” .
Để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung Cộng, Phùng Quang Thanh thời điểm còn là đại tướng ủy viên BCT / TW đảng, bộ trưởng bộ quốc phòng thay mặt đảng, quân đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Giải Phóng Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam ngày 28/7/2012 như sau:“... Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam...” 
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhoRfDilguqaXKil25mIhWzT_unSWNhQp3XNn5agntF2R43v8B7FuA8LFZ2pLmP8qvdeU12scBw5qo9K2hosI72kMk9ABtsIUlNzfHGQLsodVQmtNdJALxtLFmNZfqgvsSj0iKzPSUw5HY/s1600/BaoNhanDan2.jpg
Thay mặt cho nhà nước Cộng Hòa Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nguyễn Thiện Nhân lúc đang là phó Thủ Tướng chính phủ, trong lần chủ trì “Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc – Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc” tại Hà Nội ngày 10/07/2012 đã chỉ thị: “Hội hữu nghị Việt Nam -Trung Quốc sẽ tổ chức các hoạt động tri ân các cá nhân, tổ chức và địa phương Trung Quốc, xuyên suốt trong 5 năm, sau đại hội này…”
Tiêu biểu cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần Đăng Thanh đại tá phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện Chính trị Quốc Gia Bộ Quốc Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây ngày 19/12/2012 đã phân tích:“... Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên...”.
Tất cả những bằng chứng bán nước hại dân này đều do đảng CSVN viết ra và tuyên bố. Không có giấy mực nào có thể bào chữa cho sự bán nước của bè lũ mafia CSVN, cũng như xóa được công lao bảo vệ đất nước của VNCH nói chung và quân lực VNCH nói riêng. Nhắc lại sự kiện bán biển đảo này mặc dù không còn là mới, nhưng vẫn còn có nhiều người dân vẫn đang bị đảng CSVN lừa dối hàng ngày. Trả lại sự thật cho lịch sử và nhận ra bản chất nói dối đến cùng cực của đảng CSVN chính là trách nhiệm của mỗi người dân chúng ta khi mà tổ quốc đang trong cơn “ngàn cân treo sợi tóc” như hiện nay. Và đó cũng là con đường mà dân tộc Việt sẽ phải đi qua để vứt bỏ sợ hãi, đấu tranh vì một Việt Nam tươi sáng, không cộng sản trong tương lai.
Đặng Chí Hùng
08/07/2016









__._,_.___


Friday, July 8, 2016

Formosa cần bồi thường cho nhân zân Vietnam: 1kỹ USD hay là (aka): 1,000 tỷ USD hay là (aka): 1,000,000 triệu USD và đóng cửa công ty Formosa, Hà Tĩnh


Formosa cần bồi thường cho nhân zân Vietnam: 1kỹ USD
hay là (aka): 1,000 tỷ USD
hay là (aka): 1,000,000 triệu USD
và đóng cửa công ty Formosa, Hà Tĩnh

TS Nguyễn Thị Hải Yến, CHLBĐ
Cơ sở khoa học tính toán thiệt hại thảm họa sinh thái tại vùng biển miền Trung Việt Nam từ thảm họa Formosa Vũng Áng:

1 kỹ USD aka 
1,000 tỷ USD và không Formosa.

Cấu trúc bài viết này gồm 5 phần:

- Phần 1: cung cấp thông tin về lượng và chất các hệ sinh thái biển Việt Nam, đặc biệt là ở dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ thảm họa Formosa Vũng Áng. Mục đích cung cấp cho cơ sở tính toán thiệt hại;

- Phần 2: cung cấp phương pháp tính toán các giá trị của các hệ sinh thái biển làm cơ sở chuyển đổi sang các giá trị thiệt hại;

- Phần 3: cung cấp chi tiết tính toán thiệt hại về mặt sinh thái của các hệ sinh thái dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung làm cơ sở để Việt Nam yêu cầu Formosa bồi thường thiệt hại. Đồng thời cũng cung cấp thông tin để thấy rằng sự thiệt hại môi trường và tài nguyên khủng khiếp như thế nào, từ những chính sách đầu tư ngu xuẩn. Cũng là thông điệp để các nhà đầu tư đã, đang và muốn có đầu tư vào Việt Nam cần phải cẩn trọng cam kết bảo vệ môi trường thay vì lợi dụng chính quyền, qua mặt người dân;

Phần 4: cung cấp thông tin về việc sử dụng tiền cho việc đền bù, đặc biệt là công việc bảo đảm an sinh của ngườì dân và nghiên cứu khoa học nhằm phục hồi lại chức năng sinh thái của các hệ sinh thái biển;

- Phần 5: kết luận và yêu cầu.

1. Phân bố và những giá trị của các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, cỏ biển và san hô) của Việt Nam

1.1. Đa dạng sinh học biển Việt Nam
Vùng biển Đông Nam Á được đánh giá là vùng biển bậc nhất của của hệ sinh thái biển trên thế giới về mức độ đa dạng thành phần loài sình vật. Hình 1 bản đồ hệ số đa dạng sinh học dựa trên chỉ số Shannon’s Index (SI) (hệ số đo lường mức đa dạng về thành phần giống loài các sinh vật biển) được Tổ chức Môi trường Thế giới UNEP đánh giá và xếp loại năm 2014. Nằm giáp ngay với Philippines và gần với Indonesia, tuy nhiên, mức độ đa dạng sinh học của hệ sinh thái biển của Việt Nam lại kém hơn rất nhiều so với mức độ đa dạng sinh học của Philippines và Indonesia. Điều này là do yếu tố kiến tạo địa tầng tự nhiên. Vùng biển từ Quảng Ngãi ra tới Quảng Ninh và vùng biển Kiên Giang chỉ số SI được đánh giá từ 5,4 đến 6,5 với vùng mở rộng ra cả vùng bên ngoài quần đảo Hoàng Sa hoặc sang tới vùng biển của Campuchia. Tuy nhiên, vùng từ Quảng ngãi trở vào Vũng Tàu, chỉ số SI không thay đổi nhưng chỉ một dải hẹp sát bờ, còn lùi ra vài chục km mức độ đa dạng sinh học đã giảm xuống chỉ ở mức 4,3 đến 5.4. Đặc biệt vùng biển của vùng ĐBSCL (Đồng bằng sông Cửu Long), chỉ số SI chỉ còn đạt 3,2 đến 4.3 [1].

clip_image002Hình 1: Bản đồ biểu diễn chỉ số Shannon’s Index of Biodiversity năm 2014 (Nguồn UNEP)
1.2. Hệ sinh thái rừng ngập mặn
Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển kéo dài dọc đất nước lên đến 3,290 km. Tuy nhiên, sự phân bố và độ phủ (diện tích) cũng như năng suất sinh học của hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) của Việt Nam lại rất hẹp và thấp. Hình 2. Phân bố và năng suất sinh học (NSSH) RNM chủ yếu phân bố ở vùng ĐBSCL.

 NSSH của RNM ở vùng ĐBSCL và vùng miền Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng tuy chỉ ở mức trung bình của thế giới nhưng lại là những vùng có NSSH cao của RNM Việt Nam. Vùng RNM của các tỉnh ven biển phía bắc NSSH tương đối thấp. Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham gia rừng ngập mặn [2]. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (BTB), gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế) có 30.974 ha đất ngập mặn, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha đất nuôi trồng thủy sản (NTTS), và 26.584 ha đất tiềm năng trồng RNM hoặc NTTS [3].

clip_image003
Hình 2: Bản đồ phân bố và năng suất sinh học rừng ngập mặn Việt Nam năm 2014 (Nguồn: UNEP) [4].
1.3. Hệ sinh thái cỏ biển
Khác với các loài rong biển là thực vật bậc thấp. Cỏ biển là những thực vật bậc cao, tổ chức cơ thể phân chia thành thân rễ lá. Hệ sinh thái cỏ biển thường phân bố rất rải rác nơi nền đáy cát, hoặc cát với rất ít bùn, nhiều ánh sáng. Cỏ biển phân bố ở vùng nước sâu thường không quá 6 m. Thành phần loài cỏ biền rất ít. Hình 3 cho thấy ở vùng biển đa dạng nhất Philippines chỉ đạt 12-15 loài. 

Ở vùng biển Bắc Trung Bộ của Việt Nam số loài chỉ đạt ở mức 3-6, vùng từ Phú Yên đến Ninh Thuận thành phần loài có thể tăng lên đến 7-9. Trong khi đó vùng bờ biển của ĐBSCL nơi biển đục do phù xa nhiều không là môi trường thích hợp cho những loài cỏ biển sống đáy cần nhiều ánh sáng để quang hợp phát triển. Ở Việt Nam đã tìm được 16 loài cỏ biển. Diện tích cỏ biển tại 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ thảm họa Formosa Vũng Áng là 2.170 ha (Bảng 1)

Bảng 1: Diện tích cỏ biển phân bố ở vùng biển 4 tỉnh miền Trung Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng [5].

clip_image005
clip_image007
Hình 3: phân bố (năm 2015) và mức độ đa dạng thành phần loài (năm 2003) của hệ sinh thái cỏ biển ở Việt Nam (Nguồn: UNEP) [6].
1.4. Hệ sinh thái san hô
Hệ sinh thái san hô, đó là một hệ sinh thái đặc thù, ở đó san hô là những loài động vật phát triển nên một nền đáy đá, đá vôi, là động vật nhưng các loài san hô đều phải sống cộng sinh với các loài tảo (ngoại trừ các loài san hô sừng phát triển ở các vùng biển sâu). 

Chính vì thế, hệ sinh thái san hô thường phân bố ở những vùng biển có độ sâu không quá 30 m, nơi cường độ ánh sáng trong nước có thể đáp ứng như cầu quang hợp của các loài tảo sống cộng sinh. Hình 4 biểu diễn sự phân bố của san hô ở biển Việt Nam và ở 4 tỉnh miền Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng [7].
clip_image009
Hình 4: Phân bố của hệ sinh thái san hô ở vùng biển Việt Nam và 4 tỉnh miền Trung năm 2015 (Nguồn: UNEP)

Theo số liệu của UNEP thì tổng diện tích phân bố của san hô toàn cầu là 284.300 km2. Indonesia và Philippines là hai quốc gia có diện tích san hô lớn nhất khoảng hơn 20.000 km2. Trong đó Việt Nam đứng ở vị trí 35 về diện tích san hô trên thế giới, với tổng diện tích là 1270 km2 so với Indonesia và Philippines. Trung Quốc đứng thứ 31 với diện tích là 1510 km2 [8].
Vùng biển Việt Nam tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun-Khánh Hòa. Sống cùng với hệ sinh thái này là trên 2000 loài sinh vật đáy và cá trong đó khoảng 400 loài cá san hô cùng nhiều hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, bào ngư, trai ngọc, hải sâm… Ở Vịnh Hạ Long, phát hiện được 205 loài san hô cứng, 27 loài san hô mềm. Ở Côn Đảo, có 219 loài san hô, tập trung thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá san hô [9].

Cùng với hai hệ sinh thái RNM và cỏ biển, hệ sinh thái san hô đóng góp giá trị kinh tế cao nhất hành tinh về giá trị sinh thái. Nếu quản lý tốt 1 km2 hệ sinh thái san hô hàng năm có thể cung cấp 15 tấn cá và các loại đặc hải sản. Giá trị sinh thái và giá trị về đa dạng sinh học của hệ sinh thái san hô (TEEB = the Economisc of Ecosystems and Biodieversity) là khoảng 1.25 USD/ha/năm từ dịch vụ du lịch, bảo vệ đới bờ, bảo vệ sinh học và nguồn lợi thủy sản [10].

2. Phương pháp đánh giá các giá trị kinh tế của các hệ sinh thái biển

Một nghiên cứu tổng kết đánh giá những giá trị sinh thái của 9 hệ sinh thái đặc biệt toàn cầu dưới sự kết hợp giữa các trường đại học đến từ Mỹ, Anh, Châu Âu và các tổ chức Liên Qiệp Quốc như UNEP và Viện Nghiên cứu Tài nguyên môi trường của Châu Âu năm 2012 đăng trên tạp chí Ecosystem Service, Elsevier [11]. Dựa vào kết quả của 320 nghiên cứu cho 300 điểm nghiên cứu cứu trên toàn cầu, với bốn nhóm thông số của 22 thông số (Bảng 2) và chi tiết hóa thành 90 thông số cụ thể để đo lường giá trị sinh thái của 10 loại hình sinh thái.

Bảng 2: Các nhóm và thông số đánh giá giá trị
clip_image011
10 loại hình sinh thái đặc trưng được tổng kết từ 300 điểm nghiên cứu bao gồm: 1) Vùng biển xa bờ = open sea (14); 2) Hệ sinh thái san hô = coral reefs (94); 3) Hệ sinh thái ven bờ = coastal systems (28); 4) Hệ sinh thái đất ngập nước ven biển = coastal wetlands (139); 5) Hệ sinh thái đất ngập nước ngọt = inland wetlands (168); 6) Hệ sinh thái sông hồ = Rivers and lakes (15); 7) Hệ sinh thái rừng nhiệt đới = tropical forest (96); 8) Hệ sinh thái rừng ôn đới = temperate forest (58); 9) Hệ sinh thái rừng gỗ = woodlands (21); 10) Hệ sinh thái đồng cỏ = grass lands (32). Các giá trị trung bình, lớn nhât và nhỏ nhất của mỗi loại hình sinh thái biểu diễn ở Bảng 3. Bốn hệ sinh thái trong khung màu đỏ là các hệ sinh thái biển. Sẽ được sử dụng để thảo luận và tính toán cho Phần 3 áp dụng cho đánh giá thiệt hại của thảm họa Formosa Vũng Áng.
Bảng 3: Giá trị sinh thái của 10 loại hình sinh thái (USD/ha/năm tính vào thời điểm giá USD năm 2007)

clip_image013
Việc tính toán này được tính theo các tỷ số để cần bằng tôi đa giữa các vùng miền, giữa các hệ sinh thái, và được qui đổi từ tiền địa phương ra đồng Đô la tại thời điểm năm 2007.
Như vậy:

Hệ sinh thái vùng biển xa bờ có tổng số giá trị kinh tế là 491 USD/ha/năm, thấp nhất trong 4 hệ sinh thái biển và ven bờ. Trong đó có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 491 USD = 102 + 65 + 5 + 315 USD.

Hệ sinh thái san hô có giá trị vượt lên rất nhiều so với các hệ sinh thái khác. Trong đó tổng giá trị và lần lượt các giá trị đóng góp cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 352.249 USD = 55.724 + 171.478 + 16.210 + 108.837 USD.

Hệ sinh thái ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847 + 375 + 300 USD.
Hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 + 175.515 + 17.138 + 2.193 USD

Kết quả chi tiết giá trị đóng góp của mỗi loại hình sinh thái ứng với mỗi thông số của 4 nhóm thông số và 22 thông số chi tiết với giá trị trung bình. Đây là bảng dữ liệu thuyết phục để sử dụng tính toán cho thảm họa Formosa Vũng Áng thiệt hại lên các hệ sinh thái ven biển 4 tỉnh miền Trung, và cũng là cơ sở tính toán phân phối tiền đền bù cho người dân, cũng như tiền lưu trữ cho an sinh xã hội liên quan đến sự mất mát cho đến khi phục hồi của các hệ sinh thái này. Đa dạng sinh học và mức độ phân bố của các hệ sinh thái biển Việt Nam hầu hết đều nằm ở ngưỡng trung bình so với thế giới. Vì thế giá trị trung bình ở Bảng 4 là thuyết phục áp dụng cho thực tế ở Việt Nam.
Bảng 4: Tính toán chi tiết giá trị sinh thái cho mỗi 22 thông số của mười loại hình sinh thái (USD/ha/năm)

clip_image015

3. Tính toán thiệt hại sinh thái do thảm họa Formosa Vũng Áng

Theo thông báo của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà ngày 30 tháng 6 về thảm họa Formosa Vũng Áng, thì tổng thiệt hại diện tích san là 400 ha, chiếm 50% diện tích san hô phân bố ở 4 tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng. Mặc dù ông Trần Hồng Hà cùng quan chức Chính phủ cho rằng hệ sinh thái RNM không bị ảnh hưởng và không tính hệ sinh thái cỏ biển trong khu vực. Nhưng kết quả người dân cho biết nhiều nơi RNM bị chết. Vì thế trong bài này việc tính toán được dựa trên diện tích thống kê của các báo cáo khoa học trong nước.

Vùng biển xa bờ, tại thời điểm này chưa có đánh giá về ảnh hưởng của chất thải Formosa đến vùng biển xa bờ.

Hệ sinh thái san hô: 400 ha san hô đã bị chết, tại thời điểm chính quyền Hà Nội điều tra, tháng 5 và tháng 6 năm 2016. Tuy nhiên, việc đánh giá ảnh hưởng lên hệ sinh thái san hô sẽ còn phải tiếp tục. Những chỗ san hô chết hiện nay là do nồng độ quá cao của độc tố, chết do sốc. Nhưng dư lượng của chất độc vẫn còn tồn dư nhiều trong trầm tích đáy và rất nhiều hấp thụ vào những khoang cơ thể của san hô. 

Chỉ cần một lượng rất nhỏ [độc tố này – BVN] san hô sẽ âm thầm chết. Việc đánh giá ảnh hưởng của độc tố từ xả thải của Fomosa xảy ra hồi đầu tháng 4 năm 2016 cần phải tiến hành lên hàng chục năm. Việc tính toán thiệt hại ở bài viết này đối với hệ sinh thái san hô mới chỉ dừng lại ở mức thiệt hại trước mắt.

Dựa vào thông tin Phần 2, 1 ha san hô một năm cung cấp 352.249 USD = 55.724 + 171.478 + 16.210 + 108.837 theo 4 nhóm thông số đánh giá ở trên ta sẽ có kết quả áp dụng cho 400 ha, san hô bị phá hủy do thảm họa Formosa Vũng Áng và áp dụng cho 50 năm với hy vọng sự phục hồi của hệ sinh thái san hô, kết quả thu được như ở Bảng 5.

Hệ sinh thái ven bờ, chỉ môi trường ven bờ nói chung. Với 20 hải lý (= 37,04 km) chiều ngang tính từ bờ biển ra. Vùng ảnh hưởng mà độc tố đã quét dọc theo bờ biển 4 tỉnh miền Trung là 250 km

Như vậy tổng diện tích vùng ven bờ cũng là hệ sinh thái ven bờ là 30,04 km (rộng) × 250 km (dài) = 9.260 km2 (=926.000 ha). Tính toán cho mặt nước, thì tổng diện tích mặt nước sẽ là 926.000 ha. Và với hệ sinh thái ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847 + 375 + 300 USD. 

Vì dòng hải lưu và biển mở, nên trường hợp này tính toán áp dụng cho 1 năm. Kết quả ở mục 3.1 Bảng 5. Tuy nhiên, ảnh hưởng vùng này đối với hệ sinh thái nền đáy sẽ được trù đi diện tích cỏ biển là 2.170 ha, và 800 ha san hô, và cũng áp dụng cho ít nhất là 30 năm (cơ sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả thiệt hại đối với hệ sinh thái ven biển từ thảm họa Formosa Vũng Áng như mục 3.2 Bảng 5.
Ở Bảng 1, ta có 2.170 ha hệ sinh thái cỏ biển nằm trong vùng bị tàn phá bởi thảm họa Formosa Vũng Áng. Với kết quả từ Phần 2: Hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 + 175.515 + 17.138 + 2.193 USD. Và cũng áp dụng cho 30 năm (cơ sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả như ở Bảng 5.

Ở mục 1.2, ta có có 30.974 ha đất ngập mặn nằm trong vủng Bắc Trung Bộ, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha đất nuôi trồng thủy sản (NTTS), và 26.584 ha đất chưa sử dụng. Và cũng áp dụng với hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ, và 30 năm như tình toán cho cỏ biển. Ta sẽ có kết quả lần lượt cho giá trị thiệt hại lên RNM, đất NTTS và đất chưa sử dụng như mục 4.2, 4.3 và 4.4 Bảng 5 như sau.
Bảng 5. Thiệt hại sinh thái của thảm họa Formosa Vũng Áng lên hệ sinh thái biển đọc 4 tỉnh miền Trung (đơn vị: USD)

clip_image017
Ghi chú: (NA: không áp dụng)

4. Sử dụng và quản lý tiền đền bù

Theo phương pháp tính toán như ở Phần 2 và kết quả ở Bảng 5, thì:
4.1. Sử dụng
+ Số tiền thiệt hại hơn 70 tỷ USD ở cột (1) Bảng 5, là những giá trị được tính bằng những giá trị hàng hóa, có giá cả trực tiếp ở thị trường (direct market values). Phần này chính là nguồn tài nguyên phục vụ trực tiếp cho những người dân có những hoạt động liên quan đến đánh bắt và tiêu thụ các sản phẩm do đánh bắt từ biển ít nhất 50 năm, nghĩa là 3 thế hệ người Việt phải tối thiểu đam bảo cuộc sống cũng gia đình như việc học hành của con cái. Phần này bổ sung cho phần tính toán của luật sư Lê Văn Luân và Trịnh Mộc Thường [12, 13]. Một phần sẽ được dùng chi trả cho việc nghiên cứu phục hồi nguồn dược liệu và phục hồi nguồn gene từ môi trường biển.
Trong khi đó số thiệt hại ở các cột (2) (3) (4) là những giá trị không trực tiếp từ thị trường (indirect maker values), nó mang nặng giá trị chức năng phục vụ của các hệ sinh thái.
+ Số tiền thiệt hại hơn 889 tỷ USD ở cột (2) Bảng 5, chính là sự thiệt hại vì mất đi qui luật tự nhiên về chức năng cân bằng sinh thái. Nghĩa là sau khi bị thảm họa, các hệ sinh thái biển này không còn chức năng tự nhiên của nó. Khoản thiệt hại này chiến gần hết số tiền thiệt hại. Số tiền thiệt hại này sẽ được dùng trong các hoạt động nghiên cứu và xây dựng cho mục đích phục hồi các chức năng tự nhiên của các hệ sinh thái.
+ Số tiền thiệt hại hơn 27 tỷ USD ở cột (3) Bảng 5, chính là số sự thiệt hại do các sinh vật mất đi vùng sinh sản, và sâu xa hơn là mất đi nguồn gene khi quá trình sinh sản đã bị ảnh hưởng. Số tiền này sẽ được sử dụng trong các nghiên cứu phục hồi các bãi sinh sản và vườn ươm sinh thái dưới đáy biển.
+ Số tiền thiệt hại hơn 12 tỷ USD ở cột (4) Bảng 5, chính là số tiền thiệt hại đối với các dịch vụ du lịch và liên quan du lịch biển, và các nhu cầu về giải trí nghệ thuật liên quan biển. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng để chi trả cho các hoạt động du lịch biển, và các dịch vụ phục phụ du lịch kèm theo. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhằm duy trì và phát triển các loại hình nghệ thuật liên quan đến biển.
4.2. Quản lý
- Số tiền này sẽ được quản lý bằng một ủy ban độc lập do dân bầu ra, thành phần là những người đại diện của những nhóm bị tổn thương bao gồm cả các ngư dân, nhà khoa học, nhà nghệ thuật…
- Nhóm đại diện quản lý đại diện này phải xây dựng lộ trình và kế hoạch sử dụng số tiền này và các hoạt động đảm bảo an sinh và phục hồi sinh thái cho chặng đường 30 và 50 năm.
- Tất cả mọi hoạt động của ủy ban này cùng việc sử dụng số tiền này phải được trưng cầu và giám sát của người dân.

5. Kết luận và yêu cầu

- Áp dụng 50 năm phục hồi của san hô và 30 năm phục hồi của các hệ sinh thái cỏ biển, RNM (chủ yếu là nền đáy) thì tổng thiệt hại qui ra USD sẽ là 1,000,553,486,297 (1kỹ USD aka 1,000 tỷ USD) không bao gồm tiền nạo hút cải tạo môi trường.
Yêu cầu chính quyền csHà Nội cung cấp báo cáo điều tra chi tiết để các nhà khoa học đánh giá độ tin cậy về thông báo kết quả của chính quyền. Nếu không người dân có quyền đòi Formosa bồi thường như tính toán trong bài viết này. Và quan trọng là KHÔNG FORMOSA.
- Việc áp dụng 30 năm cho sự phục hồi đối với các hệ sinh thái cỏ biển, RNM, vùng ven biển và đất ngập nước khác, là dựa trên cơ sở dữ liệu từ thảm họa thủy ngân ở Vinh Minamita. Mức thiệt hại này sẽ giảm đi theo số năm, tùy thuộc vào mức độ hút nạo đáy biển rửa tấy chất độc mà Formosa thực hiện.
- Yêu cầu chính quyền Hà Nội cung cấp tên theo danh thức hóa học của gần 300 loại hóa chất mà Formosa nhập và sử dụng. Từ đó sẽ giúp người dân và các nhà khoa học giám sát việc tẩy rửa chất độc mà Formosa sẽ thực hiện.
- Bản tính toán này được dựa trên mức tái tạo của hệ sinh thái san hô là 50 năm, và với diện tích 400 ha. Tuy nhiên, thực tế việc chính quyền Hà Nội kết luận chỉ 400 ha san hô bị ảnh hưởng là không thỏa đáng. Những mảng san hô chưa bị chết trắng đang đứng đó đã không còn chức năng sinh thái nữa, chúng có thể sẽ chết dần mòn trong tương lai.
- Việc bỏ qua thiệt hại về RNM và hệ sinh thái cỏ biển cũng như các hệ sinh thái khác, càng chứng tỏ chính quyền Hà Nội không thực tâm trong việc kiềm soát xả thải của Formosa cũng như việc bảo về tài nguyên thiên nhiên của VN.
N.T.H.Y.
__________
Chú thích:
__._,_.___

Posted by: <vneagle_1

Featured Post

🔥 Bản Tin Trong Ngày2/5/2024

My Blog List