Nhóm lợi ích
ở Việt Nam hiện nay
Hạ
Mai
Từ
sau Đại hội XI (2011) của Đảng CSVN, thuật ngữ “lợi ích nhóm” và “nhóm
lợi ích” bắt đầu được sử dụng và cũng từ đó thuật ngữ này được sử dụng khá
thường xuyên. Nếu như ở trên thế giới, đa phần “nhóm lợi ích” được hiểu theo
cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực, thì ở Việt Nam, đặc biệt là trong Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) Đảng CSVN “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
thuật ngữ này hầu như được nhận thức theo nghĩa tiêu cực. Dư luận xã hội chủ
yếu tập trung vào các nhóm lợi ích hoạt động ngầm trong lĩnh vực kinh tế,
cấu kết với những “nhân vật” có thẩm quyền ra quyết định hoặc có khả năng tác
động đến chính sách vì lợi ích riêng, làm tổn hại đến lợi ích của các nhóm
khác, lợi ích của số đông và đặc biệt là lợi ích quốc gia. TS. Lê Đăng
Doanh đã nhận diện nhóm lợi ích hiện nay ở Việt Nam như sau: “Lợi ích nhóm ở Việt Nam có đặc trưng là liên
quan đến những người có chức, có quyền, nhất là quyền liên quan đến cán bộ, tài
chính, ngân sách, đầu tư, đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, v.v. Những người này có
thể ở cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã phường hay ở cấp sở, phòng, thậm chí cá
nhân thanh tra, cảnh sát hay ở doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn, dự án, v.v.” .
Như vậy, “lợi ích nhóm” tiêu cực hàm chỉ lợi ích cục bộ
của những nhóm người xác định, xung đột, mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân
dân, của xã hội và thậm chí với quốc gia, dân tộc. Đó là thứ lợi ích chỉ phục
vụ cho một nhóm người nhất định dựa vào quyền lực để tạo lập cơ chế, chính sách
thuận lợi nhất nhằm mang lại lợi ích từ việc bòn rút, chia chác của công, tìm
mọi cách để thâu tóm lợi ích, đặt lợi ích của nhóm mình lên trên lợi
ích chung. Những nhóm lợi ích này bành trướng thế lực, thao túng và
độc quyền trong một số lĩnh vực, đặc biệt là chính trị- kinh tế, thương mại hóa
quyền lực chính trị. Lưu ý thêm rằng, ở Việt Nam, rất nhiều quan chức cao cấp
trong các bộ ngành quản lý hiện nay đều có nguốn gốc từ lãnh đạo doanh nghiệp,
từ lĩnh vực kinh tế – đây là cơ sở và điều kiện thuận lợi để các nhóm lợi ích –
thân hữu trục lợi từ kết nối kinh tế với chính trị, kết nối kinh tế với hoạch định
chính sách.
Cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, lợi ích mà các nhóm
lợi ích ở Việt Nam theo đuổi không chỉ là lợi ích vật chất mà bao hàm tất cả những lợi ích con người muốn
có, như danh tiếng, quyền lực, điều kiện thuận lợi, sự thăng tiến, vị trí làm
việc cho bản thân, gia đình, thân hữu… Các nhóm lợi ích tiêu cực ở Việt Nam thường nhân danh hoặc
núp bóng những nghĩa cử cao đẹp, nhân danh lợi ích tập thể, thậm chí nhân danh lợi
ích quốc gia để giành giật, chiếm đoạt mọi hình thức và loại hình lợi ích khác
nhau.
Các nhóm lợi ích ở Việt Nam được hình thành một cách mạnh mẽ và
chủ yếu trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN (hiện giờ gọi là kinh
tế thị trường định hướng XHCN). Quá trình chuẩn bị các nhân tố kinh tế – kỹ
thuật, quản lý xã hội và xây dựng những tiền đề mới về cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
môi trường vĩ mô cho việc phát triển kinh tế hàng hoá – dịch vụ vận hành theo
cơ chế thị trường đã tạo ra những cơ hội, những bước ngoặt phát triển quan
trọng, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những “lỗ hổng” trong cơ chế quản lý, trong
hệ thống chính sách, pháp luật… Giai đoạn chuyển đổi này diễn ra nhanh chóng và
đầy kịch tính (khủng hoảng, lạm phát, biến động giá cả – tiền tệ, đầu tư vào
Việt Nam, đẩy mạnh xuất nhập khẩu…) trở thành mảnh đất mầu mỡ cho những nhóm
lợi ích bất minh xuất hiện, tồn tại và củng cố vị trí của mình.
Cần nói thêm rằng, các nhóm trục lợi đầu tiên chủ yếu
liên quan đến buôn bán qua con đường phi hạn ngạch, kinh tế ngầm hoặc núp bóng
tín dụng, gây hậu quả lớn nhưng chưa trầm trọng. Khi Chính phủ Việt Nam
đẩy mạnh các cải cách kinh tế nhằm nhanh chóng thúc đẩy hình thành và phát
triển đồng bộ các nhân tố thị trường phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, các nhóm
trục lợi gia tăng nhanh chóng. Việc đầu tư trong nước và nước ngoài,
thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu, thị trường lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế – xã hội ngày càng mở rộng quy mô và sự xuất hiện ngày một nhiều các
vùng kinh tế trọng điểm (thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình
Dương, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên,
Hải Phòng, Vĩnh Phúc…), một mặt, tạo động lực phát triển vì lợi ích chung.
Bên
cạnh đó, trong điều kiện chức năng, cơ chế quản lý của nhà nước chưa theo kịp
tiến trình vận động, Đổi mới cũng góp phần cho ra đời hàng loạt nhóm lợi
ích thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương, nhiều cấp độ lợi dụng mọi cơ
hội, mọi phương thức (hợp pháp, phi pháp, công khai, bí mật…) để trục lợi ở mọi
quy mô và mọi lĩnh vực. Đặc biệt, các nhóm lợi ích trở nên hết sức nguy hiểm, hoạt
động tinh vi, có tác động và gây hậu quả nghiêm trọng đến bình ổn xã hội, phát
triển kinh tế, quản lý xã hội chính vào thời điểm tái cấu trúc, chuyển
hướng nền kinh tế trong bóng tối nhá nhem của tha hóa quyền lực nhà nước. Các
nhóm trục lợi bám sát những chuyển động có lợi và bất lợi trong quản lý kinh
tế, trong quản lý nhà nước, nhanh chóng đưa ra các kịch bản liên kết thị
trường, liên kết kinh tế với chính trị, thao túng chính trị và kinh tế để kiếm
chác lợi ích ngày càng lớn, ngày càng ngang nhiên.
Theo nhận xét của TS. Lê Đăng Doanh, nhóm lợi ích ở Việt Nam hoạt
động rất linh hoạt, theo từng vụ, việc, vây quanh một số cá nhân nhất định. Lợi
dụng tính thiếu công khai, minh bạch, các nhóm lợi ích thường tiếp xúc theo
“quan hệ” cá nhân, với chất kết dính là lợi ích tiền bạc. Lợi ích càng lớn thì
nhóm lợi ích hoạt động càng mạnh; luật pháp càng lỏng lẻo hay quyền lực ít bị
giám sát thì nhóm lợi ích hoạt động càng trắng trợn, liều lĩnh. TS. Lê
Đăng Doanh nhấn mạnh: “Nhóm lợi ích ở Việt Nam hoạt động trong một
không gian chủ yếu phi chính thức, bất hợp pháp, trong không ít trường hợp có
quan hệ đến buôn lậu hay các hoạt động có tính chất phạm pháp ở mức độ khác
nhau .
Những nhóm lợi ích này trục lợi với rất nhiều thủ đoạn tinh vi,
biến hóa khôn lường. Điển hình là một số thủ đoạn thu lợi bất chính cơ bản nhất
như sau: (1) Lợi dụng và lạm dụng quyền lực (quyền lực kinh tế, quyền lực
chính trị); (2) Lợi dụng bất cập và yếu kém trong quản lý của Nhà nước; (3) Mua
bán quan chức, chạy chức, chạy quyền, hối lộ, tha hóa cán bộ lãnh đạo; (4) Liên
kết ngầm, hoạt động ngầm dưới vỏ bọc hợp pháp…
Đâu đó, người ta đã bàn về sự
xuất hiện của một tầng lớp “tư bản đỏ” và maphia chính trị với sự cấu kết chặt
chẽ để thực hiện những phi vụ làm ăn lớn, rung động cả nền kinh tế. Trong một
bài báo nhan đề “Vietnam’s New Money“, Bill
Hayton đã chỉ ra sự liên minh lợi ích ở Việt Nam thông qua hình tượng “cuộc hôn
nhân giữa chính quyền và lợi ích cá nhân”, khẳng định cuộc hôn nhân đó “đang
làm méo mó nền kinh tế, khiến nền kinh tế ấy hương tới việc phục vụ lợi ích của
số ít hơn là đáp ứng nhu cầu của số đông” . Theo Bill Hayton, chính liên minh
lợi ích ấy đã khiến “các Tổng công ty Nhà nước lớn nhất thiết lập kênh hỗ trợ
vốn để tài trợ cho các dự án vô trách nhiệm với logic kinh tế tối thiểu” –
đó hoàn toàn có thể là một hình thức câu kết giữa những cơ sở quốc doanh hùng
mạnh với những cá nhân có quyền lực lớn thông qua con em, người thân của mình.
Các nhóm trục lợi ở Việt Nam có nguồn gốc khá đa dạng, tồn
tại trong mọi lĩnh vực, song chủ yếu và nổi cộm nhất là những nhóm lợi ích gắn
với thị trường, với lợi ích công, ra đời từ bất cập cơ chế, bất cập thể chế và
tha hóa chính trị. Những công ty Nhà nước và công ty “sân sau” của các công ty
Nhà nước hoặc cổ phần Nhà nước thường là “địa bàn” ảnh hưởng, hoạt động phổ
biến của nhóm lợi ích “thân hữu”.
Những nhóm lợi ích “thân hữu” hoạt động trên các lĩnh vực sử
dụng tài nguyên hoặc phân bố tài sản quốc gia. Một hệ thống pháp luật chưa đủ mạnh,
vai trò độc quyền của Nhà nước, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sở hữu
tập thể, tư duy nhiệm kỳ trong đầu tư công , trong quy hoạch, trong kế
hoạch kinh tế – xã hội, cơ chế xin – cho… là mảnh đất màu mỡ cho sự hình
thành và phát triển các nhóm “thân hữu”.
Nhóm lợi ích doanh nghiệp Nhà nước đang duy trì những đặc quyền và
thu hút nhiều nguồn lực từ ngân sách Nhà nước. Đây cũng là nhóm đã lên tiếng
mạnh mẽ nhất để giữ “vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước”. Nhóm lợi ích doanh
nghiệp cũng chính là cơ
sở kinh tế hỗ trợ cực kỳ đắc lực cho quyền lực chính trị thông qua những cá
nhân cụ thể của bộ máy chính quyền, nhà nước. Không phải ngẫu nhiên mà khi sóng
gió chính trường nổi lên, nhiều nhân vật trong bộ máy quyền lực có thể trụ
vững, thậm chí “lật cánh” ngoạn mục vào “phút thứ 89”.
Việc cho thành lập hàng loạt tập đoàn kinh tế nhà nước lớn thuộc
về những ngành then chốt và nắm giữ những nguồn lực chủ yếu của đất nước cho
thấy vị trí vững vàng và “hợp pháp” của nhóm lợi ích này. Quả thật, năm 2014,
Chính phủ tăng khoảng 170 ngàn tỷ (trong tình trạng bội chi ngân sách) cho đầu
tư và chắc chắn phần lớn tiền bạc sẽ được rót vào ngân quỹ các doanh nghiệp Nhà
nước. Các vụ đại án tham nhũng đều có bóng dáng của quan chức cấp cao, các nhóm
lợi ích đặc quyền, nhóm thân hữu.
Tham nhũng tiền bạc, đất đai, tham
nhũng quyền lực, chính sách là hiện tượng phổ biến, thường ngày. Những tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước làm ăn lỗ với những con số “khủng” là kết quả xâu
xé của tham nhũng dưới hình thức nhóm lợi ích . Làn sóng “tái cấu trúc” hệ
thống Ngân hàng (Eximbank, Techcombank, Phương Nam, Bản Việt, Vietinbank, BIDV,
Bắc Á…) hoặc để thôn tính, hoặc để trốn nợ xấu cũng được diễn ra dưới “chiếc
đũa thần” đầy quyền năng của các nhóm thân hữu.
Tham nhũng – lợi ích nhóm góp
phần đẩy Việt Nam trượt nhanh trên thang bậc xếp hạng tham nhũng: Năm 2013, theo
chỉ số tham nhũng, Việt Nam xếp thứ 116/176 quốc gia được khảo sát; nền
kinh tế vĩ mô của Việt Nam hết sức bất ổn, chứa đựng nguy cơ rủi ro, suy thoái;
tăng trưởng GDP giảm mạnh (năm 2007: 8,46% [6],
năm 2011:5,89% [7];
2013: 5,4% [8]). Nợ
công của Việt Nam đã ở mức trên 81,885 tỷ USD, bình quân nợ công theo đầu người
là 905,18USD, chiếm 47,7% GDP, tăng 10,9% so với năm 2013 (tính đến ngày
13-6-2014) [9].
Việt Nam là một trong 20 nước có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới [10],
người dân Việt Nam có gánh nặng thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực [11].
Hành vi thao túng của các nhóm lợi ích đối với bất động sản, tài nguyên,
ngân hàng, tài chính… – những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, gây không ít khó
khăn, cản trở cho sự tồn tại, phát triển lành mạnh của đất nước. Những năm
gần đây (2006-2015), các chủ đầu tư là trụ cột của nền kinh tế như Tập
đoàn Than – Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép,
Tổng công ty Hóa chất [12]… để Trung
Quốc trúng thầu tới 90% các công
trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… trong các dự án kinh tế Việt Nam trọng
điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia và
an ninh năng lượng không khỏi
khiến dư luận quan ngại và đặt câu hỏi về những nhóm lợi ích quan chức cấp cao đứng sau.
Về thị trường, nhóm trục lợi có mặt ở mọi loại thị trường (thị
trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học – công nghệ, thị trường
hàng hóa – dịch vụ…), song hoạt động mạnh mẽ và gây ra những hậu quả lâu dài,
khó khắc phục là những nhóm trục lợi gắn với thị trường bất động sản và tài
chính- tiền tệ (hai thị trường quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường).
Quá trình đô thị hóa đã khiến đất đai có giá trị cực kỳ to lớn,
đầu tư nhà đất trở thành hình thức kinh doanh kiếm lời nhanh nhất. Nắm bắt đặc
điểm đó, nhóm lợi ích bất động sản (gồm giới nhà giàu và nhiều quan chức tham
nhũng) không bỏ qua cơ hội hốt bạc. Lập khu, cụm công nghiệp, cảng, sân bay là
biện pháp, bước đi để các nhóm lợi ích bắt tay với giới quan chức ăn chênh lệch
giá đất. Tình trạng này diễn ra khá thường xuyên, vì tuy có hiệu quả rất thấp
về kinh tế – xã hội, nhưng do “muốn đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao, tăng tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ để bằng và hơn các địa phương khác” [13] nên
các tỉnh thành, địa phương đua nhau quy hoạch, xây dựng, đô thị hóa. Mỗi năm Việt
Nam có gần 200.000 ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, trong
đó có nhiều phần trăm được các nhóm lợi ích “phù phép”dưới bóng “chuyển đổi mục
đích sử dụng”, mua rẻ, bán đắt kiếm lời.
Với tính chất phi thị trường nhất, kém hiệu quả nhất, thị trường
bất động sản đầy rẫy những bất cập, không đủ điều kiện để hoạt động bình thường
như thị trường các nước khác bởi theo luật pháp, Nhà nước quản lý đất đai và
quyền lực Nhà nước thường bị thâu tóm. Bài toán địa tô chênh lệch [14] là
bài toán thường gặp nhất trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất- nó cũng là ví
dụ tập trung nhất cho việc các nhóm lợi ích đứng đằng sau các cấp hoạch định và
thực hiện chính sách trong các dự án đất đai.
Giá trị to lớn của đất – “tấc đất tấc vàng” đã khiến chính những
thửa đất “bờ xôi ruộng mật” bị “khai tử” bởi những nhóm lợi ích bất động sản.
Dưới ô dù của quyền lực chính trị, nhóm lợi ích bất động sản đứng sau
nhiều vụ thu hồi đất với danh sách tên đất, tên làng dài theo thời gian:
Văn Giang, Dương Nội, Bắc Giang, Mễ Trì, Mỹ Đức, Bắc Sơn (Thạch Hà, Hà
Tĩnh), Vũng Áng, Đắc
Nông, Ninh Thuận… Quy hoạch Hà Nội mở rộng, nhập Hà Tây vào Hà Nội cũng là một
cơ hội để nhóm lợi ích bất động sản trục lợi – thực tiễn diễn ra ở thị trường
đất đai Hà Tây trước và sau khi sáp nhập đã minh chứng một cách thuyết phục cho
nhận định đó. Mất đất, không có việc làm, người nông dân chỉ còn con đường hoặc
làm thuê ngay trên mảnh đất của mình, hoặc tha phương.
Những năm gần đây, mỗi
năm có trên 3 vạn người lao động từ nông thôn đến ở Hà Nội, còn đến thành phố
Hồ Chí Minh con số đó là trên 6 vạn. Tháng 8-2013, Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội Việt Nam công bố con số di cư tự do từ nông thôn ra thành thị là vào
khoảng 8 triệu người. Các thành phố lớn với các khu công nghiệp mọc lên nhanh
chóng như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai… trở thành thành nam châm, lực hút, thành “miền đất hứa” đẫm
nước mắt của nhiều lao động nông dân nhập cư.
Trong lĩnh vực tín dụng – ngân hàng, hệ quả các hoạt động của nhóm
trục lợi để lại là khá nghiêm trọng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nguyễn Văn Bình đã thừa nhận: “Có những ngân hàng chỉ do một vài cổ đông hoặc
một nhóm cổ đông chi phối, dư nợ ngân hàng lên tới 70 – 90% phục vụ cho nhóm cổ
đông đó; điều lo ngại là các nhóm cổ đông này gây thất thoát vốn lớn; lợi ích
nhóm thao túng ngân hàng và làm ảnh hưởng xấu đến cả hệ thống…” [15]. Các
thương vụ thâu tóm ngân hàng Sacombank, Eximbank, Bảo Việt… đang làm một số
“đại gia” nhẵn túi; đồng thời, làm căng hầu bao của những ông chủ mới đằng sau
thấp thoáng bóng liên minh lợi ích mờ ám của giới mafia tài chính và những quan
chức giấu mặt.
Trong quá trình phát triển và trục lợi, các nhóm trục lợi có sự liên
kết khá bền chặt, có tính “tổ chức” tương đối cao, câu kết, lôi kéo, vận động,
thậm chí là ép buộc cá nhân, tập thể, bành trướng thế lực, làm méo mó chính
sách, làm suy yếu chính quyền, lũng đoạn nhiều lĩnh vực, có cả những lĩnh vực
trọng yếu liên quan đến an ninh – quốc phòng, an ninh quốc gia.
Vốn ra đời, tồn tại và hoạt động trên nền tảng lợi ích, nhất là
những lợi ích hết sức béo bở và đa dạng nên cùng với sự phát triển của các nhóm
lợi ích tất yếu xuất hiện mâu thuẫn, xung đột lợi ích một bên là giữa các nhóm
lợi ích với nhau và một bên là giữa nhóm trục lợi với những nhóm bị xâm hại lợi
ích (bị thiệt hại lợi ích). Trong các xung đột lợi ích, nhóm nào yếu thế hơn sẽ
bị thiệt hại nhiều hơn và trong tổng thể, thiệt hại chung thuộc về toàn thể xã
hội.
Nếu coi sự phát triển xã hội như là một tổng thể hữu cơ
các quá trình vận động xã hội theo chiều thăng tiến, thì các nhóm lợi ích –
trục lợi là một bộ phận tham gia vào đời sống xã hội và tác động trực tiếp đến
quá trình vận động xã hội, kìm hãm xu hướng phát triển lành mạnh của nó trong
thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế do thể chế lỏng lẻo, các chế định giám sát lạc
hậu, thiếu tính minh bạch trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong những lĩnh vực
trọng yếu. Trên nền tảng ấy, các nhóm lợi ích tiêu cực xuất hiện ngày càng
nhiều với những sắc thái đa dạng (nhóm thân hữu, nhóm lợi ích cục bộ giữa quan
chức với quan chức, quan chức với doanh nghiệp…) ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận
hành bình thường của nền kinh tế, chính trị, xã hội và thậm chí cả văn hóa. Bên
cạnh đó, trong một số trường hợp, có thể đang tồn tại một liên minh không
chính thức giữa các nhóm lợi ích ở Việt Nam với các nhóm lợi ích ở nước ngoài.
Khai thác bôxit ở Tây Nguyên, việc Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai
khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… trong các dự án kinh tế trọng điểm, hay
như Trung Quốc xuất lậu vào Việt Nam trên 5,2 tỷ USD hàng hóa qua biên giới và
Việt Nam xuất lậu 5,3 tỷ USD sang Trung Quốc [16] …
là những minh chứng điển hình. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng, Việt
Nam “đã trao quá nhiều công trình cho nhà thầu Trung Quốc theo hình thức EPC [17]”. Con
số này là 23/24 nhà máy xi măng; 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, giao thông,
khai khoáng, cho thuê rừng và đất rừng ở vùng biên giới [18]. TS.
Lê Đăng Doanh đã đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta giao quá nhiều dự án cho nhà
thầu Trung Quốc như vậy. Có bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho
ai?”.
Nhìn chung, các nhóm trục lợi đều có khả năng cộng sinh và ký sinh
rất cao, bám chặt vào kẽ hở chính sách, pháp luật, nắm bắt nhanh chóng những
thời cơ và cơ hội thuận lợi, linh hoạt trong liên kết, chuyển hướng, trắng trợn
trong tha hóa bộ máy công quyền… làm mọi việc trong khả năng, điều kiện có thể
để tồn tại, phát triển và trục lợi. Lợi dụng những kẽ hở pháp lý trong quản lý
đất đai, tiền tệ, sự thoái hóa, biến chất của tầng lớp có chức, có quyền, sự ấu
trĩ và bảo thủ trong tư duy lãnh đạo, các nhóm trục lợi thao túng, mua bán
chiếm đoạt đất đai, bất động sản, thao túng ngân hàng…, làm giàu bất chính và
càng giàu bao nhiêu, các nhóm lợi ích lại có điều kiện, khả năng cũng như khao
khát thao túng quyền lực chính trị, thao túng chính quyền.
Đối với phát triển xã
hội và quản trị xã hội, các nhóm trục lợi trở thành lực cản lớn trong quá trình
thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây thiệt hại lớn đối
với tài sản của nhà nước, xã hội, tập thể và công dân, xâm phạm quyền và lợi
ích của công dân, tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức, đảo lộn những chuẩn mực,
giá trị đạo đức xã hội, là nguy cơ trực tiếp đối với sự lành mạnh của nền kinh
tế, đe dọa lợi ích toàn dân, lợi ích quốc gia dân tộc. Hệ quả cuối cùng là ngày
càng nhiều thêm các nhóm thiệt lợi, các nhóm thất thế, xã hội nghèo đi, bất
công và bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giai tầng tăng lên
không ngừng; trong lòng xã hội âm ỉ những mâu thuẫn gay gắt – một hiện tượng mà
các nhà nghiên cứu quen gọi là “hiện tượng thùng thuốc súng”.
Điều nguy hiểm là ở chỗ, mờ mắt tham, nhằm thỏa mãn lòng tham
vô đáy, các nhóm lợi ích này không thể liên kết lâu dài, giữa chúng luôn diễn ra
âm thầm “những trận chiến sau bức màn nhung” để cuối cùng “xã hội sẽ biến đổi
theo những thắng thế của phe nhóm mạnh nhất” [20]. Nếu
mục tiêu của “phe nhóm mạnh nhất” phù hợp với “sự đổi mới và tiến bộ của
quốc gia, thì dân chúng vô cùng may mắn. Ngược lại, vấn nạn của xứ sở sẽ kéo
dài, vì trên thực tế, đại đa số người dân không bao giờ đủ quyền lực và kiến
thức để thay đổi một cơ chế, kể cả những nước dân chủ Tây Phương” [21].
Không còn nghi ngờ gì nữa, hoạt động của các nhóm lợi ích
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội thông qua việc cấu kết tinh vi
giữa những chủ đầu tư với các quan chức trong bộ máy Đảng và Nhà nước là
một trong những nguyên nhân cơ bản làmđất nước khánh kiệt, gia tăng khoảng cách
giàu nghèo, tích tụ bất ổn xã hội, làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn giữa các
tầng/lớp trong xã hội. Hưởng lợi từ kết quả lao động không chính đáng, với
quyền lực cực lớn có thể làm khuynh đảo hệ thống công quyền (quy hoạch đô thị,
giao thông, các dự án xây dựng lớn), nhóm lợi ích – nhóm thân hữu trở thành
nhân tố trực tiếp đẩy nhanh cuộckhủng hoảng tín nhiệm xã hội [22] dẫn đến nguy cơ rạn vỡ xã hội.
Nếu
không có những thay đổi căn bản, thích hợp, sáng suốt, đột phá vì lợi ích chung
của quốc gia, của nhân dân, của dân tộc, đất nước sẽ trở thành con tin của những nhóm lợi ích, xã hội
đứng trên bờ vực thẳm của những đổ nát, xung đột. Đất nước đang thụt lùi tỷ lệ
thuận với sự phát triển và lớn mạnh của những nhóm lợi ích bất chính.
Việt Nam hiện đang đứng trước những thách thức về đồng thuận xã
hội khi các nhóm/tầng lớp trong xã hội đang có sự khác biệt lớn về vị trí xã hội,
mức sống, nghề nghiệp, học vấn… Lợi ích và cách thức chiếm đoạt lợi ích, bảo vệ
lợi ích của nhóm đặc quyền, đặc lợi đẩy họ đứng đối lập với đa số tập hợp người
khác trong xã hội.
Nhóm lợi ích có tính lịch sử phát triển và chỉ có thể phù hợp với
xã hội nếu lợi ích của nó phù hợp đa phần trong tương quan với các nhóm lợi ích
và cá nhân khác. Chính vì thế,
vấn đề quan trọng nhất, song cũng khó khăn, phức tạp nhất của vận hành, quản trị
xã hội là thực hiện phối, kết hợp lợi ích của các nhóm cụ
thể với lợi ích của xã hội như một toàn thể. Kết quả của thao tác chính trị đó quy định sự ổn
định xã hội, của toàn bộ hệ thống chính trị, tính hợp pháp, hiệu quả của chính
phủ, sự năng động của phong trào xã hội và uy tín của Đảng cầm quyền.
Xã
hội tuy bị ràng buộc, chế định, chi phối bởi điều kiện kinh tế – văn hóa, chuẩn
mực pháp luật và đạo đức, song yếu tố chi phối quyết định nhất, căn bản nhất, trực
tiếp nhất là hệ thống chính trị; trong đó, vấn đề sâu xa, cội rễ nhất là vấn đề
quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị thiếu kiểm soát, hoặc kiểm soát không chặt chẽ
là bà đỡ của những nhóm lợi ích bất minh – điều đó đang diễn ra trong thực tiễn
xã hội Việt Nam. Có một hiện thực là ở Việt Nam hiện nay, cơ chế vận hành xã
hội, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, phương thức kiểm soát
quyền lực nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu hiệu quả là “cơ hội vàng” để các
nhóm lợi ích hoạt động ngầm, thao túng, thâu tóm những lợi ích của sự phát
triển, tạo sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, làm tăng khoảng cách giàu
nghèo, làm méo mó quan hệ xã hội, xói mòn lòng tin của nhân dân, gây bất ổn xã
hội, thậm chí đẩy Nhà nước đứng đối lập với nhân dân.
Để đấu tranh với các nhóm lợi ích tiêu cực, thúc đẩy xã hội phát
triển bền vững, vấn đề chất lượng thể chế chính trị thể hiện
qua khả năng, mức độ kiểm soát quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước và chống độc quyền quyền lực có ý nghĩa sống
còn.
Nếu “thể chế chính trị là tổng hợp các phương pháp và cách thức
thực hiện quyền lực nhà nước do tình hình chính trị trong nước chi phối” [23], thì
“điểm cốt yếu nhất, quyết định nhất đến thể chế chính trị là bản chất, hình
thức, tính chất của quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị” [24]; do
đó, để “bản chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà nước” thực sự thuộc về
số đông, đảm bảo lợi ích cho số đông, đảm bảo công bằng xã hội cho tất cả mọi
người, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, chống tập trung quyền lực được đặt ra
từ rất sớm và luôn luôn tồn tại một khi còn tồn tại nhà nước.
Ở nhiều quốc
gia, kể cả các quốc gia có thể chế chính trị tương đối hoàn thiện, việc tiếp
tục xây dựng, hiện đại hóa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước – tạo lập một cơ
chế có khả năng khuyến khích tối đa ảnh hưởng tích cực của nhóm lợi ích (phân
bổ công bằng lợi ích nhóm), cũng như giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của nhóm lợi
ích (giảm thiểu phân bổ lợi ích bất công giữa các nhóm, kìm chế tiềm năng, tước
đoạt điều kiện phát triển) vẫn luôn được chú trọng. Bàn về vấn đề này, nhà xã
hội học người Mỹ Frank Scarpatti nêu quan điểm: “Mục tiêu của công bằng xã
hội chỉ có thể thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập trung quyền
lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ đặc quyền của
xã hội” [25].
Thật vậy, tập trung quyền lực vượt ngưỡng/vượt chỉ giới gắn
liền với tha hóa tinh thần, đạo đức, bởi đã là con người thì khó tránh khỏi ít nhiều
thiên kiến và vị kỷ. Một trong những yếu điểm của con người là bị chi phối,
điều khiển bởi khát vọng quyền lực. Khi quyền lực tập trung ở những con người
khát quyền lực trong môi trường thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, hoặc cơ chế
kiểm soát quyền lực yếu kém sẽ trở thành thứ “ma túy” mạnh đẩy con người vào ảo
giác, ngộ nhận, đánh đồng lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân vị kỷ, bước một
bước đến độc tài quyền lực. Trong đại đa số trường hợp, tập trung quyền lực là
cha đẻ của độc tài và gia đình trị. Philippines là một ví dụ điển hình: 178 gia
tộc [26] kiểm
soát 72 tỉnh (94%) của Philippines; trong số 178 gia tộc, 100 gia tộc là giới
tinh hoa cũ (thuộc những tập đoàn chính trị hàng đầu của Philippines từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai), 78 gia tộc còn lại là giới tinh hoa mới (sau năm
1986) [27]. Cựu
Cố vấn An ninh Quốc gia Philippines Jose Almonte nhận xét: “Độc quyền quyền lực
chính trị cản trở dân chủ hóa đời sống chính trị, sinh ra và nuôi dưỡng chế độ
gia đình trị” [28].
Con ông cháu cha
Ở trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng, xây dựng
pháp luật cùng với thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật là những hoạt động
cơ bản, đặc biệt quan trọng, thể hiện khả năng nhận thức, khả năng mô
hình hóa các quan hệ xã hội của cơ quan lập pháp, hình thành các qui phạm pháp
luật để điều chỉnh xã hội, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển kinh
tế – xã hội, bảo đảm việc thực hiện lợi ích của giai tầng, các nhóm xã
hội. Hệ thống pháp luật là “chân đế” của thể chế chính trị, đế có vững, thể chế
mới bền; tuy nhiên, luật pháp và các quy định của bộ máy hành chính Việt Nam có
bốn nhược điểm:
(1) Hết sức cồng kềnh, rườm rà, đa dạng về thể loại văn
bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật gây khó khăn trong
thực hiện [29];
(2) Tính minh xác, tính minh định, phạm vi điều chỉnh, tác động nhiều khi
chưa thực rõ ràng [30];
(3) Thường xuyên thay đổi, tính ổn định không cao; (4) Xây dựng pháp luật
chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương, thực trạng kém chất lượng của hệ thống pháp luật
hiện hành có thể gói gọn trong “chín không”: Không đầy đủ, không rõ ràng, không
cụ thể, không tương thích, không minh bạch, không tiên liệu trước, không hợp
lý, không hiệu quả và không hiệu lực.
Như thế, tình trạng pháp quyền (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) của hệ thống chính trị Việt Nam vẫn tồn tại không ít
“kẽ hở”, “lỗ hổng”, chưa đóng vai trò thực sự điều chỉnh hành vi, nhận thức của
xã hội, cá nhân và tổ chức, chưa làm tròn vai trò phản tỉnh đối với xã hội – đó
là một chính phủ yếu kém! Về thứ hạng hiệu quả khuôn khổ luật Pháp, Việt Nam
từ hạng 57 năm 2009 xuống 74 năm 2012; tính minh bạch của Chính phủ giảm từ
hạng 58 năm 2007 xuống 91 năm 2012 [31].
Một hệ thống pháp luật như vậy tạo điều kiện cho bộ máy quyền
lực ngày càng phình to trên cả phương diện bộ máy hành chính lẫn công cụ bạo lực. Không
hiếm gặp trường hợp “tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Quyền lực nhà nước là thống nhất” [32] bị
bóp méo, bẻ cong, bị lợi dụng, dẫn đến dân chủ hình thức, tập trung quyền lực,
độc quyền quyền lực, lũng đoạn chính sách, biến quyền lực được nhân dân và Nhà
nước giao phó thành quyền lực cá nhân, trục lợi cho bản thân, cho nhóm lợi ích
mà họ thuộc về. Một cách tổng quát, thể chế chính trị Việt Nam có hàng
loạt khiếm khuyết: Tiếng nói của người dân chưa được chú ý lắng nghe; các
cơ quan nhà nước được “ưu ái” về trách nhiệm giải trình; chất lượng chính sách
và năng lực điều hành của cơ quan công quyền thấp, chậm được cải thiện; chống
tham nhũng hầu như không có tiến bộ; tính công khai minh bạch thấp; hiệu quả
của Chính phủ và chất lượng của các văn bản pháp quy thấp, chưa đáp ứng yêu
cầu. Bộ máy công quyền ngày càng xa dân, quản lý đất nước kém hiệu quả,
quyền lực bị thả lỏng không được giám sát, thiếu công khai, minh bạch. Một
khi “chế độ tước đoạt lên nắm quyền, tức là quyền lực chính trị bị tập trung
trong một nhóm nhỏ thì không có sự thịnh vượng hay quyền tư hữu nào có thể cứu
đất nước đó khỏi kết cục suy tàn vì quyền sở hữu có thể bị thao túng” [33] –
Việt Nam đang ở trong tình trạng này.
Một thể chế chính trị văn minh và tương đối hoàn bị khi có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, tạo thế đối trọng giữa các nhóm lợi ích; “chủ động phát
triển cơ chế đề kháng thông qua các quá trình tự cải tổ, đổi mới liên tục,
thường xuyên, lâu dài, không ngừng trệ” [34]; đồng
thời, phân chia quyền lực cho các thành phần khác nhau của bộ máy công quyền –
giám sát và cân bằng quyền lực. Thể chế chính trị được coi là minh bạch, tiến
bộ khi có khả năng hóa giải xung đột nhóm lợi ích, đạt tới cách thức phân bổ
lợi ích thỏa đáng, làm cho lợi
ích phát huy giá trị động lực, kích thích tối đa khả năng đóng góp, hạn chế tối
đa khả năng gây hại của các nhóm lợi ích cho xã hội. Trên nền tảng ấy, xây dựng
cơ chế giám sát hữu hiệu trong bản thân bộ máy nhà nước là thao tác đầu tiên để
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Những
lập luận nêu trên cho phép kết luận: Ở Việt Nam hiện nay, để giảm thiểu và đi
đến loại trừ tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích đối với phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội, điều hòa phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo
theo chiều hướng tạo động lực, thể chế chính trị hiện hành phải được thay đổi căn bản hoặc thay thếvới sự ra đời của một nhà nước
lấy sự công bằng là một trong những mục tiêu, tôn chỉ tối cao trong tổ chức và
hoạt động. Nhà nước ấy coi “sự phân quyền với nghĩa phân công chức năng và kiểm
soát quyền lực trở thành phương thức tồn tại” , của chính mình.
Nhấn mạnh thêm rằng, nguyên tắc phân chia quyền lực, kiểm tra và
giám sát, kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực trong xây dựng nhà nước
pháp quyền đảm bảo ngăn chặn nguy cơ tập trung quyền lực nhà nước trong tay một
cá nhân, cơ quan hay một lực lượng chính trị – xã hội nào đó như là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự lạm quyền, chuyên quyền, dẫn đến những lỗ hổng luật pháp.
Bên cạnh đó, nguyên tắc phân quyền còn có khả năng bảo vệ nhân dân khỏi sự tùy
tiện, độc đoán, mang tính quan liêu, phiền nhiễu của các cơ quan và công chức
trong bộ máy nhà nước, đảm bảo các cơ quan và công chức này luôn luôn chỉ thực
hiện tuân theo pháp luật. Một thể chế dân chủ có bộ máy nhà nước xây dựng trên
nguyên tắc tam quyền phân lậpmột
cách thực sự đi cùng với xã hội dân sự [36] là những gì người dân Việt Nam cần và
mong đợi lúc này.
H.M.
[1] TS.
Lê Đăng Doanh: “Đổi mới tư duy và cải cách thể chế
những yêu cầu từ thực tiễn”, Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ
cấu, Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách
kinh tế vĩ mô” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì với sự tài trợ của Chương
trình Phát triển Liên hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP), tr.277-278.
[2] Như
trên, Tlđd, tr.278.
[3] Bill
Hayton: Vietnam’s New Money, Foreign
Policy, 21-1-2010.
[4] Bill
Hayton: Vietnam’s New Money, Ibid.
[5] Năm
2010, Vinashin lỗ 4,5 tỉ USD, năm 2011, EVN lỗ 3.500 tỷ đồng, năm 2012, các tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước lỗ khoảng 2.253 tỷ đồng… Tính chung hai năm 2011-
2012, tổng số doanh nghiệp rời khỏi thị trường bằng 20 năm trước đó; trong số
gần 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tỷ lệ thua lỗ cũng rất cao (Nguồn: Chi phí vốn của doanh nghiệp Việt cao gấp 10 lần công
ty đa quốc gia, Cafef.vn, 24-11-2012).
[6]Tổng
cục Thống kê: Kinh tế – xã hội thời kỳ 2006-2010
qua số liệu một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu, www.gso.gov.vn.
[9] Nợ công ở ngưỡng nguy hiểm: Công bố các khoản nợ để xã hội giám sát, Nhanh.net.vn,
16-6-2014. Khối nợ xấu khổng lồ “có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng; nợ công
quốc gia có thể lên đến 95-106% GDP – theo tiêu chuẩn Liên Hợp Quốc” (Nguồn: Phạm Chí Dũng: Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng
chính trị ở Việt Nam? Tạp chí Thời đại mới, số 28/tháng 8-2013).
[10] Kinh tế Việt Nam, Wikipedia.
[11] Việt Nam nhiều dân nghèo gần nhất khu vực, BBC Vietnamese, 7-9-2012.
[12] Trung Quốc trúng
thầu 90% công trình thượng nguồn của Việt Nam, Vieetnam Economic Forum, 32-7-2010.
[13] TS.
Lê Đăng Doanh: “Đổi mới tư duy và cải cách thể chế
những yêu cầu từ thực tiễn”, Tlđd, tr.270.
[14] Ví
dụ như thu hồi đất đai của người dân đền bù cho họ 1 triệu đồng/m2, bán lại cho một
người khác là 3 triệu đồng/m2, sau đó người này
lại bán đi với giá 25 triệu đồng/m2. Đa phần 22
triệu đồng chênh lệch địa tô là rơi vào tay nhóm lợi ích.
[15] Thống đốc: “Có lợi ích nhóm trong ngân hàng”,
Tin mới, 8-10-2012.
[16] Kỳ
Duyên: Vận mệnh nước Việt và lợi ích nhóm, vietnamnet.vn,
12-7-2014.
[17] Loại
hợp đồng nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật đến thi
công xây dựng công trình, hạng mục công trình và chạy thử bàn giao cho chủ đầu
tư.
[18] Kỳ
Duyên: Vận mệnh nước Việt và lợi ích nhóm, Tlđd.
[19] Kỳ
Duyên: Vận mệnh nước Việt và lợi ích nhóm, Tlđd.
[20] TS.
Alan Phan: Lợi ích từ… các nhóm lợi ích,
Vietnam.net, 26-5-2011.
[22] “Khủng
hoảng tín nhiệm xã hội” có nghĩa là chính quyền không nhận được sự tín nhiệm
của người dân, một bộ phận quần chúng nhân dân cho rằng chính quyền không thể
hiện được ý chí của họ. Một cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội sẽ gây ra sự
nhiễu loạn về tư tưởng, gây mất niềm tin của dân chúng , có thể dẫn đến khủng
hoảng chính trị.
[25] Frank
Scarpatti: Social Problems, Dreyden
Press USA, 1977, p. 632.
[26] Một
dòng họ/gia đình/gia tộc được liệt vào hệ thống gia đình trị (political family)
khi có hai thành viên trở lên (tính đến huyết thống đời thứ ba) chiếm giữ vị
trí trong quốc hội hoặc bộ máy chính quyền bang.
[27] Monopoly of political power, GMA News,
6-11-2012.
[29] Trong
vòng 10 năm (1988-2008), chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan
Trung ương ban hành, thì hệ thống pháp luật Việt Nam đã có tới 19.126
văn bản, trong đó có 208 luật, bộ luật, 192 pháp lệnh, 2.097 nghị định, 267
nghị quyết và 36 thông tư, 1.213 thông tư liên tịch. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã
cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau để hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực
hiện phải dựa trên 126 văn bản. Trong lĩnh vực môi trường, có đến khoảng 300
văn bản pháp luật khác nhau đang còn hiệu lực. Trong khi đó, nếu kể cả các
văn bản pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành, trung bình mỗi
năm lại “mọc” thêm 4.000 văn bản quy phạm pháp luật mới (Nguồn, Cơ sở liệu pháp luật, www.vbqppl.moj.gov.vn; Hà
Phong, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
chồng chéo: Khốn khổ với “9 không, Hà Nội mới Online, 31-3-2012).
[30] Chất
lượng văn bản quy phạm pháp luật cũng chưa cao, nhiều quy định pháp luật
không rõ ràng, thiếu ổn định, gây khó khăn cho việc tiếp cận, nhận thức và thực
hiện pháp luật. Do đó, trên thực tế, pháp luật nước ta xảy ra tình trạng
luật ra đời phải chờ nghị định hướng dẫn và nghị định chờ thông tư mới thi hành
được…Theo Báo cáo tổng kết của Cục kiểm tra văn bản, Bộ Tư pháp, năm
2004, các cơ quan chức năng đã thực hiện kiểm tra trên 21.000 văn bản quy phạm
pháp luật từ cấp bộ trở xuống và đã phát hiện trên 3.000 văn bản trái với quy
định của pháp luật.
[31] TS.
Lê Đăng Doanh: “Đổi mới tư duy và cải cách thể chế những
yêu cầu từ thực tiễn”, Tlđd, tr.280.
[32] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 52.
[33] D.Acemoglu
và J.Robinson, Why Nations fail, The Origins of
Power, Prosperity, and Poverty, Crown Publishers, New York, 2012.
[34]
Rawls, J. A: Theory of justice, N.
Y, 1971, p. 60.
[35] Đào
Trí Úc: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Sđd, tr.39.
[36] Nội
dung căn bản của việc kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong là giải quyết
mối quan hệ phân công, phân quyền giữa các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà nước;
trong đó, vấn đề phân định, kết hợp các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp là nội dung cốt lõi. Quyền lập pháp là quyền đại diện cho
nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những người được nhân dân trao
quyền này là những người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là
Quốc hội.
Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện
cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo
luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua
luật là quyền lập pháp; đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao
mọi hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp. Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực
hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách.
Thuộc tính cơ bản, xuyên
suốt mọi hoạt động của quyền này là quản lý nhà nước (hay cai trị) mà thực chất
là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội.Quyền tư pháp là quyền xét xử, được
nhân dân giao cho Tòa án và các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện
quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt
động xét xử của Tòa án.
Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc
gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân
và cơ quan nhà nước. Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ
chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội
tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính
trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường.
Nhìn chung, đó là lãnh vực bên ngoài gia đình, nhà nước và thị trường, nơi
người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung. Thành tố quan
yếu nhất của xã hội dân sự, do đó, chính là mỗi công dân, ý thức được trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với bản thân và xã hội, tự nguyện tham gia vào
các sinh hoạt giúp cho xã hội tốt đẹp hơn.
__._,_.___
Posted by: Dien bien hoa binh