Mặc dân khốn đốn, nhà nước vẫn vung ngoại tệ mua hàng Trung Quốc
11.12.2014,
HÀ NỘI (NV) - Trong 11 tháng qua, kim ngạch xuất cảng
hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ khoảng 13.5 tỉ Mỹ kim nhưng Việt Nam
đã phải chi khoảng 40 tỉ Mỹ kim để nhập đủ thứ từ Trung Quốc.
So với cùng kỳ năm
ngoái, tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc đã tăng hơn 22%. Ðáng nói là trong 11
tháng qua, Việt Nam đã chi hàng tỉ Mỹ kim để nhập cảng từ Trung Quốc những mặt
hàng mà Việt Nam vốn không hề thiếu.
Một nông dân ở xã Ðạ Ròn, huyện Ðơn Dương, tỉnh Lâm Ðồng, mang cà chua ông trồng đổ ra đường vì không có người mua. Tình trạng này xảy ra nhiều nơi với đủ loại rau trái, trong khi Việt Nam chi khoảng 350 triệu Mỹ kim để nhập cảng rau trái của Trung Quốc. (Hình: Tuổi Trẻ) |
Chẳng hạn Việt Nam đã
chi 340 triệu Mỹ kim để nhập rau trái từ Trung Quốc, đồng thời chi thêm 400
triệu Mỹ kim để nhập cảng thủy sản từ Trung Quốc. Ðáng lưu ý là trong danh mục
hàng hóa nhập cảng từ Trung Quốc có cả... gạo, dù Việt Nam là quốc gia xuất
cảng gạo nhiều nhất thế giới. Trong 11 tháng qua, Việt Nam đã chi đến 800 triệu
Mỹ kim để nhập cảng gạo của Trung Quốc.
Cần nhắc lại rằng, trong
11 tháng vừa qua, nông dân Việt Nam tiếp tục khốn khó vì không bán được nông
sản. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng giá lúa thấp hơn giá thành vẫn xảy
ra vào thời điểm thu hoạch, thành ra thảm trạng càng được mùa càng khánh kiệt
vì tiền bán lúa không đủ bù các loại chi phí vẫn tiếp diễn. Ðể cứu nông dân,
chính quyền Việt Nam vẫn phải bỏ ra hàng ngàn tỉ nhằm trợ giá.
Tương tự, nông dân trồng
rau trái ở nhiều vùng cũng phá sản vì rau trái không có người mua. Nhiều nơi,
rau trái đành đổ bỏ hoặc cho trâu bò ăn.
Cũng trong 11 tháng vừa
qua, Việt Nam đã chi hơn 750 triệu Mỹ kim để nhập khoai mì và các sản phẩm làm
từ khoai mì của Trung Quốc. Trong khi đó, phong trào “người cày bỏ ruộng” vẫn
lan rộng tại miền Bắc và phía Bắc miền Trung của Việt Nam vì nông dân không thể
sống được nhờ trồng trọt.
Tuy nhiên, nguyên liệu,
phụ liệu do Trung Quốc sản xuất vẫn dẫn đầu trong số các mặt hàng mà Trung Quốc
xuất cảng sang Việt Nam.
Tuy năm nay là năm mà
quan hệ Việt-Trung trở thành căng thẳng chưa từng thấy kể từ khi hai bên bình
thường hóa quan hệ song kim ngạch nhập cảng hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam
vẫn tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm 2013.
Trung Quốc là đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam từ 2004, song trong quan hệ thương mại Việt-Trung,
Việt Nam luôn lãnh phần thua thiệt. Hồi trung tuần tháng 12 năm ngoái, Bộ Công
Thương Việt Nam cho biết, chỉ trong 10 năm, từ 2001 đến 2012, nhập siêu của
Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 76 lần, từ 210 triệu Mỹ kim hồi 2001, thành 16
tỷ Mỹ kim vào năm 2012 và nhập siêu càng ngày càng lớn.
Theo thống kê, từ 2010
đến nay, kim ngạch nhập cảng hàng hóa Trung Quốc chiếm từ 25%-28% tổng kim
ngạch nhập cảng hàng hóa của Việt Nam. Trong đó, 60% là hàng hóa trung gian,
20% là máy móc thiết bị và 20% còn lại là hàng tiêu dùng.
Hàng hóa trung gian của
Trung Quốc mà Việt Nam nhập cảng không phải chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp
của Trung Quốc đặt tại Việt Nam, mà còn là nguồn nguyên liệu, vật liệu, phụ
tùng giúp các doanh nghiệp của Việt Nam duy trì hoạt động.
Cũng vì vậy, các chuyên
gia kinh tế lo ngại, nếu Trung Quốc ngưng xuất cảng những nguyên liệu, vật
liệu, phụ liệu đó, hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sẽ tê
liệt. Kinh tế Việt Nam sẽ suy sụp, bởi đã bị lệ thuộc gần như hoàn toàn vào Trung
Quốc. Ðó cũng là lý do khiến nhiều chuyên gia liên tục cảnh báo rằng, Trung
Quốc có thể dùng việc cắt đứt quan hệ kinh tế-thương mại để gây áp lực chính
trị với chính quyền Việt Nam.
Bên cạnh những cảnh báo
về khả năng kinh tế suy sụp do lệ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu của
Trung Quốc, các chuyên gia kinh tế cảnh báo thêm về hiểm họa tiềm ẩn do phụ
thuộc vào công nghệ Trung Quốc khi có quá nhiều dự án, công trình tại Việt Nam
đang sử dụng công nghệ Trung Quốc.
Tuy công nghệ Trung Quốc
nổi tiếng vì lạc hậu, hoạt động không ổn định, tiêu hao nhiều nguyên liệu, vật
liệu nên sức cạnh cạnh tranh của sản phẩm thấp, chưa kể còn gây ô nhiễm môi
trường, hủy diệt môi sinh, song phần lớn dự án, công trình như nhà máy nhiệt
điện, xi măng, phân bón, bauxite,... các dự án hạ tầng liên quan cảng, đường
sắt trên cao,... tại Việt Nam vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc thực
hiện bằng công nghệ Trung Quốc.
(G.Ð)