Đèn cu huyền của Bác.
Tranh Babui.
Sự Thật cuối
cùng đến quá trễ!
Phan Nhật Nam
2014-09-19
2014-09-19
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Từ trái qua: Ông Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
ông Hoàng Quốc Việt trong căn cứ kháng chiến Việt Bắc năm 1948.
AFP
photo
Nỗ lực của hệ thống cộng sản phương Đông là tạo nên một
tính chất tôn giáo, và nguồn cảm hứng của một tôn giáo.
Albert Einstein
Đời sống không Tình Thương giống như cây không nở hoa, đơm
trái.
Khalil Gibran
Tôi biết nó!
Thằng nói câu nói đó!
Tôi biết nó!
Đồng bào miền Bắc biết nó!
Nguyễn Chí Thiện, 1968
Không có gì quý hơn Độc Lập–Tự Do.
Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa dẫu chưa hoàn chỉnh nhưng tốt đẹp gấp vạn
lần chế độ tư bản!
Trường Chinh, dịp “Thống nhất nước nhà về mặt nhà nước”,
1976.
Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô. Đánh cho Trung Quốc.
Lê Duẩn
Đường vinh quang xây xác quân thù! Thề phanh thây uống máu
quân thù!
Tiến Quân Ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa/Cộng Hòa XHCN
Việt Nam
Văn Cao, Trưởng Ban Ám Sát Thành Phố Hải Phòng, 1945
Người cộng sản phải luôn sẵn sàng trong mọi thời thế để
đấu tranh cho Sự Thật, bởi Sự Thật chính là Quyền Lợi của Nhân Dân.
Mao Trạch Đông “Về Chính Phủ Liên Hiệp” (Ngày 24 tháng 4,
1945)
Dẫn Nhập: Vào một ngày dịp Tết năm 1950 qua 1951, trong chiến khu
tả ngạn sông Hương, đứa nhỏ hỏi một cán bộ cộng sản loại cao cấp tên Nhân (chắc
chỉ là bí danh; có cây súng cá nhân nhỏ): Tại sao súng chú to vậy? Chú Nhân
đáp: Súng to dùng để bắn Tây. Vài ngày sau người trong khu khám phá xác bà mẹ
chị Trang ( người giúp việc cho gia đình đứa nhỏ) chết ngã sấp nơi bờ sông, chỗ
đứa bé và chú Nhân có đối thoại kể trên. Vừa thấy xác mẹ chị Trang, đứa nhỏ nhớ
ngay đến hai hình ảnh: Đêm đêm bà đút nước cháo cho du kích. Và ánh mắt tìm
kiếm, dò xét của chú Nhân khi loay hoay nơi bờ sông.. Nay, sáu mươi năm hơn,
trí nhớ của đứa trẻ chưa lên mười năm ấy vẫn còn nguyên độ với câu tự xác định
từ tấm bé: Chú Nhân bắn mẹ chị Trang chứ không ai hết. Chú Nhân ÁC quá!
Kể thêm câu chuyện, qua năm 1954 sau khi đã vào Đà Nẵng,
đến khu bệnh viện Đường Lê Lợi (sau 1954 sửa chữa thành Trường Nam Tiểu Học;
sau 1975, nhà nước cộng sản đổi thành Trường Trung Học Cơ Sở Phan Châu Trinh thay
thế Trường Phan Châu Trinh cũ (đối diện với trường Nam Tiểu Học) xem cuộc triển
lãm tranh ảnh của Chiến Dịch Tố Cộng.. Nhìn thấy bức ảnh ông Hồ ngồi giữa một
đám thiếu nữ với lời ghi chú “Bác Hồ dâm bôn”. Dẫu chưa hiểu đủ nghĩa
chữ “dâm bôn” nhưng
gã thiếu niên tin rằng ““Bác Hồ (quả thật) dâm bôn” vì nhìn ra nét
mặt hả hê thống khoái của ông Hồ được nhiều thiếu nữ vây quanh. Qua thập niên
60, lớn lên đi lính dịp hành quân, bản thân tìm thấy trong mật khu cộng sản
những hình ảnh ông Hồ ôm hôn trẻ con (phần đông là trẻ gái) từ trong Nam ra
Bắc...
Từ những sự kiện nầy, ý “dâm bôn” đối với Hồ Chí
Minh từ nhỏ được khẳng định/rõ hơn là ấu dâm-Hiện thực nên thành chữ nghĩa
trong Phan Nhật Nam,
Chương “Cái Chết Của Một Lãnh Tụ - Dọc Đường Số I, NXB ĐạiNgã Sàigòn, 1970. Và
sau nầy, khi đọc đến vụ việc Hồ Chí Minh thuận để bộ trưởng công an Trần Quốc
Hoàn hiếp xong giết hại cô Nông Thị Xuân, người đã thai sinh Nguyễn Tất Trung
sau thời gian dài ăn ở với ông Hồ dưới danh nghĩa “con nuôi của bác”. Với vụ
việc nầy cảm nhận từ những năm 50, 60 xa xôi kia càng trở nên hiện thực qua kết
luận: Hồ Chí Minh là biểu hiện thuần thành của Tính Dâm/Sự Ác.Nói rõ hơn: Nơi
nhân sự có tên Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Ái Quốc, Linov, Lão
Vương, Hồ Quang.. mà cuối cùng là Hồ Chí Minh thì Lực Dâm đã được chuyển hóa
nên thành Mưu Thuật/Trí Hiểm/Bản Lãnh một cách toàn diện và triệt để của Sự Ác.
Ý niệm ÁC từ 1950, 1960.. về người và chế độ cộng sản điển
hình với HCM dần được xác chứng bởi mắt thấy/tai nghe/thính giác ghi nhận/xúc giác
chạm đủ với tận mười đầu ngón tay tại những hiện trường còn mùi bom đạn/âm âm
sự chết/đầm đìa sự tàn nhẫn do người cộng sản gây nên khắp từng thước đất miền
Nam. Sự Chết với tác nhân cộng sản bày ra đủ từ vùng Châu Thổ sông Cửu Long qua
chiến khu D, vùng rừng miền Đông Nam Bộ; ở Cao Nguyên Trung Phần đầu nguồn sông
Ia Drang.. Và cụ thể với mỗi con đường, mỗi căn nhà ở Huế sau Mậu Thân
(2/1968). Điển hình hơn hết trên 9 cây số đường từ Hải Lăng đến Cầu Câu Nhi
Phường, ngày theo Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tái chiếm Quảng Trị 25 tháng 6, 1972.
Và
cuối cùng, nói sao cho đủ, viết sao cho hết với mỗi bước chân dẫm lên xác người
di tản từ Pleiku về Tuy Hòa, bắt đầu Ngày 16 Tháng 3, 1975 đề kết thúc đúng giờ
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng với thây một con trẻ nát nhầy trước Trại Tiểu
Đoàn 1 Nhảy Dù Đường Lê Văn Duyệt, đối diện Nghĩa Trang Đô Thành. Tiếp theo với
mười-bốn năm nơi những nhà tù Bắc/Nam sau 1975 thì xác chứng kể trên đã nên
thành một xác quyết không thể nào phủ nhận được - Cộng Sản/Sự Ác là Một.
Đèn Cù của Trần Đĩnh đến năm 2014 mới được in ra. Quá trễ.
Nhưng muộn còn hơn không bởi còn nhiều người, rất nhiều người vẫn tin rằng:
Người cộng sản dẫu sao cũng là người việt nam (không thể có can đảm viết hoa vì
không đủ nhẫn tâm đối với 90 Triệu Người Việt Nam hiện tại đang ở trong nước).
Bài viết sẽ được chứng minh từ, với chữ của Trần Đĩnh chứ không phải của ai
khác – Đảng viên đảng cộng sản việt nam, từ 1948, bắt đầu 1951 viết báo “Sự
Thật”. Cái gọi là “Sự Thật” đến bây giờ mới được soi tỏ bởi ánh sáng một cây
Đèn Cù – Một loại đèn với hình ảnh, ánh sáng không thật.
Một- Đảng không thật/Đảng không mạnh
Đảng không thật. Vì ngay từ lúc chưa chính thức
thành hình, năm 1925, Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh sau nầy) thử “Việt Nam
Hóa” tổ chức thanh niên cộng sản do ông thành lập qua danh xưng Việt Nam
Thanh Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội. Mưu định “Việt Nam Hóa” bị khám
phá, ông Côn bị thất sủng do nghi ngờ có tinh thần “hữu khuynh quốc gia”
đối với Ban Phương Ðông của Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1930, ông lại thêm một
lần bị chỉ trích và phê phán vì đã tự động thống nhất ba chi phái cộng
sản (Đông Dương Cộng Sản Đảng; Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn; An Nam Cộng
Sản Đảng) dưới danh xưng Việt Nam Cộng Sản Ðảng! Quốc Tế Cộng Sản cực lực
lên án sự thống nhất với danh xưng nầy vì cho đây là biểu hiện của sự phân liệt,
đặt mục tiêu quốc gia lên mục tiêu quốc tế. Cuối cùng, tổ chức cộng sản (gọi là
Việt Nam) đầu tiên phải lấy lại tên cũ: Đông Dương Cộng Sản Đảng! Quyết định
do Đại Hội Trung Ương Đảng Lần Thứ Nhất họp tại Hồng Kông (Tháng 10, 1930) căn
cứ trên nghị quyết của Quốc Tế Cộng Sản. Như thế Đảng cộng sản (gọi là)
Việt Nam sống đúng được 8 tháng từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1930.
Nhưng dẫu đã ngoan ngoãn tuân hành Quốc Tế Cộng Sản.. Tháng 12, 1945, Đảng Cộng
Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán với tờ báo đầu tiên của nó, Cờ Giải Phóng.
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác (không cõng kèm theo chủ nghĩa Lê-nin) bèn ra đời
cùng báo Sự Thật (Lại thêm một lần của nhiều vay mượn, vì “Pravda -Sự
Thật" là cơ quan ngôn luận của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Dân chủ Xã
hội Nga và Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1912 đến 1991. Sau nầy, Sự Thật/VN
được thay thế bởi Nhân Dân, số báo đầu tiên ra ngày 11 Tháng 3 năm 1951 tại chiến
khu Việt Bắc. Báo Sự Thật/Nhân Dân/CSVN giữ vai trò tương tự như báo của Liên
Xô cho đến hôm nay, Thế Kỷ 21, với tổng số phát hành 180.000 tờ/ngày. Hầu hết
người Việt, kể cả đảng viên, các cơ quan nhà nước thường dùng gói đồ, việc vệ
sinh.. Pnn) Đây là một vận động trái khoáy, ngược chiều cực kỳ hiếm mà lúc
ấy (1945-Pnn) tôi chưa biết: Vừa giành được chính quyền để nổi lên thì đảng
đảng lập tức “thoái trào”, rút vào bí mật, giấu tiếng, ẩn danh như chưa từng có
bao giờ.. (ĐC, trg 19)
Giải tán đảng, đổi tên báo không phải là việc làm tùy
tiện, nhất thời của HCM, ủy ban trung ương đảng.. Trần Đĩnh giải thích: “..Cụ
Hồ mượn tên Trần Lục (HCM luôn có thói tiếm danh/dấu tung tích (như đã một
lần với danh xưng Nguyễn Ái Quốc của nhóm Ngũ Long – Năm Người An Nam Yêu Nước
ở Paris, 1919) của Cụ Sáu, Phêrô Trần Lục (1825-1899), giáo sĩ nổi tiếng
vùng Bùi Chu, Phát Diệm) chỉ viết đến kháng chiến thắng lợi và đất nước hạnh
phúc chung chung. Ai rồ mà nói lại chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất,thủ
tiêu giai cấp? Để cho dân bỏ vào tề (Tề/Thành/T: Vùng quốc gia –Pnn). Về danh nghĩa đảng đã
giải tán hoạt động trong bóng tối che chắn của chính quyền (Chính phủ liên
hiệp/Chính phủ kháng chiến, thành hình tại Hà Nội, 2/9/45 -Pnn) do đảng nắm
chặt (ĐC- Trg 28)
Cần nhắc lại, năm 1942, Hồ Chí Minh (đang mang tên Nguyễn
Ái Quốc bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa cầm tù) và tổ chức cộng sản (Việt Nam) cũng
đã một lần buộc phải cởi lốt, mặc áo khác, trốn sau lưng một danh xưng khác.. “Theo lệnh trung ương (đảng),
Hoàng Quốc Việt đến bảo Kỳ Vân (Một đảng viên trung ương cự phách, sau nầy
phải tự vẫn vì tội “chống đảng”, cả gia đình phải chịu liên hệ. Sẽ nói lại nhân
vật kiệt liệt nầy ở chương sau-Pnn) sang Hoa Nam tham dự đại hội Việt Nam
Độc Lập Đồng Minh Hội do Quốc Dân Đảng Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch triệu tập
cuối năm 1942. Họ (Quốc Dân Đảng Trung Hoa-Pnn) muốn thống nhất các tổ
chức chính trị Việt Nam ở Hoa Nam để đánh Nhật ở trong nước.. Cũng nhờ Hồ Học
Lãm (Phe cách mạng quốc gia-Pnn) nói với Trương Phát Khuê (Một thủ
lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa-Pnn) nên cụ (NAQ/HCM-Pnn) được ra khỏi
tù cùng với Nguyễn Hải Thần (Phe cách mạng quốc gia-Pnn) về nước lãnh
đạo Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Gọi tắt Việt Minh) - ĐC; Trg 39).
Tóm lại, tất cả nguyên nhân quyết định tiên khởi để có “Cách mạng mùa Thu/Cướp chính
quyền/Tuyên ngôn độc lập đọc tại Ba Đình ngày 2/9/45” là từ đây: Nguyễn Ái
Quốc/Hồ Chí Minh được ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch do sự bảo chứng của
Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, những lãnh tụ cách mạng quốc gia đối với Quốc Dân
Đảng Trung Hoa.
Đảng không mạnh. Tháng 10, 1949 nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Hơn hai tháng sau cụ Hồ (đã là chủ tịch nước
VNDCCH từ 2/9/1945-Pnn) bí mật len qua vùng địch ở Phục Hòa, Cao Bằng đi
Trung quốc..
...Đâu biết đại thí sinh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng
tuyển thì đất nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới..
...Ông cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ,
Chu Ân Lai..
... Ông cụ kiểm thảo xong, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét, góp ý
kiến..
...
-Sao lại kiểm thảo?
-Là một chi bộ của quốc tế. Phải xin quốc tế cho nhận xét
chứ!…
Nhưng hệ lụy đã nằm sâu bến trong vô thức đảng viên cộng
sản Việt Nam: Vị trí đàn em, bên dưới, yên phận, biết ơn..
...Xuân Trường (Ủy viên trung ương đảng, thập niên 60, 70-Pnn) bác nhà
mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung
Quốc..
...Bác tự động nhận mình chỉ nêu được có tác phong, còn tư
tưởng, lý luận thì để cho Mao Chủ Tịch. Được lãnh tụ ráo riết giáo dục (?-Pnn) điều
lệ thêm câu: Lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam…
…Từ 1951, tuần nào báo Nhân Dân cũng có vài mẫu của CB
(tức cụ Hồ) phổ biến mọi mặt của Trung Quốc.. Dần dà đảng viên cộng sản Việt
Nam lại tìm ra chỗ để tự hào được làm em của hai nước vĩ đại: Liên Xô anh cả và
Trung Quốc anh hai..
(ĐC, từ trg 47-51)
Từ 1951 đã là vậy huống gì đến năm 1954 với yểm trợ của
Trung cộng từ bát ăn cơm, bánh lương khô, đến khẩu pháo kéo vào trận địa.. Nên
dẫu đã chiến thắng trong những ngày đầu Tháng 5, 1954. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp đã buộc phải đến Liễu Châu theo lệnh từ Bắc Kinh trong lúc thế nước đang
hồi quyết định để tiến hành tám lần họp trong ba ngày (3-5 Tháng 7, 1954). Cuộc
họp đưa ra quyết định trọng đại tại Hội Nghị Đình Chiến Đông Dương đang họp tại
Genève (7/1954) đối với số phận tương lai của Việt Nam dưới chủ trì của Chu Ân
Lai nhận lệnh trực tiếp từ Mao Trạch Đông.
40 năm sau, 1990 tại Thành Đô, Trung Hoa khi hệ thống đảng
cộng sản thế giới đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Với tập đoàn lãnh đạo
gồm những nhân vật thứ yếu như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười..Và dẫu có sự
tham dự của cố vấn Phạm Văn Đồng, thuộc thế hệ lãnh đạo cộng sản thứ nhất cùng
đến Thành Đô. Nhưng cố vấn Đồng cũng chỉ có mặt đề xác chứng thêm một lần thuận
nhượng Hoàng-Trường Sa qua công hàm ấn ký ngày 14 tháng 9, 1959 về quy định của
Châu Ân Lai. Vậy hỏi thử tập đoàn cầm đầu đảng cộng sản nơi Hà Nội hôm nay có
thể xoay trở được gì qua sự kiện giàn khoan HD981?
Trong suốt quá trình gần một thế kỷ (1930-2014), Đảng cộng
sản Việt Nam không hề thật/Đảng không hề mạnh/Đảng chỉ là vệ tinh của Quốc Tế Cộng
sản, nói rõ hơn thống thuộc với Đảng cộng sản Trung Hoa. Và tất cả tai họa cuối
cùng chung nhất của toàn Dân Tộc Việt Nam rộng ra với dân chúng ba nước Đông
Dương (tất nhiên bao gồm cả người/tổ chức đảng cộng Đông Dương/Đảng cộng sản
VN) không phải là vấn đề: “Mao nhều”- Chữ của Trần Đĩnh để chỉ nhóm ”thuần
Mao” nơi tòa soạn báo Nhân Dân, nhà xuất bản Sự Thật, Bộ chính trị ở Hà
Nội.. Hay là nhóm gọi là “Xét Lại” tức là thành phần “Mao
(không) nhều” mà là “Khruschev
gộc” tức là nhóm theo Liên Xô/Thuần Nga..v..v.
Những vấn đề như trên là “VẤN ĐỀ GIẢ”. Vấn đề chính là “Hồ hàm” tức là “Thuần Hồ/Từ
Hồ/Của Hồ/Với Hồ” – Đầu mối toàn bộ tai họa của Phận Mệnh Việt Nam/Đông
Dương. Tập thể “Hồ hàm”” không chỉ giới hạn nơi Hà Nội mà có mặt của Mặt trận
giải phóng Miền Nam; Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào; đảng Nhân Dân Cách Mạng Khmer
– Những sản phẩm thuần thành từ Đảng cộng sản Đông Dương/VN – Tức là của “Hồ
hàm” chứ không thể của ai khác. Đây là nội dung của những phần kế tiếp mà
bản thân phải nói cho đến tận cùng khi Viết với Tính Thật của hôm nay 2/9/2014
thay thế Lịch Sử bị đánh tráo từ 2/9/1945 khi đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Bởi, chỉ mấy chục trang sách từ 19 đến 51 thôi mà Trần
Đĩnh phải đợi hết một đời người mới viết được viết nên!
Hai- Thuần Hồ/ Của Hồ/Với Hồ
Quả thật Đảng cộng sản Việt Nam không phải hên may mà đoạt
thắng suốt lịch sử dài từ 1945, 1954, 1968, 1972, 1975... nhưng bởi đã tập họp
đủ các điều kiện thuận tiện, vận động thời cơ đúng lúc, lợi dụng được tình thế..
do những sơ hở, nhầm lẫn của lịch sử luôn lập lại. Những nhầm lẫn khách quan và
chủ quan của thế trận quốc tế, nơi khu vực Đông Nam Á đưa tới để thực hiện
“Cách mạng Tháng 8 năm 1945”; những lổ hổng (có dự tính của các bên đàm phán)
của Hiệp Ước Đình Chiến Đông Dương 1954; những mù mờ (rất nhiều tính toán của
các bên giữ phần quyết định) khi ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình Tại Việt Nam
1973.. Những nhầm lẫn, dự mưu, tính toán từ nhiều thế hệ lãnh đạo mang đủ quốc
tịch Mỹ, Hoa, Nga, Anh, Pháp..Những nhân sự khôn ngoan, trí hiểm nói lên lời và
thực hiện đủ sách lược: “Trong
chính trị không có kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích (quốc gia của mỗi bên) là
không thay đổi.. “ Đây là những người không hề kể đến mối đau VN, vì “Việt
Nam Cộng Hòa” hay “Việt Nam Cộng Sản” không là mối quan tâm của họ như trong
lần Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger bàn tính với Thủ tướng Châu Ân Lai ở năm 1972
về cục diện Đông Nam Á, thế trận toàn cầu. Và cuối cùng, nhân vật tên gọi
Nguyển Tất Thành, Nguyễn Sinh Côn, Linov, Thầu Chín, Lão Vương, Hồ Quang,
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh và những kẻ phụ tá, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Giáp,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ… cùng một tập thể gồm những cá nhân thuộc tổ chức
đảng cộng sản – Tập thể tuy gọi là người Việt nầy nhưng suy nghĩ, hành động
theo chỉ đạo của tổ chức cộng sản quốc tế, cụ thể những nghị quyết xuất phát từ
Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh.
Kể từ Hội Nghị Thành Đô 1990 Bắc Kinh chiếm giữ độc quyền
chỉ đạo Hà Nội, sau khi đảng và nhà nước cộng sản Liên Xô tan rã, 1991. Đồng thời
trong quá trình tuân phục tổ chức quốc tế cộng sản, giới cầm quyền đảng, nhà
nước cộng sản VN luôn áp dụng một phương cách, phương tiện, điều kiện,hoàn cảnh
riêng để thực hiện cho bằng được mục tiêu: “Bao nhiêu lợi quyền tất
qua tay mình. Đấu tranh này là trận cuối cùng. Kết đoàn lại để ngày mai.. Sẽ là
xã hội tương lai..” như bài hát Quốc Tế Ca kêu gọi thúc dục.
Chỉ khác, nội
dung bài hát được sáng tác năm 1870 từ lời thơ viết bởi trái tim cao thượng của
Eugène Pottier (1816–1887), sau được Pierre Degeyter (1848–1932) phổ thành khúc
ca hùng tráng thì quyền lợi hôm nay không vào tay của giai cấp công
nhân-nông dân như lời tuyên truyền khuyến dụ của Karl Marx, Lenin, Stalin,
Fidel Castro, Kim Nhật Thành, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh khi khởi nghiệp
bạo loạn, cướp chính quyền. Trái lại, hai giai cấp tiền phong nầy trở thành thành
phần cùng khổ, đọa đày nhất với thực tế suốt một thế kỷ vừa qua và hiện
nay. Công nhân, nhất là nông dân chiếm số lượng lớn trong tổng số 100 triệu
người bị giết bởi những chế độ cộng sản Đông- Tây.
Và giai cấp gọi là “vô
sản chuyên chính cầm quyền” trở thành một loại “tư bản đỏ/thái tử đảng”
– Hội đủ toàn phần những tính chất “tàn bạo/bóc lột/phản
động/lạc hậu/độc đoán/tham lam/ích kỷ..” của tất cả những chế độ, cá nhân
độc tài cầm quyền mà lịch sử nhân loại hẳng chứng kiến. Tập đoàn những cá
nhân - gia tộc-phườnghội-bè đảng hiện đang ở Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng,
La Havana.. Putin, kẻ cầm quyền hiện tại nơi nước Nga cũng là một sản
phẩm của thứ loại cầm quyền nầy chứ không thể ai khác. Chúng ta hãy xem người
cộng sản VN đoạt quyền/thu lợi/chiếm giữ vị thế như thế nào.
Cần nhắc lại sự kiện, được sự đồng ý của Quốc Tế Cộng Sản,
Tháng 12, 1945, Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương, tức tiền thân
của đảng cộng sản VN. Đồng thời tuyên bố kết thúc tờ báo đầu tiên của đảng, báo
Cờ Giải Phóng. Tiếp theo, đảng (đã rút vào bí mật) cho ra báo Sự Thật,
tiếp là Nhân Dân để thay thế. Đây là tờ báo mà Trần Đĩnh hãnh diện kể lại là
một trong ba người biên tập đầu tiên, lúc mới qua tuổi 20 (TĐ sinh năm 1930).
Mối hãnh diện mà nay viết lại sau hơn nửa thế kỷ vẫn còn nguyên cảm xúc “..Cái
gì còn lại của bài học Tổng bí thư (Trường Chinh) trực tiếp buổi ngu ngơ nhập
môn… Tinh thần được nhìn, phê phán, xây dựng y như Tổng bí thư “ (ĐC, trg 23).
Báo Sự Thật hay báo Nhân Dân thay thế sau nầy giữ vai trò quan trọng tương tự
như các báo chính thức của đảng cộng sản Liên Xô, Trung Cộng cho đến hôm nay, Thế
Kỷ 21.
Báo Nhân Dân với ba thành viên cốt cán đầu tiên gồm Trường
Chinh, Hoàng Tùng, Trần Đĩnh còn có một cây bút ần danh khác.. “Có lẽ để phối hợp với bài
báo của tôi (TĐ), CB (bí danh của Bác Hồ) gởi đến bài “Địa chủ ác ghê” có
nội dung: Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địac chủ thì ác: như
bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoa –thế thôi. Nào ngờ có
bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ: Mụ địa chủ
Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã kể các tội cụ thể và con số
cụ thể (ĐC, trg 85).
Trần Đĩnh đã kể lại chính xác hành vi, bút phê, chữ ký của HCM khi quyết định
giết bà Nguyễn Thị Năm (Cát-Hanh-Long),
là người chủ gia đình đã đón bản thân HCM và đám cán bộ trung ương Việt Minh
cộng sản về trú ngụ tại nhà bà ở Hà Nội trong những ngày tháng 8, tháng 9, 1945
trước khi Hồ khai sinh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2 Tháng 9, 1945.
Bà Nguyễn Thị Năm không phải “được chết oan” một cách yên
lành nhưng với cảnh kinh hoàng.. “Khi du kích đến đưa bà đi,
bà ta đã cảm thấy như có sự gì nên cứ van lạy “các anh làm gì thì bảo em trước
để em còn tụng kinh..” Bà ta vừa quay người thì mấy loạt đạn tiểu liê nổ sát
lưng.. Mua áo áo quan được thì không cho bà ta vào lọt.
Du kích mấy người bèn
đặt bà ta lên miện cổ áo quan rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “chết rồi còn ngoan
cố này..” Nghe xương kêu răng rắc.. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ
như con rối vậy..” (ĐC, trg 86). Bà Nguyễn Thị Năm không bị thanh
toán một mình, con bà.. “Chính
Ủy Công, Trung đoàn pháo 105 ly đang học ở Côn Minh, Trung Quốc (Bài báo trên
của CB (bác Hồ) có nhắc đến trường hợp Chính Ủy Công) bị điệu về cùng mẹ chịu
đấu tố, nhưng “nghe nói” không được chứng kiến vụ chôn cất mẹ (Theo cách
man rợ kể trên –pnn)” (
ĐC trg 86) .
Sợ rằng viết như thế chưa trình bày đủ khả năng/quyền
giết người của HCM, Trần Đĩnh viết rõ hơn.. ”Sở dĩ báo chí báo chí không
dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội vài chục cây số đường chim
bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường
chinh thì đeo kính râm suốt”. (ĐC, trg 84)
Giết bà Nguyễn Thị Năm, (Ân nhân lớn của đảng nhà nước
cộng sản khi đang trong hoạt động bí mật) không phải chỉ do hành vi đơn lẻ của
một đội cải cách ruộng đất, nhưng là một sách lược chung được chỉ đạo nhất quán
từ quyền giết người của HCM.. “Tôi (TĐ) đọc lại danh sách
những người bị tuyên án tử hình do các đoàn ủy thí điểm giảm tô trong Thanh-Nghệ
gửi lên Cụ Hồ đề duyệt ân xá. Mỗi bản gồm tên bảy tám con người khốn khổ” (ĐC,
trg 90). Nhưng HCM thật ra cũng chỉ là kẻ thi hành vì: “Hoàng Tùng (Biên tập/Tổng
biên tập Nhân Dân (1951-1982); Ủy viên BCH/TUĐ (1976-82) -pnn) hồi ký: “..Mùa hè năm 1952
Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải cải cách ruộng đất.
Sau thấy không thể từ chối được nữa Bác mới quyết định phải thực hiện… Họ muốn
qua cải cách ruộng đất để “chỉnh đốn” lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành
cải cách ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm” (Trích đăng từ hối ký Hoàng Tùng
“Vài chuyện về Bác Hồ với Trung quốc –Pnn). “Trung quốc đã rắp tâm
đưa đảng cộng sản VN vào qũy đạo của Trung quốc như bóng với hình” (ĐC, trg
95).
Cuối cùng, sợ rằng viết rõ như trên sẽ làm sứt mẻ đến “uy
tín, đạo đức của bác Hồ”, Trần Đĩnh biện hộ mập mờ quanh quẩn: “Trong hồi ký nói về mười nỗi
buồn của Bác Hồ, viết bác không tán thành đấu Nguyễn Thị Năm” (ĐC, 85).
Đến đây chúng ta có thể kết luận không sợ sai lầm: Chính
Hồ Chí Minh chứ không ai khác là tác nhân xây dựng/lãnh đạo/điều hành toàn diện
các kế hoạch của đảng cộng sản VN từ ngày thành hình 1930 qua các giai đoạn cao
trào cũng như thoái trào của tổ chức chính trị bạo lực nầy. Tiến trình nầy hiện
thực cụ thể trong chiến dịch cải cách ruộng đất khởi động từ 1953 đến năm 1956
như trên đã đề cập với những nhân sự điển hình: “Phá đảng lừng danh quân
Đặng Thí. Giết người khét tiếng gã Chu Biên” (ĐC, trg 111).
Những tên sát
nhân thành danh nầy không hề bị trừng phạt, trái lại được tưởng thưởng do công
lao xây dựng chế độ với thành tích: “Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách
ruộng đất Nghệ-Tĩnh, bắt ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chấp tay
đứng dưới sân gằn giọng..Tao với mi khôn mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp
của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi.. Chu Biên được đề bạt thứ trưởng nông
nghiệp do“nhiệt tình cách mạng”. (ĐC trg 111) Và Đặng Thí được đề cử vào
BCH/TUĐ khóa 1967-1982 cùng với Hoàng Tùng, đồng nghiệp, đồng chí thân thiết
của Trần Đĩnh trong ban biên tập báo Nhân Dân từ 1951.
Thế nên những giọt nước mắt của HCM trong lần khóc lóc
nhận lỗi trước dân chúng miền Bắc vào ngày 18 tháng 8 năm 1956 không đủ đề xóa
mờ tội ác đối với những người chỉ sở hữu 0,65 hécta đất! Hitler, Himmler
thậm chí đến Rudolf Höss, chỉ huy trưởng trại hành quyết Auschwitz không hề bóp
cò súng hay bấm nút lò hơi ngạt để giết một ai, nhưng đích thực là những thủ
phạm tội ác diệt chủng 6 triệu người Do Thái.
Cũng thế, Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn.. tất cả tập đoàn bộ chính trị đảng
cộng sản Việt Nam là thủ phạm lần tàn sát tập thể dân chúng Việt Nam một cách
có hệ thống kể từ ngày đảng cộng sản thành lập. Qúa trình tàn sát được thực
hiện qua những cao điểm: Cải cách ruộng đất 1953-1956 ở Miền Bắc; Mậu Thân Huế,
1968; Đại Lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị 1972.. Và mỗi thước đất, mỗi làng xóm, thị
trấn, thành phố của miền Nam dài theo chiến dịch Hồ Chí Minh khởi đi từ 10 tháng
3, 1975 với cuộc tấn công Ban Mê Thuộc. “Tội Ác-Đảng Cộng Sản” không
ngừng lại tại Ngày 30 Tháng Tư, 1975 với 600.000 người Việt chết trên
đường vượt biên, vượt biển bởi kế hoạch “công an tổ chức vượt biên/cộng an
bán bãi vượt biên/công an tàn sát vượt biên”. Tội ác diệt chủng nầy được
thực hiện bởi một “sợi chỉ hồng xuyên suốt”: Hồ Chí Minh.
Và tội ác có hệ thống/được chỉ đạo kể trên được lập
lại với hình thức và đối tượng thụ nạn khác trong đợt “Cải Cách Công Thương
Nghiệp miền Bắc” tại hai năm 1958-1960. Đây cũng là tiền đề “Chiến dịch
cướp giật cấp nhà nước” đối với miền Nam sau khi đợt tiến công quân
sự/Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc tại Ngày 30 Tháng 4, 1975.
Và hiện tại là
bước cuối cùng – Chiếm đoạt Quyền Sống của 90 triệu người dân Việt -Toàn khối
dân chúng bị xóa bỏ quyền sở hữu đất đai trên khu đất, nhà ở từ trăm năm
trước do tổ tiên để lại. Tất cả tội ác hôm nay chỉ là hệ quả tất yếu sau lần
đoạt chiếm Miền Nam với cuộc xâm lăng ngụy danh chiến tranh giải phóng (1960-1975).
Cuộc chiến mà Trần Đĩnh đã tích cực hãnh diện dự phần nay cố tâm làm nhẹ tội
đối với Hồ Chí Minh, Trường Chinh - Những người Trần Đĩnh vẫn còn “nặng tình”
khi viết Đèn Cù gần 40 năm sau lần đoạt chiếm miền Nam cho dẫu có lúc ông nói
thật: “Bởi vì gần suốt cuộc đời viết, lách tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn
phá trước hết vào chính ngay mình”.
Trần Đĩnh nói thật nhưng chưa đủ. Phải nói như Nguyễn Chí
Thiện: “Tôi biết nó! Thằng nói câu nói đó! Tôi biết nó! Đồng bào miền Bắc
biết nó! “ Lời buộc tội phải tuyên cáo cùng thế giới, với dân tộc cụ thể
sau Mậu Thân, 1968 khi Hồ Chí Minh ban lệnh tiến công giết dân miền Nam: “Xuân Nầy hơn hẳn mấy Xuân
qua. Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà . Nam Bắc thi đua diệt giặc Mỹ. Tiến lên
toàn thắng ắt về ta!” Trần Đĩnh không nói lên lời “PHẢI NÓI” nầy,
ông khôn khéo chạy tội cho Hồ: “Luận điểm của Lê Duẩn..
Cho là cụ Hồ đứt
gánh giữa đưởng! Ở Đại Hội 3 (9/1960- Pnn) để những người gắn bó với Nam
Bộ, Trung Bộ như Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng..v.v vào Bộ Chính
Trị đông là Cụ (luôn được TĐ viết hoa – Pnn) muốn bày tỏ ý gửi gắm công
cuộc giải phóng miền Nam cho họ… Phải nhận là từ tuyên bố Hồ-Notvotny (?) đến
việc không biểu quyết ở Hội Nghị 9 (Hội nghị trung ương đảng 9 quyết định
đánh miền Nam bằng vũ lực, 1960 – Pnn), Ông Cụ nhất quán về quan điểm (Quan
điểm “Chung Sống Hòa Bình của Khruschev/Không gây chiến tranh miền Nam (?!) –
pnn) (ĐC, Trg 253)
Bắt đầu viết năm từ 1990 để năm 2014 có được những giòng
chữ “khôn ngoan/sáng suốt/thành thực” như trên kể ra quá muộn và quá nhẹ
đối với “Tội Diệt Chủng/Hồ Chí Minh – Tội ác thấm máu chính ông
già vợ của Trần Đĩnh và bao nhiêu nước mắt, mạng sống từ thân tộc, đồng bào của
ông – Nhà văn Trần Đĩnh.
Ba – Mao “nhều”/Mao “ít”
Sau thời gian viết loạt bài Một và Hai về cuốn Đèn Cù.
Người viết phải tạm ngừng vì lần ra đi của Người Bạn Nguyễn Xuân Hoàng - Nhân
dáng điển hình Kẻ Sĩ Miền Nam trước, sau 1975 ở trong nước, nơi hải ngoại. Người
Bạn không lớn vì văn nghiệp-Văn nghiệp là gì khi con người đối diện cánh cửa
tử/sinh với cơn đau cào xé từng tế bào nhỏ bị nhiễm độc?! Người Bạn cũng không
lớn do quá trình đã đào tạo những thế hệ môn sinh, cao đồ lẫy lừng danh tính.
Không, Bạn Chúng Ta – Nguyễn Xuân Hoàng là điển hình mẫu mực của Những Thế
Hệ/Một Thế Hệ/Kẻ Sĩ Miền Nam.
Thế hệ với những con người bình thường dạy
học/viết văn/làm báo với một tấm lòng chân thực trong giai đoạn
1954-1975 ở trong nước, và sau ra hải ngoại khi đã gánh chịu đủ tháng năm dài
tù ngục không án lệnh/không tội danh từ chế độ gọi là xã hội chủ nghĩa. Một chế
độ mà hiện nay được cuốn Đèn Cù của Trần Đỉnh đốt lên một phần ánh sáng chiếu
rọi. Nhưng thật ra chỉ là ánh sáng nhập nhằng lẫn quẩn của một cây đèn cù xoay
quanh một trục Sự Thật Giả. Cũng vô tình, lần ra đi của Nhà Giáo/Nhà
Văn/Nhà Báo Nguyễn Xuân Hoàng làm rõ ràng, chính xác thêm khi so sánh Thật/Giả-
Nam/Bắc. Chúng tôi tiếp tục chứng minh.
Với lối hành văn của một người viết báo, viết sách chuyên
nghiệp từ 1951, Trần Đĩnh dựng nên thế giới bát nháo xoay vòng như cây Đèn Cù
của xã hội tệ hại, ác độc từ miền Bắc nói chung, của tập đoàn cầm quyền, giới
viết văn làm báo Hà Nội trước 1975, của cả nước sau 1975. Đấy là lối hành văn
tuyên truyền chính trị dùng để viết báo Nhân Dân cơ quan ngôn luận trung ương
đảng cộng sản; lối viết sách hô hào chiến đấu gọi là chống thực dân Pháp trước
1954 (cuốn Bất Khuất/Trần Đỉnh (?)); những chữ nghĩa gọi là chống đế quốc
Mỹ trước 1975; chống Ngụy Quân-Ngụy Quyền kể cả sau ngày 30 tháng 4,
1975. Loại sách, báo có lời văn và nội dung sau nầy được những “liệt sĩ” Đặng
Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc..lấy làm khuôn mẫu viết nên những lời khí thế:
“Thằng Mỹ như thế nào?Tôi muốn đâm lưỡi dao vào trái tim đen đúa của nó.. Nguyễn
Văn Thạc. Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi. NXB Thanh Niên, VN, 2005”.
Tuy nhiên khác hơn đám văn công máu me được khai sinh từ
Hội Nhà Văn Hà Nội/Hội Nhà Văn Việt Nam sau 1975, Trần Đĩnh cao hơn vì ông được
dẫn dắt vào nghề viết bởi Tổng Bí Thư Trường Chinh, Đặng Xuân Khu, tay lý luận
hàng đầu của đảng cộng sản Việt Nam. Tổng bí thư TC “giáo dục” anh thanh
niên 21 tuổi Trần Đĩnh: “Làm báo phải phát hiện vấn đề. Đề xuất ý kiến..
Trường Chinh cầm bút giập đi chữ “nhật” thừa (Của bài xã luận có tiêu đề
“Nhân ngày sinh nhật của Hồ Chủ Tịch”-Pnn ) rồi kéo từ đó ra ngoài lề bằng một
đường thẳng mà anh cho tận cùng bằng một ốc sên, nói.. Chữ tắt nầy là chữ “d”
của deleitur, tiếng La-tinh có nghĩa là xóa… Còn gì của bài học Tổng bí
thư trực tiếp dạy tôi buổi ngu ngơ nhập môn? Tinh thần không sùng bái, tinh
thần được nhìn, phê phán xây dựng y như Tổng bí thư.. ĐC, Trg 23)
Trời đất! Cho phép chúng tôi được kể ra một so
sánh.. Bài học nhập môn của Tổng bí thư Trường Chinh dạy nhà văn/nhà báo trụ
cột Trần Đĩnh là việc làm hằng ngày của thợ sắp chữ (thường lả trẻ vị
thành niên) và giới thầy cò của các báo và nhà sách ở Sài gòn, nơi Miền Nam
trước 1975. Hoạt động nầy được xem như một nghề thủ công/sửa bản vỗ cho nhà in
trước khi đem đi đăng báo, in thành sách. Đám trẻ thợ sắp chữ và giới thầy cò
Sàigòn không hề cần đến một ông thầy gọi là tổng bí thư đảng cộng sản.
Trở lại với Trần Đĩnh, từ buổi đầu “ngu ngơ” (chữ của
TĐ), ông tiến nhanh trên nghiệp vụ, trở nên là người thân cận (thân cận
nhất) của tập thể nhân sự cầm đầu đảng cộng sản.. Ông nghe tận tai lời của Trường
Chinh (Nhân vật “ấn tượng” của TĐ suốt một đời dài cho dến hôm nay) nói về sinh
hoạt tính dục của bản thân “.. thì cũng dặn sách vở giáo điều thế thôi, chứ
tôi ấy, mai bà Minh đây (chỉ bà vợ) đẻ, tối nay tôi vẫn jusqu’au bout -
đến cùng..” (ĐC, trg 26).
Ông được chứng kiến và nghe kể trực tiếp từ người
trong cuộc: “ Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm
hơn, An nói: À cái P.M. (Phương Mai) tự nhiên mang ba lô chăn chiếu đến chỗ Ông
Cụ, tớ được xua về sớm..” (ĐC trg 30) . Trần Đĩnh còn đem chuyện riêng tư ăn
nằm với phụ nữ của Hồ Chí Minh ra kể lại công khai để bảo đảm tính cách thân
thích/chính xác đối với lãnh tụ “..Ông Bác chỉ tìm nạ dòng. “Sao lại thế”.
Thấy Bác dại chúng tôi kêu lên. Thì được giải thích. “Thế là Bác khôn. Nạ dòng
thì đỡ rầy rà hậu sự” (ĐC Trg32) .
Những chuyện “ bí mật/phòng the” của Hồ Chí
Minh, Trường Chinh dẫu đã được Trần Đĩnh trình bày dưới những góc cạnh “thật thà”
như trên vẫn chưa đủ để dựng nên cảnh tượng trân tráo của “đèn cù cộng sản Hà
Nội”. Trần Đĩnh gắn thêm những con rối khác: Trước tiên là Tố Hữu, đệ nhất văn
công của chế độ.
Đây là nhân sự nhờ đã viết những vần thơ rừng rực “thi
khí” (Mượn chữ “văn khí” từ Ngô Nhân Dụng/Báo Người Việt khi tán
tụng Trần Đĩnh) nên đã lên chức phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (phó thủ
tướng) đảm trách nông nghiệp khiến dẫn đến tình cảnh cả nước gần chết đói
sau 1975 khi đã tịch thu hết lúa gạo miền Nam trả nợ cho Tàu.
Tố Hữu bị mất uy
tín vì vai trò "nhà (làm) thơ (lại) đi làm kinh tế (trật)" qua
những vụ khủng hoảng tiền tệ (1985), cải cách nông nghiệp (1981) nên bị miễn
nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một chức nghiên cứu hình thức hờ. Tuy nhiên “thi
khí” của Tố Hữu vẫn luôn luôn “cực kỳ” với những chữ/nghĩa mà Trần Đĩnh trong
nhiều trang sách không dấu sự ghen ghét/ganh tỵ nên liệt Tố Hữu vào loại “Mao
nhều” nặng nề nhất (sẽ nói rõ thêm về “Mao nhều” ở đoạn sau).
Năm 1953, Tố Hữu khi chưa là “Mao nhều” đã có màn kêu
khóc: “Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi! Thương cha, thương mẹ, thương chồng.
Thương mình thương một. Thương ông thương mười! “ để ngợi ca tên sát nhân
thấm máu 20 triệu dân Nga và các sắc dân thuộc Liên Bang Sô Viết chết. Tố Hữu
không khóc một mình, y có “đồng chí/bác vĩ đại” đồng tế: “..Một tối kẻng
thình lình gọi toàn thể lên hội trường.. Thì Tố Hữu ủ rũ đi vào theo sau là cụ
Hồ. tôi bỏ chỗ leo ngồi đàng sau lưng ông Cụ.. Tố Hữu bước lên sân khấu, cầm đè
lên hai tay bưng một vật gì ấp vào ngực.. Tố Hữu mới từ từ quay lại nước mắt
chan hòa trên mặt từ lúc nào. Trên phông màn đò hiện nên chân dung đại nguyên soái
Stalin.. Tôi thấy bàng hoàng hơn là đau buồn.. Tôi vẫn bị khó chịu vì cái cảnh
“đánh đố loài người” của Tố Hũu. Ông ấy hình như tranh hơn thiên hạ (cụ
thể là hơn “tôi” đang ngồi sau lưng Cụ! TĐ) cả ở chỗ được biết
sớm hơn hung tin, do đó được ưu tiên đau xót trước (Tội nặng hơn nữa là
trước cả ”tôi” đang ngồi sau lưng Cụ! TĐ). Trước mặt tôi. Cụ Hồ nức nở.
Không ngừng đưa khăn tay màu trắng lên lau nước mắt. Và nước mắt thì cứ chảy
trên hai má Cụ đỏ bóng, vì khóc, vì xúc động. (ĐC, trg 73-74).
Mấy năm sau, “thi khí” của Tố Hữu (khi đã bắt đầu thành
Mao “nhều”) vượt biên giới Xô Viết, chuyển qua Trung cộng với: “Mao Trạch
Đông! Mao Trạch Đông! Tôi đã thấy: Dáng người cao lồng lộng. Đẹp như một ngọn
cờ hồng. Trên mặt người. Mặt đất mênh mông.” Hoặc: “Bác Mao tuy ở rất
xa. Bác Hổ ta đó ấy là Bác Mao”. Hay:“Bên đây biên giới là nhà. Bên kia
biên giới cũng là quê hương”(ĐC, trg 233). Thơ như thế quả thật rất xứng
đáng với thành tích giết 50 triệu người Hoa (Có thể cao hơn nữa, tài liệu của
nhà nghiên cứu Trung Hoa, Stuart Schram nêu ra con số 70 triệu –Pnn).
Tệ hại
hơn, Tố Hữu được Trần Đĩnh mô tả dưới dạng tướng, tầm tầm, vụn vặt ”..Tố Hữu
một trưa dậy ra suối giặt quần đùi .. Ca cẩm với Kim Lân.. Xuân Diệu nó mó máy
mà tuột bu nó mất xích, mệt quá! Mà hai hôm nay lại ăn toàn cơm với măng (ĐC,
Trg 32). Hoặc cảnh ăn thịt chó của những tay đầu sõ, lẽ tất nhiên có mặt
Trần Đĩnh vì bữa thịt chó là do tiền ăn mừng thành tích viết xong tiểu sử Hồ
Chí Minh mà Trần Đĩnh được đến 400 đồng trong tổng số 900 đồng nhuận bút (Vàng
16 Đồng/Một chỉ) “..Mừng tiểu sử chính thức của Hồ Chủ tịch ra đời, Tố Hữu
khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà.. Tố Hữu còn mời Nguyễn Chí Thanh
(Thao) và Hoàng Tùng (Tổng biên tập lâu nhất của báo Nhân Dân (1954-1982);
Tùng cũng là một “Mao nhều” được TĐĩnh “luộc” rất kỹ. Dẫu Tùng là đồng
nghiệp/đồng sự với Đĩnh từ 1951-Pnn). (ĐC, trg172). Bữa tiệc thịt
chó được mô tả sống động qua những trao đổi thủ thỉ ân tình “..Thao Thao
(NcThanh) đưa Lành (Tố Hữu) chai dấm.. Lành, Lành đưa Thao chai vang.. (ĐC, trg
173).
Cũng bởi Thanh là đối thủ của Giáp (gốc cộng sản
Bắc Kỳ, có học đại học, cánh của TĐĩnh -Pnn) nên bị Đĩnh khinh thường xếp vào
loại “Mao nhều” với những đặc chất: “.. Thao (NCThanh) đã luận thuyết hào
hứng về thiên tài bếp núp dân tộc- đã thịt chó thì nhất định phải thằng bún đi
với thằng mắm tôm.. Về chính trị, Thanh nghe Bắc Kinh nồng nhiệt hơn Giáp. Và
ít ra lý lịch (của Thanh) không dính đến đại học.“ (ĐC, trg
173) . Nhưng Nguyễn Chí Thanh (ông tướng nông dân/chỉ thiếu chữ “vô
học”- Cách TĐ gọi NcThanh- Pnn) ngoài khả năng uống sâm banh Moet & Chandon,
ăn thịt chó,
Thanh còn có những khả năng đa dạng khác.. Với những chức vụ quan
trọng như Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội miền Bắc (1950); Bí thư Trung
ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam (1965-1967) (bị thanh
toán, không rõ nguyên nhân và thủ phạm, ngày 6 tháng 7, 1967 tại Hà Nội)..
Viên tướng gốc nông dân nầy phát động chiến dịch : “..Đánh phá ác liệt tiểu
thuyết “Phá Vây” của Phù Thăng vì có câu: “Hòa bình là nguyện ước của vạn vạn
con người” rồi tiểu thuyết “Vào Đời” của nhà văn quân đội Hà Minh Tuân..” (ĐC,
trg 234-235). Không chỉ chỉ đạo sâu sắc trong mặt trận văn hóa/tư tưởng,
nhân vật được mệnh danh “con người của những đột phá”, mang quân hàm đại
tướng, Nguyễn Chí Thanh còn nâng cao khả năng lãnh đạo/nhận thức lên một tầm
vóc mới: “Năm 1963, Nguyễn Chí Thanh có bài đăng trang nhất của báo
Nhân Dân (Nhắc lại, Thanh là “ông tướng nông dân” theo cách đánh giá của
TĐ, nói trắng ra là đồ “vô học”- Pnn) kêu gọi tiết kiệm lương thực.. Biện
pháp duy nhất là bóp miệng lại. Thanh nay liệt bún vào bảng xa xỉ phẩm. Viết
hẳn: Tại sao phải ăn bún!! (ĐC, trg 235). Cũng nên nhắc lại: Khi ăn thịt
chó nhà Tố Hũu, chính Thanh đã một lần hùng hồn ca ngợi: “.. Thao (NCThanh)
đã luận thuyết hào hứng về thiên tài bếp núp dân tộc- đã thịt chó thì nhất định
phải thằng bún đi với thằng mắm tôm..“ (ĐC, trg 173).
Tóm lại theo quan điểm chính trị sáng tạo của viên đại tướng quân đội nhân dân
thì “thằng bún” đã tiếp tay cho Mỹ-Ngụy, là thủ phạm phá hoại nền kinh
tế xã hộ chủ nghĩa! Tại sao Tướng Thanh mắc phải quan điểm tả khuynh sai trái
như vậy? Trần Đĩnh gom chung vào một bọc – Bọn “Mao nhều” – Thủ phạm
chính của bi kịch Việt Nam!
Sự sáng suốt của Trần Đĩnh sau nầy được Như Phong “Là
cựu Văn Hóa Cứu Quốc nhưng nay cũng đang ở danh sách, những người mê Mao, sùng
bái Mao, Mao “nhều”.. Cuối những năm 70, chính anh đã bảo tôi: Mầy
nhìn rõ lão Mao rất đúng và rất sớm (ĐC, trg 235).
Đến đây, chúng ta có thể kết luận về “Phát hiện Mao
nhều/Trụ cột của Đèn Cù ” của Trần Đĩnh và những tác động hậu quả, hệ quả
của nó tại ngày trước và hôm nay.
Kết Luận: Đèn Cù- Bi kịch của một cọng lông trong bãi máu!
Sau ba bài viết căn cứ từ chữ nghĩa của Trần Đĩnh (Của
chính Trần Đĩnh viết về mình và về người).. Người viết có thể khẳng định
với lương tâm/lương tri/lương năng của một người đã đi trọn con đường khổ
nạn/Cùng về một phía những người khổ nạn - Tử khi khởi đầu câu chuyện/Cũng là
thời điểm (Thập niên 50) Trần Đĩnh bắt đầu viết báo Nhân Dân do dẫn dắt của
Tổng Bí thư Trường Chinh. Người viết xác định thêm một lần: Viết từ phía của Nạn
Nhân Cộng Sản. Và Trần Đĩnh (Cho đến năm 2014 nầy/Năm phát hành cuốn
sách) vẫn luôn luôn là một Người Cộng Sản/Người Cộng Sản Phản Tỉnh (nếu muốn
nói rõ hơn) – Tức là nhân tố của tập thể /tổ chức chính trị bạo lực gọi là
Đảng Cộng Sản Việt Nam – Tác nhân chính đã gây nên tai họa vô tận/không cùng/không
thể chấm dứt/không cách giài quyết của toàn bộ Việt Nam (Không phân biệt Cộng
Hòa/Cộng Sản; Bắc/Nam; Trước/Sau 1945; 1954; 1968; 1975 ). Người viết minh
chứng điều xác quyết nầy.
Từ tiền đề kể trên, những phát hiện gọi là “Mao Nhều/Mao
nhuần/Mao thuần..” của Trần Đĩnh trãi dài trong nhiều trang sách đối với Tố
Hữu, hoặc đám ủy viên trung ương giữ chức tổng biên tập Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn
luận trung ương đảng cộng sản từ 1951 như Trần Quang Huy ; Vũ Tuân; Hoàng Tùng;
Hồng Hà; Hà Đăng ; Hữu Thọ; Hồng Vinh; Đinh Thế Huynh; cho đến tên tuổi
mới nổi từ 2011 là Thuận Hữu, một nhà thơ không ai đọc, một tác giả không ai
biết..vv. Những công thần/thợ viết báo (đảng) nên danh phận nầy góp một mẫu số
chung về tính chất “Mao nhều” chất nặng.
“Mao nhều” của Trần Đĩnh cũng không loại bỏ Nguyễn Chí
Thanh, viên đại tướng có khả năng uống champagne và ăn thịt chó; viên đại tướng
gốc nông dân có khả năng đặt vấn đề “lớn”: Tại sao phải ăn bún! Và tướng Thanh
dẫu có “Mao nhều /hay/Mao ít” cuối cùng phải tắc tử vì: “.. Nguyễn Chí
Thanh đại diện cho phái tả” chết trước Tết Mậu Thân nửa năm là giọt nước làm
tràn li. Thanh chết mồng 6 thì 28 tháng 7 -1967 bắt bốn xét lại đầu tiên trong
đó có Hoàng Minh Chính, Hoàng thế dũng, Trần Châu (anh của Đĩnh), Phạm Viết..
(ĐC, trg 320)
Nguyễn Chí Thanh/Phái Tả/”Mao nhều” bị thanh toán tháng
7/67 thì Võ Giáp/Phái Hữu/”Mao (không) nhều/Cánh “xét lại” của Đĩnh “..Tháng
9 Giáp thình lình đi Bastislava dưỡng bệnh – Cuộc xa xứ nầy là đền bù vào sự
vắng mặt mãi mãi của Nguyễn chí Thanh – Lê Đức Thọ vào quân ủy trung ương, thế
lực Thọ hùng mạnh lên nhiều (ĐC, trg320)
Như thế là thế nào? Mao “nhều”/Mao ít/Mao (không) nhều/Xét
lại.. cuối cùng tất cả đều bị tắc tử, ngồi tù, đi chữa bệnh.. Không loại
trừ “ông bác” bị tống qua Tàu ngay trong dịp Tết Mậu Thân . Chúng ta hãy xem
lại tình cảnh: “.. Sau hội nghị trung ương 14, chiều 20 tháng 1, 1968
Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo bác Hồ”.. Sáng 25 tháng 1, 1968 trong
khi “Cha già dân tộc” và “Anh cả của quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì
những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các độ thị miền Nam.. (Huy Đức.
Bên Thắng Cuộc/II/Quyền Bính. OSIN Book, USA. 2012, Trg 158).
“Cha già dân tộc/HCM”, “Anh cả quân đội/VG” (Chữ của
Huy Đức-Pnn) làm những gì, ở đâu khi cả miền Nam đang dầm trong biển máu
lửa Mậu Thân 1968. Hãy nghe Huy Đức kể lại để thấy ra điều “thành thật/khôn ngoan/mục
đích/yêu cầu của Trần Đĩnh khi viết Đèn Cù.. “Cái đêm mà cả miền Nam chìm
trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh “trong căn
phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, Bác mĩm cười nghe một em bé hát “Bé né
bồng bông..” và lời chúc Tết của chính mình (?!): Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân
qua/Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà/Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/Tiến lên toàn
thắng ắt về ta” (Huy Đức Ibid; trg 158). Về phần tướng Võ Giáp (tên thật)
thì tình cảnh cũng không khá hơn.. “Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về Hà
Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng , Cục
Trưởng Cục Tác Chiến báo cáo “kế hoạch Tổng Công Kích, Tồng Khởi Nghĩa”. Vũ
Lăng nói: Anh Văn Tiến Dũng (Tổng Tham Mưu Trưởng/Gốc thợ may – Pnn) bây giờ
thì có thể báo cáo với anh Văn (Giáp). Tướng giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để
che dấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh đã không được biết một kế hoạch lớn
như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày (Huy Đức Ibid; trg 159)
Từ những chi tiết “cần thiết/quan trọng” như trên
buộc chúng ta phải thấy những chữ nghĩa đầy “văn khí-Lời tán/ Ngô Nhân
Dụng/NV” từ Trần Đĩnh chỉ cốt viết nên những trò đấu đá ấm ớ, vớ vẫn giữa
hai phe “Mao nhều/Mao (không) nhều”: “..Từ đấy Mao“nhều”thường từng đám túm
tụm chưởi Khrouschev (Bí thư thứ Nhất/Thủ tướng Liên xô chủ trương “Chung sống
Hòa Bình với Mỹ, 1960-Pnn) rồi hễ thấy chúng tôi (Mao (không) nhều-Pnn)
thì lại cố tình liếc liếc và ré lên cười.. Gần tháng sau Hoàng Tùng (Tổng
Biên Tập báo Nhân Dân 1954-1982-Pnn) thăm Trung quốc mang theo Hồng Hà, Phan
Quang (Sao lại không mang Trần Đĩnh, học tại Bắc Kinh 5 năm? -Pnn)..
Trở về viết “Vĩ đại Trung Quốc dài hết trang báo (ĐC, trg 249-250);
hoặc diễn tả chi tiết sờ mó tục tỉu giữa Trưởng Ban Tuyên Truyền/TU Lê Quang
Đạo với chính Trần Đĩnh (ĐC, trg 22); giữa Tố Hữu/Xuân Diệu ((ĐC, Trg
32); hay cách ăn nằm với vợ của Trường Chinh (ĐC, trg 26); thói ham
gái, sở thích đàn bà của HCM (ĐC Trg 30, 32); hoặc cách ăn nói xỏ xiên,
đểu cáng (tương tự như những nhân vật trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng) từ
những tay thủ lĩnh văn nghệ miền Bắc như Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng..” ..Nguyên Hồng đọc được hai câu thì Nguyễn Tuân giật giật tay
tôi (TĐ) – Nghe thơ tình lũy (Lui/Nó/Tiếng Pháp- Pnn) làm gì? Lũy tay chìa
tiền. Tay tụt yếm.. (ĐC, trg 446); hay “bí mật cuộc tình của các quan văn
nghệ Hà Nội ” “.. Một sáng vào Việt-Xô khám bệnh, tôi (TĐ) gặp Tô Hoài năm
chữa thần kinh tim. Anh cho hay một tên tuổi văn nghệ vừa bị cô nhân
tình nộp tố Hữu bức thư cha nầy gửi cho cô.. Vừa lúc ấy Chế Lan Viên đi vào.
Anh bảo tôi: Nầy Trần đĩnh mình bị cái nầy lạ lắm. Ngọt với mặn bây giờ đếch
phân biệt được. Tô Hoài tưng tửng: Ăn phải một thìa cứt mà không phân biệt thì phải
chữa thật! (ĐC, trg 455)
Chúng ta có thể đóng lại những “chữ nghĩa/văn khí” của Đèn
Cù diễn tả về những vụ việc/ngôn ngữ/con người tầm phào bát nháo nơi Hà Nội
trước 1975 như vừa kể ra tại đây để nêu lên kết luận: Đây là Vấn Đề Giả mà Trần
Đĩnh mất đến 24 năm để viết nên – Bi Kịch Việt Nam Không Phải Là Vậy.
Đây, Bi Kịch Việt Nam với một trong những thủ phạm cần
phải gọi đích danh: Tổng Bí Tư Lê Duẩn với cái đầu được tán tụng là có đến “200
bougies/hai trăm bóng đèn/đơn vị khởi động diện của một động cơ”. Nhân sự nầy
với cái đầu cực kỳ ghê gớm kia có khả năng..”Ông không bận tâm tới ý người
khác. Chúng tôi là những mặt người giống như các vách hang đá cho ông thử
nghiệm độ vang của lời ông.. Lê Duẩn cáu tức thì. Hai con mắt càng xáp lại gần
nhau. tiếng nói càn ríu lại
.. Marx..Marx..Ở đây có ý gì? (ĐC, trg 186). Quả thật cái đầu tổng bí thư “200
bougie” của Duẩn không hiểu Marx là cái gì hết nên mới xẩy ra hoạt cảnh hài
hước.. “Duẩn nói hết (về Marx), Bình (NĐBình thư ký của Duẩn) lên tiếng:
Tổng bí thư đã nói xong, xin giáo sư góp ý kiến. Ngơ ngác một lúc, Thảo (Trần
Đức Thảo, giáo sư tiến sĩ đại học Sorbone Pháp, năm 1951 xin “cụ Hồ về nước
phục vụ kháng chiến”. Sau 1956 do dính líu với vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy không
bị tù nhưng được giao công tác cho ra nông trường chăn bò –Pnn). Thảo nói: Tôi không hiểu
gì cả! Thảo vừa dứt lời, thoắt một cái rất nhanh, Duẩn đã nhào đến đằng sau
lưng anh, quàng hai tay vào ngực anh rồi liên tiếp xốc lên , dội xuống anh mấy
bận.. Bị Duẩn dộng mình xuống đất nhưng Thảo vẫn không chừa thói của kẻ ỉ
mình có học/đại trí thức.
Thảo phân giải cùng Đĩnh: “Ở ta chỉ có Trường
Chinh hiểu được chủ nghĩa Marx chứ Duẩn thì không. Thảo lắc đầu quần quậy (ĐC,
trg 436). Điều nầy được Đĩnh hoàn toàn đồng ý, vì đối với Đĩnh Trường
Chinh luôn là: “Anh (TCh) là cây bút lão luyện, dạy tôi từ chữ “ngày sinh
nhật..” (ĐC, trg 221) – Nhắc lại bài học ngày nhập môn năm 1951 với
Trường Chinh, chứng tỏ Đĩnh là người biết “ăn trái nhờ kẻ trồng cây”. Nhưng
biết ơn là một chuyện, Đĩnh hình như không nhớ cách hiểu “Marx nhều/Mao nhều”
của Trường Chinh: “Chế độ xã hội chủ nghĩa dẫu chưa hoàn chỉnh những tốt đẹp
gấp vạn lần chế độ tư bản“ - Tuyên bố với tư cách gọi là chủ tịch quốc hội
Việt Nam (Tức là của toàn thể dân chúng người Việt theo quy định của quốc
hội kháng chiến 1946 –Một quốc hội mà kẻ ứng cử/người đi bầu hoàn toàn không hề
biết nhau –Pnn) nhân dịp “Thống Nhất Nước Nhà Về Mặt Nhà Nước” khi ông chủ
tịch đến Sài Gòn năm 1976.
Chúng ta tiếp xem xét “cái đầu 200 bougies” của tổng bí
thư Duẩn đã làm gì với thảm kịch Việt Nam. Với cái đầu “cực kỳ” nầy, Duẩn
chỉ đạo: “Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc
in tiền mới sợ lạm phát chứ ta, chuyên thì sao lại là lạm phát mà sợ (ĐC, trg
187) Và chuyên chính vô sản là gì? Duẩn ngắn gọn vô cùng:
“Người ta lầm Marx đã đề ra đấu tranh giai cấp. Không, nhiều người đã nói đã nói
cái nầy trước Marx rồi. Vậy phát kiến vĩ đại của Marx là gì? Rồi Duẩn cười cười
đưa cạnh bàn tay lên ngang cổ nói: Là như Jacobin thời Đại Cách Mạng Pháp
–Giết! Thủ tiêu! Bạo lực! (ĐC 187) Với cách hiểu Marx “chính xác” như thế
nầy mà giáo sư tiến sĩ Thảo bảo Duẩn không hiểu Marx thì quả tình đáng để bị
Duẩn dộng người lên xuống là phải. Có điều trong suốt cuốn sách, Đĩnh vẫn không
dám gọi Duẩn là “Mao nhều” dẫu Duẩn đã chết từ 1986.
Nhưng Duẩn không nói suông. Con người nầy với Đảng cộng
sản đã lập nên thành tích qua báo cáo chính trị của Đại Hội 4, 1977: Đã đập tan của cuộc phản
công lớn nhất của tên đầu sỏ chỉ vào các lực lượng cách mạng (Tức chủ yếu Việt
Nam, Trung Quốc, Liên Xô), đã đẩy lùi trận địa đế quốc, mở rộng trận địa xã hội
chủ nghĩa.. Về miền Bắc, ông (Duẩn) nói: Thành tựu to lớn nhất là đã thủ
tiêu chế độ người bóc lột người (..) Các giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ..Người
với người sống có tình nghĩa, đoàn kết, thuong yêu nhau cùng với “chuyên chính
vô sản được củng cố..Hệ tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được đặt trên nền
móng vững chắc.. (ĐC, 462)
Tóm lại “Thành tích” kể trên không chỉ là :“Bác Hồ vô
vàn kính yêu” luôn sống mãi trong “Sự Nghiệp Chúng Ta” - Khẩu hiệu
chiến lược luôn đi kèm theo “Chân lý: “Không có gì quý hơn Độc Lập-Tự Do”
. Thành tích nầy là tổng hợp của: Cách mạng Tháng 8, 1945 -Tuyên ngôn độc lập
Ngày 2 Tháng 9/1945-Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946-Cải Cách Ruộng Đất
1953-1956-Cải tạo Công Thương Nghiệp miền Bắc (1956-1958)-Đại Hội 3/Nghị Quyết
9 TUĐ/Đồng khởi miền Nam/1960- Tổng Công Kích Mậu Thân 1968- Chiến Dịch Nguyễn
Huệ 1972-Chiến Dịch Hồ Chí Minh 1975.
Đoạn đường dài đẫm máu toàn Dân Tộc Việt
nầy không loại trừ một ai được tổ chức/chỉ đạo/điều hành bởi: Nguyễn Sinh Côn,
Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Linov, Vương Đông Hải, Hồ Quang, Hồ Chí
Minh.. được thi hành, thực hiện với Trường Chinh, Võ (Nguyên) Giáp, Phạm Văn
Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu,
Nguyễn Văn Linh.. Danh sách sẽ rất dài nếu muốn kể đủ. Tất nhiên bao gồm “Mao nhều”/Xét
lại/Báo Nhân Dân/Báo Sự Thật/Hội Nhà Văn vv”.. Những quân cờ tay em chạy quanh
cái Đèn Cù nơi Hà Nội gần nửa thế kỷ nay mới được Trần Đĩnh thắp lên quá đỗi
muộn màng.
Phan Nhật Nam
(Tháng 8-9/2014)
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tranh Babui.
__._,_.___