Hình ảnh nói lên: Sự kiện Tội Ác Việt Cộng ! ! !






http://1.bp.blogspot.com/-H2UASSKYcOk/UJml_6fpwuI/AAAAAAAA0Q8/ThhrjwncSGc/s1600/babui-danlambao-%C4%90a%CC%82%CC%81t+nu%CC%9Bo%CC%9B%CC%81c+la%CC%80+ca%CC%81i+%C4%91uo%CC%82i+sam1.jpg








Friday, September 25, 2015

Ăn cướp(CSVN) khen ăn cướp(EVN)!

 

Ăn cướp(CSVN) khen ăn cướp(EVN)!

Chuyên gia kinh tế cũng ngỡ ngàng với đề nghị phong Anh hùng cho EVN


Trước việc EVN nằm trong danh sách 42 trường hợp đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cảm thấy “ngỡ ngàng”... và ông thẳng thắn nói EVN chưa xứng đáng.

Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đang lấy ý kiến nhân dân đối với 45 trường hợp thuộc Bộ, ngành, đoàn thể trung ương đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2015.
Trong danh sách 42 trường hợp được đề nghị phong tặng Anh hùng Lao động vì có thành tích xuất sắc của Ban thi đua - Khen thưởng có tên đơn vị gây chú ý là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đơn vị được dư luận nhắc đến với nhiều bức xúc.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, EVN chưa xứng đứng được phong danh hiệu Anh hùng Lao động bởi làm ăn chưa hiệu quả, còn bê trễ, người dân không đồng thuận, bức xúc nhiều.
Trao đổi với PV Infonet xung quanh đề nghị phong Anh hùng Lao động đối với EVN, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, đã phong là Anh hùng Lao động thì phải là tiêu biểu để người ta làm gương học tập, phải xứng đáng với thực sự.
“Nhưng cả quá trình hoạt động của ngành điện bị kêu ca rất nhiều, Chủ tịch EVN bị miễn nhiệm chức vụ, hoạt động thì bị dân kêu, tính công khai, minh bạch không có. Bao nhiêu bê bối đã xảy ra chứ không chỉ dưới góc độ về giá điện, mà còn cả vấn đề cửa quyền, độc quyền… cả quá trình hoạt động của EVN nữa đều gây bức xúc cho người dân. Thực sự, EVN chưa xứng đứng được phong danh hiệu Anh hùng bởi làm ăn chưa hiệu quả, còn bê trễ, người dân không đồng thuận, bức xúc nhiều”, ông Long thẳng thắn.
Theo vị chuyên gia này, ngay cả Thủ tướng cũng đã phê phán khi làm việc với ngành điện khi Tổng giám đốc, Chủ tịch HĐQT mỗi người phát biểu một khác, thiếu trung thực… ngành điện là ngành độc quyền còn nhiều vấn đề tạo bức xúc cho người dân. Thế nên, bây giờ mà EVN nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thì người ta cảm thấy thất vọng, thiếu tin tưởng.
“Tôi nghe được thông tin EVN nằm trong danh sách 42 trường hợp đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động… tôi thấy ngỡ ngàng”, ông Long nói.
Bên cạnh đó, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long còn cho rằng, khi đưa EVN vào danh sách đề nghị này cũng cần phải xem xét lại cả Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương. “Trường hợp như EVN mà cũng đưa vào danh sách đề nghị phong tặng danh hiệu thì cần xem có mặt trái nào không? Cơ quan chức năng mà thấy trước thực trạng của EVN, trước việc dư luận bức xúc như thế thì Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương cũng cần phải xem xét, loại ngay từ đầu chứ đưa vào danh sách đề nghị rồi thì vô hình chung đã thừa nhận rồi mới đưa vào danh sách đó để xin ý kiến”, ông Long phân tích.
Cũng theo vị chuyên gia này, trước đây cũng đã có nhiều đơn vị được phong là Anh hùng Lao động, được nhận huân chương nhưng sau một thời gian thì bị thanh tra, mắc tội này tội kia rồi vào tù… “Do đó, đưa EVN vào danh sách đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng càng cần xem xét lại cả phía EVN và Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương”, ông Long nhắc lại.
Không đưa ra ý kiến EVN có xứng đáng hay không xứng đáng trong danh sách đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, ĐBQH Bùi Thị An (đoàn Hà Nội) cho rằng, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương công bố danh sách để lấy ý kiến nhân dân thì phải công bố kèm theo tiêu chí, tiêu chuẩn, quy trình rõ ràng, thời hạn và đối tượng lấy ý kiến là như thế nào, hình thức kiểm tra thông tin đến người dân bằng cách nào và thu lại ý kiến của người dân bằng cách nào?… Theo bà An, đã lấy ý kiến thì phải rõ ràng như thế, nếu chỉ đưa danh sách tên các đơn vị rồi bảo lấy ý kiến nghĩa là chỉ mang tính hình thức.
Riêng việc đưa EVN vào danh sách đề nghị khen thưởng này, bà An đặt câu hỏi: Đã có ý kiến của Ban Thi đua – Khen thưởng chưa hay đó mới chỉ là đề nghị đưa vào danh sách của Bộ Công thương?
ĐBQH Bùi Thị An cho hay, muốn đánh giá đơn vị nào có xứng đáng hay không xứng đáng được tặng danh hiệu thì cần phải có toàn bộ tiêu chí, kết quả làm việc, kinh doanh của đơn vị đó đi kèm, lỗ lãi ra sao, lĩnh vực đầu tư thế nào, có đầu tư ngoài ngành không, nộp thuế bao nhiêu?… mới đưa ra đánh giá được.
Minh Thư


image





Trước vic EVN nm trong danh sách 42 trường hp đ ngh phong tng danh hiu Anh hùng Lao đng, chuyên gia...
Aperçu par Yahoo


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

VN có đứng trước nguy cơ giảm phát?


VN có đứng trước nguy cơ giảm phát?

  • 24 tháng 9 2015

Báo Financial Times (FT) nói Việt Nam có nguy cơ đối mặt với giảm phát lần đầu tiên, sau khi chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng ở mức thấp nhất trong 10 năm qua.
Số liệu vừa được Tổng Cục Thống kê Việt Nam công bố cho thấy chỉ số giá tiêu dùng trong tháng Chín giảm 0,21% so với tháng trước.
Đây là lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở lại đây CPI tháng Chín giảm so với tháng trước, cơ quan này cho biết.
Tờ Financial Times trong bài ngày 24/9 nói đây là một "cú xoay đầu khác thường" đối với một quốc gia từ lâu đã đối phó với tình trạng lạm phát vượt tầm kiểm soát.
Theo FT, diễn biến lạm phát tại Việt Nam đang phản ánh nhu cầu yếu kém, giá hàng hóa giảm và chi phí sản xuất giảm trên toàn cầu.
"Đối với các nhà hoạch định chính sách, đây là một thế tiến thoái lưỡng nan", FT nhận định.
"Nếu họ muốn giữ lạm phát quá thấp, nền kinh tế có thể rơi vào giảm phát, và hậu quả có thể là suy thoái hoặc tăng trưởng chậm, khiến nhu cầu tiêu dùng lẫn đầu tư đều giảm".

Nguyên nhân lạm phát thấp

Tuy nhiên, ý kiến từ giới chuyên gia lại cho rằng Việt Nam khó có khả năng rơi vào giảm phát trong năm nay.

"Tôi không nghĩ Việt Nam đối mặt với nguy cơ giảm phát", Tiến sỹ Kinh tế Lê Đăng Doanh nói với BBC hôm 24/9.
"Hiện nay mức chỉ số giá vẫn còn dương và khả năng Việt Nam rơi vào giảm phát hiện nay chưa có dấu hiệu cụ thể".
"Do điều chỉnh tỷ giá nên ngành điện báo lỗ muốn tăng giá, Bộ Tài chính thì đang muốn tăng thuế và các khoản thu khác cho ngân sách."
"Chỉ số tăng tín dụng của Việt nam thì tăng rất mạnh nên nền kinh tế Việt Nam không có dấu hiệu quá trầm lắng."
Ông Doanh cho biết nguyên nhân lạm phát thấp là do "giá xăng dầu giảm hai lần, khiến cước phí vận tải giảm, từ đó kéo theo mặt bằng giá giảm đáng kể."
"Trong khi đó mặt bằng giá về chi tiêu, giáo dục, giải trí lại tăng lên vì là mùa học sinh đi học và phụ huynh phải mua sắm, đóng góp cho nhà trường", ông nói.
Tuy nhiên ông cho rằng chỉ số giá tiêu dùng giảm cũng có thể mở ra các cơ hội cho nền kinh tế.
"Chỉ số giá tiêu dùng giảm thì cũng mở ra khả năng giảm mặt bằng lãi suất".
"Lãi suất của Việt Nam hiện nay là cao nhất trong khu vực, vào khoảng 7%. Đó lãi suất ưu đãi, còn những lãi suất thương mại bình thường có thể lên đến 10% trong khi lãi suất ở Hoa Kỳ chỉ khoảng 0,5% và ở Thái Lan là 3%."
"Vì vậy nên chi phí đầu vào đối với các doanh nghiệp Việt Nam cao, tác động tới giá thành, tác động tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam."


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Tuesday, September 22, 2015

Dự trữ ngoại tệ TQ sụt mất 94 tỷ USD


From: Dien bien hoa binh
Sent: Friday, September 11, 2015 6:53 PM  

Dự trữ ngoại tệ TQ sụt mất 94 tỷ USD

  • 7 tháng 9 2015

Ông Chu Tiểu Xuyên trấn án các nhà kinh tế rằng 'giai đoạn chỉnh sửa' đã qua
Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc bị sụt mất 93.9 tỷ USD trong tháng 8 với xu hướng dòng vốn rút chạy khỏi nước này.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đóng vai trò của Ngân hàng trung ương nước này công bố hôm thứ Hai 07/09/2015, dự trữ ngoại tệ vốn lớn nhất thế giới của TQ nay còn 3.kỹ 557 USD hay là 3,557 nghìn tỷ USD.

                       (1 kỹ= 1,000 tỹ hay bằng 1,000,000 triệu)

Nhưng xu hướng lo ngại với thị trường Trung Quốc những tuần qua khiến dòng vốn chạy ra nước ngoài ngày càng nhanh.
Theo Bloomberg, chỉ trong nửa năm qua, số vốn chạy khỏi Trung Quốc đã đạt 300 tỷ USD.
Giới quan sát nói con số vốn chạy khỏi Trung Quốc còn có thể lên tới 1kỹ hay 1 nghìn tỷ USD tính đến hết tháng 8.
Can thiệp của chính quyền cũng là yếu tố làm giảm dự trữ ngoại tệ.
Reuters trích lời một nhà kinh tế cao cấp của Commerzbank ở Singapore cho rằng "càng can thiệp nhiều thì dự trữ ngoại tệ bị đốt bớt đi càng nhanh".

Giá trị: yuan hay nhân dân tệ  

               

Sự sụt giảm hiện nay khiến một số nhà quan sát đặt câu hỏi liệu các nỗ̉ lực của Trung Quốc nhằm giữ giá cho đồng yuan (nhân dân tệ) có bền vững hay không.
Tuy nhiên, con số chỉ chừng 94 tỷ USD cũng làm giảm đi căng thẳng vì có những nhà bình luận từng cho rằng Trung Quốc có thể mất 200 tỷ USD.
Sau khi Trung Quốc phá giá đồng yuan (nhân dân tệ) gần 2% hôm 11/08, đồng tiền nước này bị bán tháo đi.
Về phía mình, Thống đốc Ngân hàng trung ương, Chu Tiểu Xuyên nói với quan chức tài chính từ 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới hôm cuối tuần qua rằng thị trường tài chính Trung Quốc "đã hoàn tất quá trình chỉnh sửa".
Cũng hôm thứ Hai tuần này, Trung Quốc sửa lại dự báo tăng trưởng năm 2014, từ 7,4% xuống 7,3%, cho thấy kinh tế nước này tăng trưởng thấp nhất trong 25 năm qua.



__._,_.___

Posted by: <vneagle_1

Công nhân Việt nhập lậu tăng sức mạnh cho « Made in China

 

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Công nhân Việt nhập lậu tăng sức mạnh cho « Made in China »

  •  
  •  
  •  
  • Share

Trong số những lao động nhập cư nước ngoài, hầu hết là bất hợp pháp, lực lượng lao động từ Việt Nam đã trở thành nguồn cung cấp công nhân đáng kể cho các tỉnh vùng biên Trung Quốc, tăng thêm sức mạnh cho « Made in China ». Hãng thông tấn Reuters của Anh trong tháng 08/2015 đã thực hiện một bài phóng sự công phu về công nhân Việt vượt biên sang Trung Quốc làm công.

Liên tiếp trong ba năm gần đây, dân số trong tuổi lao động của Trung Quốc bị sụt giảm, và riêng trong năm 2014 đã mất đi 3,7 triệu người trong lực lượng lao động. Liên Hiệp Quốc dự báo, những người Trung Quốc trên 60 tuổi sẽ chiếm đến 30% dân số vào năm 2050, so với tỉ lệ 10% của năm 2000.
Lão hóa dân số khiến gây ra những khó khăn kinh tế và xã hội trong tương lai, trở thành mối đe dọa cho tính chính đáng của đảng Cộng sản Trung Quốc. « Công xưởng thế giới » với lực lượng lao động khổng lồ, giờ đây khan hiếm nhân công. Và do tiền lương công nhân Trung Quốc tăng lên, việc tuyển dụng lao động từ các nước lân cận đã giúp giới chủ tiết kiệm được nhiều món nhờ trả lương thấp hơn, không mất chi phí bảo hiểm, y tế…và duy trì được các hợp đồng sản xuất.
Trong số những lao động nhập cư nước ngoài, hầu hết là bất hợp pháp, lực lượng lao động từ Việt Nam đã trở thành nguồn cung cấp công nhân đáng kể cho các tỉnh vùng biên Trung Quốc, tăng thêm sức mạnh cho « Made in China ». Hãng thông tấn Reuters của Anh trong tháng này đã thực hiện một bài phóng sự công phu về công nhân Việt vượt biên sang Trung Quốc làm công.
Trên một khúc uốn yên tĩnh của dòng sông biên giới Việt-Trung, một nhóm người lội qua bờ sông bùn lầy. Họ vừa qua sông từ bờ phía Việt Nam trên một chiếc thuyền dài, được những người từ hai bên bờ nháy đèn làm hiệu.
Những hành khách vội vã đi về phía một nhóm người đang chờ trên những chiếc xe gắn máy, leo lên xe rồi biến mất trong màn đêm. Hai công an Trung Quốc mặc sắc phục đứng ở một đồn nhỏ gần một ngã tư ở thành phố vùng biên Đông Hưng bình thản nhìn những chiếc xe phóng qua.
Một người lái xe trẻ tuổi có mái tóc chải dựng nói : « Hàng đêm chúng tôi đều đi qua đây. Đôi khi chúng tôi chở hàng xuống phố, đôi khi chở công nhân Việt Nam ».
Món hàng lậu chở trên những chiếc xe thồ đêm mùa hè năm ngoái ấy là những người lao động bất hợp pháp. Sau cuộc hành trình dài 700 km, họ được đưa đến thủ phủ kinh tế Quảng Đông - tỉnh đầy những nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu, thường được mệnh danh là « công xưởng thế giới ».
Việc buôn lậu lao động từ Việt Nam qua 1.400 km đường biên giới với Trung Quốc đang tăng lên. Những người môi giới lao động ước tính có hàng chục ngàn công nhân nhập lậu làm việc tại các nhà máy ở đồng bằng Châu Giang, giáp giới Hồng Kông. Các lao động từ những nước Đông Nam Á khác cũng đến tham gia.
Reuters đã đi thăm khoảng sáu nhà máy tại những thị trấn miền nam Trung Quốc, nhận thấy việc sử dụng lao động bất hợp pháp từ Việt Nam là phổ biến, và chính quyền nhắm mắt làm ngơ trước sự hiện diện của họ. Lao động từ Miến Điện và Lào cũng được phát hiện tại vùng này.
Chúng tôi phát hiện rằng các chủ lao động mướn các công nhân Việt Nam nhập lậu với giấy tờ giả, và đôi khi nhốt họ trong khuôn viên nhà máy để giữ khuất tầm mắt nhà chức trách.
Công nhân và môi giới lao động ở Trung Quốc cho biết, những nhóm buôn người được biết đến với tên « Xà Đầu » bắt tay với các băng đảng người Việt để điều hành dịch vụ béo bở này. Theo một tay cò lao động, các băng buôn người « chặt » bớt tiền lương hàng tháng của công nhân, có thể đến 500 nhân dân tệ (80 đô la), đồng thời buộc chủ lao động phải trả phí.
Điểm uốn đồ thị
Các viên chức Việt Nam bày tỏ mối quan ngại về luồng lao động nhập cảnh bất hợp pháp vào Trung Quốc. Bà Phạm Thu Hằng, phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao ở Hà Nội nói, số người Việt vượt qua tuyến biên giới dài có « địa hình phức tạp » đã tăng lên trong những năm gần đây, đặt ra thách thức cho cả hai chính phủ. Bà không có được số liệu về luồng người nhập lậu này. Bà nói : « Lợi dụng tình hình này, một số phần tử xấu đã đưa người Việt sang làm việc bất hợp pháp tại Trung Quốc, gây khó khăn cho cơ quan quản lý lao động của hai nước ».
Một nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc từ chối bình luận, hướng Reuters về phía một cơ quan nhà nước khác mà bà ta không nêu tên. Bộ Công an ở Bắc Kinh không trả lời bản fax của chúng tôi, còn Sở Công an Quảng Đông cũng thế.
Luồng lao động nhập lậu vào Trung Quốc tăng lên là minh chứng cho một nền kinh tế đã đạt đến điểm uốn giới hạn. Các nhà máy Trung Quốc từ lâu vẫn lệ thuộc vào nguồn lao động nội địa giá rẻ dồi dào, cung ứng cho lãnh vực xuất khẩu có doanh thu 2.300 tỉ đô la một năm. Nhưng số người gia nhập lực lượng lao động đang giảm xuống, do tuổi trung bình và tiền lương tăng lên.
Giới chủ nhà máy phải xoay sở để duy trì thế mạnh. Họ đối mặt với sự chọn lựa, hoặc dịch chuyển sản xuất từ vùng duyên hải nơi có mức lương cao vào các tỉnh nội địa, hoặc di dời sang Việt Nam, Cam Bốt. Họ cũng có thể trả tiền cho các nhóm « Xà Đầu » và cò lao động để tuyển công nhân nước ngoài có giá rẻ hơn, những lao động này không được bảo vệ và có thể sa thải dễ dàng.
Jianguang Shen, kinh tế gia trưởng phụ trách châu Á của Mizuho Securities Asia Ltd. từng công bố một công trình nghiên cứu hồi tháng Sáu về đề tài nguồn lao động nhập cư người Trung Quốc giảm sút, nói rằng phần còn lại của thế giới sẽ bắt đầu cảm nhận ảnh hưởng sự chuyển đổi của Trung Quốc khỏi mô hình lao động rẻ & xuất khẩu ồ ạt. « Trung Quốc đã trợ giá cho những bộ phận khác của kinh tế toàn cầu, không chỉ qua lao động giá rẻ, mà còn qua phúc lợi xã hội quá thấp của công nhân. Nhìn chung, nếu mọi điều kiện đều như nhau, giá thành sản xuất thế giới có thể trở nên đắt hơn một chút ».
Trên khắp châu Á, việc tìm kiếm các nguồn lao động mới giá rẻ để cung ứng cho các ngành công nghiệp phải làm việc vất vả nhưng lợi nhuận thấp cho lục địa này đã đẩy mạnh luồng người nhập cư, và cùng với nó là nạn buôn người. Việt Nam, đất nước 92,5 triệu dân năm ngoái đã cho xuất khẩu lao động hợp pháp 107.000 người, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc không công bố bất kỳ số liệu chính thức nào về lao động nước ngoài bất hợp lệ. Một cò lao động Trung Quốc ước lượng « có ít nhất 30.000 » công nhân nhập lậu làm việc ở Đông Hoản - một thành phố công nghiệp 8 triệu dân, nơi có hàng chục ngàn nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Một bài báo hồi tháng Tư trên tờ Nhân dân Nhật báo cho biết chính quyền tỉnh Quảng Đông năm ngoái đã kiểm tra được ít nhất 5.000 trường hợp lao động nước ngoài không giấy tờ.
Lương của giới công nhân cổ xanh ở Trung Quốc đã tăng gần gấp đôi trong năm năm qua, vào khoảng 2.800 nhân dân tệ (450 đô la) một tháng đối với công nhân đứng dây chuyền sản xuất – theo Cục Thống kê Trung Quốc. Một số người Việt chỉ được trả khoảng phân nửa số này – công nhân và cò cho biết. Một số khác được trả lương như công nhân Trung Quốc, nhưng như thế người chủ cũng được lợi vì không phải trả chi phí y tế hay các khoản đóng góp khác.
Đối với các công nhân nhà máy Việt Nam có thu nhập 250 đô la một tháng, cơ hội có được đồng lương tốt hơn khiến họ không kìm được mong muốn vượt qua biên giới. Một nữ công nhân người Việt đến từ một thành phố vùng biên thuộc tỉnh Phú Thọ, qua điện thoại cho biết phân nửa lớp người ở lứa tuổi 30 đến 45 tại thành phố của cô đã sang Trung Quốc, nơi tiền lương « cao gấp đôi, thậm chí gấp ba » so với tại quê nhà.
Những con đường ngoằn ngoèo xuyên qua rừng rậm
Trên phần đất vùng biên phía Việt Nam, thành phố Lạng Sơn là một trong hai tụ điểm chính đưa người sang Trung Quốc. Một công nhân Việt ở Phúc Kiến trả lời qua điện thoại, nói rằng một người dẫn đường đã đưa anh và khoảng 1.000 công nhân khác đi ngoằn ngoèo từ Lạng Sơn, dọc theo một con đường rừng khó nhận ra, xuyên qua biên giới đến Trung Quốc năm ngoái. Họ tránh được tầm kiểm soát của các viên chức biên phòng Việt Nam, nhưng bên kia biên giới, hải quan Trung Quốc cũng làm ngơ.
Một người chạy xe thồ ở Đông Hưng chở phóng viên Reuters đi dọc theo một con đường được các nhóm cò lao động sử dụng, để chỉ cho thấy làm thế nào các xe tải nhẹ và xe du lịch cỡ lớn chở đầy người Việt né được các trạm kiểm soát của công an và bộ đội biên phòng trên các tuyến đường chính. Thỉnh thoảng những chiếc xe này chạy vòng qua các ngôi làng nhỏ để đến điểm cuối là Đông Hoản và các thành phố cơ xưởng khác ở vùng đồng bằng Châu Giang. Các « ăng-ten » được rải dọc theo tuyến đường để báo động khi phát hiện có công an. Dân địa phương cung cấp chỗ trú tạm, cho đến khi hết nguy hiểm.
Nếu các nhà máy đặt hàng tìm công nhân nước ngoài, « chúng tôi có thể đưa đến hàng trăm người cùng một lúc » - một cò lao động có biệt danh là Zhang cho biết. Anh ta nói rằng anh thương lượng trực tiếp với các băng nhóm buôn người. Ngồi trong văn phòng ở Đông Hoản, với chiếc bàn uống cà phê và ghế sofa bọc da đen, Zhang nói : « Băng Xà Đầu có thể mang công nhân đến trong vòng một tuần ».
Nhiều lao động nhập lậu ăn ở luôn trong nhà máy để tránh bị chính quyền địa phương phát hiện. Nhưng tại một số nơi ở miền nam Trung Quốc mà phóng viên Reuters đã đến thăm, công nhân dường như tha hồ di chuyển mà không bị phiền hà gì.
Tại thành phố công xưởng Đại Lĩnh Sơn (Dalingshan) ở vùng đồng bằng Châu Giang, có một công ty tên là Jia Hao chuyên sản xuất khung ảnh bằng gỗ để xuất khẩu sang Hoa Kỳ và châu Âu. Tại đây, hàng trăm công nhân, một số mặc áo polo đồng phục màu xám của Jia Hao, dạo chơi trên đường phố sau giờ làm việc. Họ chơi bi-da và ăn uống ở những quán bán mì dọc đường. Các công nhân này có vẻ không hiểu khi nói chuyện với họ bằng tiếng Hoa. Một người quản lý nói với Reuters, những người lao động này được đưa lậu từ Miến Điện sang Trung Quốc.
Lực lượng « thành quản » (chengguan) đi bộ hay đi xe gắn máy tuần tra khu vực, không quan tâm gì đến các công nhân trên.
Quản đốc nhà máy Jia Hao chối cãi đây không phải là lao động nhập cư lậu nói rằng họ là người dân tộc Va (Wa) ở bang Shan thuộc miền bắc Miến Điện, nhưng nay sống ở vùng Tây Minh (Ximeng) thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Zheng Lunshun, người quản lý nhà máy Jia Hao nói : « Cơ quan công an cho chúng tôi truy cập vào một trang web để kiểm tra. Đối với mỗi công nhân, chúng tôi cần phải xem chứng minh nhân dân của họ có hợp lệ hay không, và chỉ khi đó mới có thể thuê mướn. Nếu giấy chứng minh là giả, chúng tôi không thể nào tìm thấy trên mạng được ».
Một sĩ quan trực ban ở công an địa phương Đại Lĩnh Sơn nói rằng công an đã kiểm tra nhà máy, và không tìm thấy một công nhân bất hợp pháp nào cả. Những ngày sau khi liên lạc với công an và xưởng máy, Reuters ghi nhận có ít công nhân ra khỏi cổng nhà máy sau giờ làm việc hoặc dạo phố hơn trước.
Bị bắt giữ và trục xuất
Một số chủ xí nghiệp tỏ ra đặc biệt cẩn trọng. Để tránh bị chính quyền phát hiện, quản đốc một xưởng đồ gỗ ở Đại Lĩnh Sơn nói rằng các công nhân Việt Nam mới đến được đưa thẳng vào khu vực nhà máy, đến một tòa nhà tách biệt với dây chuyền sản xuất và ký túc xá. Người lao động Việt được phép ra ngoài mỗi tuần một lần, có bảo vệ nhà máy đi kèm.
Chủ nhà máy có nguy cơ bị phạt 10.000 nhân dân tệ (1.600 đô la) hoặc hơn thế nữa do tuyển mộ lao động bất hợp pháp - theo báo chí Trung Quốc.
Một người quản lý trong một nhà máy sản xuất sản phẩm acrylic và quà tặng, tự xưng ngắn gọn là « ông Lý », nói rằng xưởng của ông mướn khoảng 80 lao động Việt Nam và Miến Điện trong tổng số lực lượng lao động khoảng 600 người. Như vậy chủ nhà máy tiết kiệm được tiền, nhưng thường xuyên lo lắng bị chính quyền truy quét. Ông Lý thổ lộ, với điều kiện không nói tên nhà máy : « Tất cả các công nhân Việt Nam đèu mang chứng minh thư giả. Nhưng vậy ông chủ cũng có cớ. Nhưng mỗi ngày ông ấy đều sống trong sợ hãi ».
Công nhân và giới chủ cho biết công an Trung Quốc thỉnh thoảng mới truy lùng. Theo các bài trên báo nhà nước mà Reuters đọc được, có ít nhất 20 thành phố lớn nhỏ ở miền nam Trung Quốc đã bị các đợt truy quét lao động nhập lậu.
Bà Thu Hằng ở Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố chính phủ đã phối hợp với Trung Quốc trong việc « phá vỡ nhiều đường dây buôn người ». Bà không cho biết thêm chi tiết.
Những người lao động được phỏng vấn nói rằng những ai bị bắt sẽ bị giữ trong trại tạm giam của công an, đôi khi trong nhiều tuần lễ, trước khi bị gởi trả về Việt Nam. Một công an viên ở đồn công an Đại Lĩnh Sơn có họ là Zhou cho biết công nhân nhập lậu có thể bị giam giữ đến 30 ngày trước khi cho hồi hương. Zhou, phụ trách những người được đồn công an Đại Lĩnh Sơn chuyển qua nói : « Hầu hết lao động nhập cư lậu là từ Việt Nam, và chúng tôi sẽ tìm kiếm những người này ».
Tại Trung Quốc, rất ít người ngoại quốc được cấp giấy phép làm những công việc văn phòng  - theo các quản đốc nhà máy và cò lao động. Hai quản đốc ở Đông Hoản nói công nhân được cấp giấy chứng minh nhân dân giả với tên giả người Hoa, và được huấn luyện cách thức trả lời các câu hỏi của công an. Những người quản lý cho biết chính quyền được hối lộ để làm ngơ về các công nhân này. Công an Trung Quốc và cơ quan lao động xã hội thành phố Đại Lĩnh Sơn cũng như của tỉnh Quảng Đông từ chối trả lời các câu hỏi gởi bằng fax.
Một người chuyên làm giả chứng minh thư nói với Reuters qua điện thoại từ Đông Hoản, rằng ông ta đã cung cấp « một lượng lớn » hồ sơ giả cho lao động nước ngoài nhập lậu từ Miến Điện và Việt Nam. Tất cả những gì ông ta cần là một cái tên giả và một tấm hình của công nhân, để làm ra một giấy chứng minh. Những tấm thẻ giả này nói chung có giá khoảng 100 nhân dân tệ (16 đô la).
Vẫn làm ăn như bình thường
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông không làm nản lòng những lao động Việt muốn vượt biên giới. Các nhà máy có chủ là người nước ngoài tại Việt Nam, bị cho là của người Trung Quốc, đã bị tấn công năm ngoái khi Bắc Kinh đưa giàn khoan nước sâu trị giá một tỉ đô là đến vùng biển Hoàng Sa, gây phẫn nộ cho người Việt. Có bốn người chết và hàng trăm người bị bắt trong vụ này.
Trong chuyến thăm các thành phố vùng biên Đông Hưng năm ngoái, chúng tôi thấy một nhóm nhỏ công nhân Việt Nam đang xây dựng một bức tường cao 3 mét phía Trung Quốc. Ngọc Đức, 30 tuổi nói anh đã lén vượt biên sang, kiếm được 100 nhân dân tệ một ngày nhờ hàn hàng rào, so với thù lao 200.000 đồng (9 đô la) ở Việt Nam. Khi được hỏi có sợ chính quyền Trung Quốc bắt không, anh nói : « Trung Quốc là nơi kiếm tiền tốt nhất, ngày càng có nhiều người Việt chúng tôi sang đây ».


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

KINH TẾ TẬP QUYỀN CHỈ HUY VÀ NHỮNG YẾU KÉM



KINH TẾ TẬP QUYỀN CHỈ HUY
VÀ NHỮNG YẾU KÉM

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 28.08.2008. Cập nhật Geneva, 20.09.2015
Facebook : Phuc Lien Nguyen

Inline image 1


PHỔ BIẾN CÁC BÀI

Những Bài viết của các Chủ Đề thuộc ĐỀ TÀI tổng quát SỤP ĐỔ KINH TẾ CỦA MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ--LUẬT PHÁP ĐỘC TÀI được phổ biến qua các phương tiện truyền thông sau đây:

1)         Website: http://VietTUDAN.net
2)         Tuần Báo VietTUDAN phát hành ngày Thứ Năm mỗi tuần
3)         Trực tiếp qua các Địa chỉ Điện thư (E-mail Addressess) theo:
=>       Hệ thống Google Groups
=>       Hệ thống  Yahoo Groups
4)         Đăng bài trên Facebook: xin vào với những tên Facebook sau đây:
=>       Facebook: Phuc Lien Nguyen
=>       Facebook: Tudan Tudodanchu
5)         Trực tiếp cắt nghĩa trên Diễn Đàn Paltalk: Xin vào các Diễn Đàn sau đây:
=>       DienDan ChinhTri TranhLuan DanChu
=>       DienDan DauTranh cho Viet Nam

-----=====o O o=====-----

NHỮNG BÀI ĐÃ PHỔ BIẾN

Chúng tôi phổ biến loạt bài về SỤP ĐỔ KINH TẾ CỦA MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ--LUẬT PHÁP ĐỘC TÀI. Chúng tôi xin tóm tắt những Bài đã phổ biến trước Bài này để độc giả tiện theo rõi liên tục những ý tưởng trong việc chứng minh rằng Mô hình KINH TẾ TẬP QUYỀN CHỈ HUY đã và sẽ đi đến phá sản. Không thể có nền KINH TẾ TỰ DO THỊ TRƯỜNG định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, nghĩa là trong Thể chế Chính trị--Luật pháp Độc tài Độc đảng toàn trị.

Sau đây là những Bài đã phổ biến trong loạt Bài về Đề tài SỤP ĐỔ KINH TẾ CỦA MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ--LUẬT PHÁP ĐỘC TÀI:

Bài 00 :          DẪN NHẬP CHO CÁC CHỦ ĐỀ: SỤP ĐỔ KINH TẾ ĐỘC TÀI ĐỘC ĐẢNG          
Bài Nhập Đề này chủ ý giới thiệu 5 Chủ Đề thuộc Đề Tài chính như Độc giả thấy ghi trên tấm hình đính kèm. Mỗi Chủ đề sẽ gồm những Bài rời nhưng liên hệ trong Lý luận của chúng tôi để chứng minh rằng phải dứt bỏ hẳn Cơ chế Chính trị--Luật pháp Độc tài Độc đảng toàn trị để có thể lựa chọn Mô hình KINH TẾ TỰ DO THỊ TRƯỜNG cho việc phát triển Kinh tế Quốc dân.

CHỦ ĐỀ 1 :   SỤP ĐỔ LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU VÌ KINH TẾ

Bài 01 :           KINH TẾ TỰ DO THỊ TRƯỜNG: NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
Nền tảng xây dựng nền Kinh tế này là TƯ HỮU những Phương tiện sản xuất và những kết quả sản xuất. Từ đó Tự do Kinh doanh và Tự do Tiêu thụ là hệ luận tất yếu của TƯ HỮU. Nền Kinh tế này chỉ có thể sống với Môi trường Chính trị--Luật pháp Dân chủ (Environnement Politico--Juridique Démocratique)

Bài 02:           KINH TẾ TẬP QUYỀN CHỈ HUY VÀ NHỮNG YẾU KÉM      
                        (Bài hôm nay)


-----=====oOo=====-----

Bài thứ nhất trong loạt bài Chủ đề này trình bầy hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường mà TƯ HỮU được tôn trọng cho mỗi cá nhân và nguyên tắc KHÔNG CAN THIỆP TRỰC TIẾP Chính trị vào Kinh tế được triệt để đòi hỏi. Bài QUAN ĐIỂM thứ hai này trình bầy hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy mà những người chủ trương phế bỏ TƯ HỮU cá nhân và cho phép Chính trị (thậm chí độc tài) nắm trọn mọi sinh hoạt Kinh tế.

Hai chủ trương của hai hệt thống Kinh tế đối chọi hẳn nhau. Kiểm nhận hậu quả của hai hệ thống, người ta xác nhận sự phát triển của hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường và sự thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy.

Bài thứ hai này được trình bầy qua những khía cạnh sau đây:

=>       Vài nét lịch sử của chủ trương Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy.
=>       Thế giới Cộng sản thực hiện hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy
=>       Những lý do thất bại của Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy
=>       Trở lại chủ trương hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường


Vài nét lịch sử của chủ trương
Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy

TƯ HỮU trong hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường được coi là một sự tự nhiên dựa trên quyền tìm sống tối sơ của từng cá nhân và nguyên tắc Không Can Thiệp Chính trị, được các Lý thuyết gia đòi hỏi như điều kiện phát triển TỰ DO xử dụng TƯ HỮU làm phương tiện kiếm sống. Nếu việc xây dựng lý thuyết cho hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường mang tính cách khai triển tự nhiên, thì việc cấu trúc chủ trương Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy đã được thuyết lý dựa trên những quan niệm mang tính cách triết học.

Các lý thuyết gia của chủ trương này đã chạy ngược lên mãi thời Triết gia PLATON. Thực vậy, trong những cuốn “La République“, “Les Lois“, Platon đã nói đến “La Cité Communiste“ trong đó những người trách nhiệm làm Luật không được có gia đình và do đó không cần tư hữu cho con cháu.

Thời Trung Cổ Au châu, phía Thiên Chúa Giáo đã khai triển những Dòng Tu được coi là những Cộng đồng Cộng sản về Kinh tế.

Nhưng phải đợi đến đầu Thế kỷ thứ XVI, với Thomas MOORE (1477-1553), thì lý thuyết về một Chủ thuyết Xã Hội Kinh tế mới được phát triển có hệ thống. Thomas MOORE là người tôn sùng đạo Thiên Chúa. Được Vua HENRI VIII Anh quốc trọng dụng, nhưng vì cương trực phản đối lại Vua về vấn đề rắc rối vợ con, nên Oâng đã bị hành quyết. Năm 1516, cuốn sách Utopie ra đời và ông chủ trương Nhà Nước Utopie (Etat d’Utopie). Bắt đầu từ Thế kỷ XVI, Xã hội Tây phương có những xáo trộn về mọi phương diện: Tôn giáo, Tư duy, Nghệ thuật, Kinh tế, Xã hội... Oâng tìm kiếm một Thể chế có trật tự mà mẫu Cộng đồng trật tự nhất là các Dòng Tu. Giáo sư Sử học Kinh tế Jean-Marie VALARCHE đã viết: “Il (Thomas MOORE) prévoit un dirigisme absolu de l’Etat“ (Oâng (Thomas MOORE) dự trù một chủ thuyết Chỉ huy tuyệt đối của Nhà Nước).

Chúng tôi nhắc đến tác giả này vì muốn lấy ra những điểm mà Karl MARX đã chịu ảnh hưởng: ảnh hưởng của một Dòng Tu làm việc theo chỉ thị của người đứng đầu, cộng chung những sản phẩm, tiêu thụ theo nhu cầu từng người, chỉ có hệ thống phân phối giữa cung và cầu mà không có thương mại.

Từ đây, bắt đầu những cấu trúc Xã Hội Chủ Nghĩa qua những tác giả khác cho đến thời Karl MARX.

Karl Heinrich MARX sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 vùng Rhénanie, Đức, trong một gia đình gốc Do thái. Cha là Luật sư, nên Marx học Luật, sau chuyển sang Triết học theo HEGEL. Oâng chỉ làm quen và suy tư về những vấn đề Xã Hội, Kinh tế, Đấu tranh khi phải di chuyển sống ở nhiều nơi và viết báo. Sống ở một thời đại hậu bán Thế kỷ XIX có nhiều những cực đoan: Kỹ nghệ hóa vượt mức, Giới Tư sản nắm quyền hành, Cách xa Giới Chủ và Giới Thợ, Tình trạng thất nghiệp và đói nghèo, Cách Mạng 1848, những Ý tưởng Quốc gia cực đoan phát sinh. Trong sự hỗn loạn của những cực đoan ấy, Oâng lưu ý khai triển những vấn đề sau đây:

=>          Chủ thuyết Duy vật Lịch sử. Với Chủ thuyết này, Oâng nhấn mạnh đến sự vong thân tôn giáo để kết luận rằng:“Tôn giáo là cái bông ghê tởm mọc trên đống phân tư bản. Bởi vậy nếu hốt đống phân đi, thì hoa cũng tàn...“ Cũng trong Chủ thuyết này, tương quan Xã hội được chính yếu nhấn mạnh vào hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến thiết. Hạ tầng cơ sở gồm những tương quan sản xuất vật chất, thượng tầng kiến thiết gồm những phương diện Luật pháp, Chính trị quy định Xã hội.

=>       Giai cấp Xã hội và Đấu tranh Giai cấp. Cái nguyên nhân tạo ra những Giai cấp Xã hội là sự đấu tranh chiếm hữu. Oâng nhìn thấy hiện tượng vô sản hóa Giai cấp Thợ thuyền. Xã hội phân chia ra hai Giai cấp chính: Giai cấp chiếm hữu và nắm quyền, Gai cấp Thợ thuyền bị khai thác và bị bóc lột. Oâng thuyết giải về tính cách Vong thân Lao động, nghĩa là một mặt đối với chính mình, người Lao động sản xuất, nhưng bị tước đoạt sản phẩm; mặt khác đối với tương giao xã hội trước người khác, người lao động biến thành cái máy làm theo quyết định của chủ bóc lột chứ không có sáng kiến tự mình.

=>       Ảnh hưởng bởi Lý thuyết của David RICARDO về Giá trị sản phẩm được đo lường bằng chính Giá trị Lao động hàm ngụ trong sản phẩm. Tư sản cũng chỉ là sự tích lũy Giá trị sản phẩm từ Giá trị Lao động. Oâng chủ trương Đấu tranh Giai cấp và hệ luận là Giai cấp Lao động phải dành lấy quyền làm chủ sản phẩm của mình. Cần một cuộc nổi dậy Cách Mạng dù bằng bạo động và Giai cấp Vô sản phải nắm trọn quyền hành độc tài tổ chức Xã hội.


Thế giới Cộng sản thực hiện hệ thống Kinh tế
Trung ương Tập quyền và Chỉ huy

Nếu Karl MARX cấu trúc hệ thống mang đậm tính cách lý luận do ảnh hưởng Triết học và Lý tưởng xã hội đậm hình thức tổ chức Cộng đồng Dòng Tu theo kiểu Thomas MOORE, thì LENINE, một người Chính trị, đã lấy những ý tưởng của MARX để đấu tranh chiếm quyền hành và tổ chức cai trị xã hội.

LENINE sinh năm 1870 vùng Simbirsk, giữa Oural và Moscou. Người anh cả của Oâng thuộc một tổ chức Khủng bố, đã muốn ám sát Nga Hoàng, nhưng bị bại lộ và người anh này đã bị treo cổ. Lúc ấy Lénine mới có 17 tuổi và đã bị đi lưu đầy và sống lần lượt tại Anh, Thụy sĩ và Pháp. Năm 1905, sau khi Nga bại trận đối với Nhật, nhóm của Lénine đã phát động nổi dậy, nhưng thất bại.

Năm 1917, Nga lại thất trận đối với Đức. Nhờ tài hùng biện của Lénine và tài chiến thuật của TROTSKY, cuộc CÁCH MẠNG VÔ SẢN tháng 10 đã thành công. LENINE trở thành Nguyên Thủ Quốc gia cho đến năm 1924, năm Oâng chết.

Tổ chức cai trị Xã hội được tiếp tục và trở thành khuôn khổ độc đoán dưới thời STALINE.

Xã hội Cộng sản được tổ chức thực hiện những chủ trương của MARX:

=>       Cuộc đấu tranh đẫm máu thanh trừng Giai cấp tiếp tục khắt khe và vô nhân đạo dưới thời Staline. Giai cấp Tôn giáo, Trí thức và Tư bản bị tiêu diệt.

=>       Truất hữu toàn vẹn những tư hữu. Tất cả trở thành CÔNG HỮU;

=>       Giai cấp VÔ SẢN nắm quyền độc tài, mà đại diện Giai cấp này là Đảng Cộng sản duy nhất, nghĩa là quyền hành cai trị Xã hội và quản trị CÔNG HỮU thuộc về Đảng Cộng sản lãnh đạo Giai cấp vô sản.

=>       Vì những phương tiện sản xuất là CÔNG HỮU, nên chỉ có Nhà Nước (Đảng Cộng sản) có quyền điều hành để sản xuất Kinh tế. Không còn Kinh tế tư nhân nữa mà chỉ còn Kinh tế do Nhà Nước hoạch định qua những Kế Hoạch (Ngũ niên);

=>       Thực hiện một Xã hội bình đảng, không giai cấp, nên cá nhân được bao cấp tiêu thụ theo nhu cầu;
 
=>       Một cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện. Không còn tư hữu đất đai. Những đất nông nghiệp được chia ra làm hai loại canh tác: Kolkhoz và Soukhoz. Dù canh tác thuộc loại nào chăng nữa, nông dân trở thành những Công nhân (Ouvriers agricoles)

=>       Thương mại không những không được coi là sản xuất giá trị, mà còn bị coi là ăn bám sản xuất, nên bị bỏ đi. Thay vào đó, Nhà Nước tổ chức những Hợp tác xã để phân phối hàng hóa giữa sản xuất và tiêu thụ.

=>       Dưới thời Staline, Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản được phát động để mang Cách Mạng Vô sản đến những nước khác. Theo đúng chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo động của Karl Marx, Nga cung cấp vũ khí để làm bất ổn tại những Quốc gia khác để tạo cơ hội chiếm quyền hành.


Những lý do thất bại của
Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy

Năm 1989, Liên Xô và những nước chư hầu Cộng sản Đông Aâu lần lượt sụp đổ mà lý do chính yếu là đời sống Dân chúng quá đói nghèo, nghĩa là sự thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy. Thực vậy, sau khi bức tượng Bá Linh, tượng trưng phân cách giữa hai hệ thống Kinh tế, bị hạ xuống, chúng tôi đã có dịp sang Mạc Tư Khoa và chứng kiến thực sự cảnh nghèo khổ của chính dân Thủ đô của Khối Cộng sản.  Nga phải mua những hộp đồ ăn đã hết hạn của những nước Tây phương. Ngôi Nhà Hàn Lâm Viện cho những Sinh viên ưu tú trống rỗng. Những Sinh viên Việt Nam sang du học đã phá tường của những phòng của Hàn Lâm Viện để mở quán chạp phô, mở quán phở, thậm chí mở quán bán thị chó. Tôi còn giữ những hình ảnh chụp cảnh làm ăn nghèo khổ này.

Hãy thử tìm hiểu những lý do thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy này.

=>       Nỗ lực sản xuất Kinh tế không nhằm về phát triển Kinh tế, mà nhằm củng cố cho Đảng Cộng sản và Chính trị của Đảng. Khả năng phát triển Kinh tế Quốc gia đã bị tiêu dùng cho mục đích Chính trị. Trong suốt những năm sản xuất, Liên xô sản xuất vũ khí nhiều hơn việc sản xuất những hàng thường dùng của người lao động. Lấy một vài tỉ dụ hiện giờ : Trung Cộng tiêu tốn gần 50 tỉ Mỹ Kim cho sự vẻ vang Chế độ Chính trị của mình, hơn là phục vụ đời sống thực của Dân chúng; một số những xây cất ở Việt Nam cũng nhằm phục vụ cho Đảng và thể chế Chính trị, chứ không nhằm mục đích Kinh tế cho người Dân nghèo.

=>       Khi Nhà Nước nắm giữ những chi tiêu và điều hành những Tập đoàn sản xuất công, thì việc chi tiêu chắc chắn không được căn cơ cho có hiệu lực. Câu nói “Chi tiêu tiền chùa“ hay “Cha chung không ai khóc“ cho thấy thực trạng lãng phí ắt phải xẩy ra, đó là chưa kể đến chủ tâm cắt xén của chung làm của riêng. Đây là một điều tự nhiên. Câu ngạn ngữ Kinh tế tư bản:“Làm ra tiền đã khó, nhưng chi tiêu tiền bạc còn khó hơn“. Đối với Kinh tế tư bản, khi chi tiêu, đã phải tính mình thu vào bao nhiêu lợi nhuận, nghĩa là tính cuyện làm sinh lời Kinh tế thực sự trước khi bỏ một đồng ra tiêu.  Chỉ có tiền tư hữu riêng của mỗi người, thì người đó mới căn cớ tính toán để chi tiêu cho đúng.

=>       Nói về việc tiêu thụ, người lao động cũng dễ lười biếng khi thấy rằng mình cố gắng làm việc mà chỉ được hưởng đồng đều như người không chịu khó làm việc. Chính việc tư hữu những sản phẩm làm ra và được tiêu thụ là động lực kích thích sự chịu khó làm việc. Người ta nói rằng con gái Nga đẹp, nhưng thiếu nụ cười, bởi vì nụ cười của người con gái trong Kinh tế tự do có tư hữu được thưởng công, trong khi đó người con gái của Kinh tế chỉ huy có cười cả ngày cũng chỉ lĩnh được phần tiêu thụ đồng đều như người không cười. Vậy thì cười làm gì để trại quai hàm.

=>       Về sản xuất tại những Soukhoz, Kolkhoz, chính hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy cũng đã phải sửa sai. Hiệu năng nông nghiệp của Soukhoz và Kolkhoz thấp xuống, Nhà Nước đã phải cấp cho mỗi Gia đình một khoảng đất tư để trồng trọt riêng cho Gia đình. Thửa đất tư có rau cỏ mọc tươi tốt, nhưng thửa ruộng công thì cây cỏ dễ khô héo. Cũng vậy con bò tư thì to béo và nhiều sữa, nhưng con bò nhà nước thì gầy còm, chỉ nhỏ giọt sữa.

=>       Một tình trạng làm nản cố gắng sản xuất nữa, đó là những người cố gắng sản xuất, sản phẩm không những chỉ được bao cấp đồng đều mà còn bị chính cán bộ đảng không chân lấm tay bùn, có quyền chia cho mình phần lớn hơn để tiêu xài phung phí. Giảm cố gắng vì thấy người ngồi mát ăn bát vàng tham nhũng, hối lộ.

=>       Những sinh hoạt Kinh tế quốc gia Cung, Cầu được hoạch định bằng những Kế Hoạch Ngũ Niên không được chính xác vì những người làm Kế hoạch thiên về Chính trị hơn là chuyên môn Kinh tế và vì sự phù hợp giữa Cung và Cầu có tính cách sinh động cập nhật ngắn hạn chứ không cứng nhắc dài hạn.


Trở lại chủ trương hệ thống Kinh tế
Tự do và Thị trường

Sự sụp đổ của Liên xô va các nước Cộng sản Đông Au vì lý do Dân chúng quá nghèo khổ là chứng minh hùng hồn cho sự thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy. Sụp đổ rồi, những nước này chọn hệ thống Kinh tế nào ?

Việc họ quay về hệ thống Kinh tế tự do và thị trường chứng thực một lần nữa cái uy thế phát triển Kinh tế của hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường trong việc giải quyết đời sống dân chúng. Hai điều quan trọng làm nền tảng cho hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường là quyền TƯ HỮU và CHÍNH TRỊ KHÔNG ĐƯỢC CAN THIỆP TRỰC TIẾP vào sinh hoạt Kinh tế. Đó là  nền tảng phát triển Kinh tế thực sự và lâu bền.

Chúng tôi xin trích lại chính quan điểm của Karl MARX về chủ trương Hạ Tầng Cơ Sở Kinh tế là chính yếu. Trong PREFACE A LA CRITIQUE DE L’ECONOMIE POLITIQUE, Karl MARX viết: “Les rapports de procuction correspondent à un degré de développement des forces productives matérielles, cet ensemble forme la structure économique sur laquelle s’érige la superstructure juridique et politique qui détermine certaines conditions sociales.“ (Những tương quan sản xuất tương ứng với mức độ phát triển những lực lượng sản xuất vật chất, toàn bộ này tạo hệ thống kinh tế mà trên đó được xây dựng thượng tầng kiến thiết luật pháp và chính trị để định một số những điều kiện xã hội).

Câu nói của Marx phù hợp với hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường quan niệm rằng Chính trị chỉ được coi như Môi trường Chính trị-Luật pháp cho phù hợp (Environnement Politico-Juridique adéquat) với sinh hoạt Kinh tế. Như vậy, khi chọn hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường, thì không thể lấy độc đoán Chính trị để trấn át, bó buộc Hạ Tầng cơ sở Kinh tế phải tuân theo được.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 28.08.2008. Cập nhật Geneva, 20.09.2015
Facebook : Phuc Lien Nguyen
Chú thích : Một số người vì phe nhóm, đã cố tình viết lệch lạc về Lý Lịch của tôi, nên tôi xin phép cho ở đây cái Link Lý Lịch NGUYỄN PHÚC LIÊN như sau :  http://www.viettudan.net/36984/index.html



__._,_.___

Posted by: NGUYEN PHUC LIEN

Featured Post

🔥 Bản Tin Trong Ngày 13/4/2024

My Blog List