Đại
nạn Trung Hoa thời cận đại
Trần Gia Phụng
- Vào gần cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây phương đe dọa, Trung Hoa khốn
đốn không kém Việt Nam, nhưng triều đình nhà Thanh (cai trị Trung Hoa
1644-1911) vẫn tự nhận Trung Hoa là thượng quốc, có ưu quyền đối với Việt Nam.
1. Trung Hoa tự nhận ưu quyền thượng quốc
Trên đường tìm kiếm thuộc địa sau cuộc cách mạng
kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý do triều Nguyễn (cai trị Việt Nam
1802-1945) đàn áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858, mở
đầu cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa,
Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước ngày 5-6-1862, nhượng ba tỉnh
Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho Pháp.
Không dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Gia, Hà Tiên năm 1867, và tiến quân ra đánh
Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, chiếm Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định.
Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước ngày 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền
Tây Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc Kỳ.
Hòa ước ngày 15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong
đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống Pháp nhận Đại Nam là một quốc gia
độc lập, không phải thần phục nước nào, hứa giúp Hoàng đế Đại Nam nếu cần, bảo
vệ an ninh trong và ngoài nước.” Điều khoản số 3 tiếp theo “Để đáp lại
sự bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời
của nước Pháp.” Nói cách khác, từ nay Việt Nam phải lệ thuộc nền ngoại giao
của Pháp, và không được thần phục hay giao thiệp với nước khác mà không có sự
đồng ý của Pháp.
Khi hòa ước 1874 đã được hai bên Việt Pháp phê
chuẩn và trao đổi, đại diện Pháp tại Bắc Kinh là De Rochehouart chuyển bản hòa
ước nầy cho chính phủ Trung Hoa ngày 24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời
rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (nghĩa
là: “Từ [thời] Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”)
Câu nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp văn
theo nghĩa là: “An Nam cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước
thần phục Trung Hoa.” (Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp
và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, Tp HCM: Ban Khoa học Xã hội, 1990, tr.
142.) Do cách hành văn khác nhau, Trung Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp,
nhưng Pháp lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản đối gì.
Trong cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là
Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ Trung Hoa tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch
khẳng định với Pháp rằng Việt Nam là chư hầu của Trung Hoa. (Yoshiharu Tsuboi,
sđd. tr. 142.) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự (Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông
(Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10 tuổi và bà thái hậu Từ Hy (Tzu-His hoặc
Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính.
Tăng Kỷ Trạch còn viết thư ngày 10-11-1880 khi
ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu ngoại trưởng Pháp cho Trung Hoa biết lập
trường của Paris về những biến chuyển ở Bắc Kỳ. Trong thư trả lời ngày
27-12-1880, ngoại trưởng Pháp Barthélemy St. Hilaire đáp lại rằng theo điều 2
hòa ước 1874, Pháp có bổn phận và trách nhiệm với Việt Nam. Thư nầy được gởi
đến cho Tăng Kỷ Trạch và chính phủ Trung Hoa.
Tăng Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St.
Pétersbourg biết rằng Pháp có thể chiếm Trung Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ
gây quan ngại cho Trung Hoa, vì vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung Hoa.
Ngoại trưởng Pháp liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch
biết rằng từ năm 1874, ngoài nước Pháp Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ
với các nước khác. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập
1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.)
Về phía Việt Nam, dầu đã ký hòa ước 1874, chịu
nhận nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức vẫn gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa
năm 1876, để chúc mừng vua Thanh Đức Tông (Te-tsung) (trị vì 1875-1908) tức vua
Quang Tự (Kuang-hsu), lên thay vua Thanh Mục Tông (Mu-tsung) (trị vì 1862-1874)
tức vua Đồng Trị (T'ung-chih) từ trần năm 1874. Tháng 7-1880, vua Tự Đức còn cử
sứ sang Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy, chẳng những có tính cách ngoại
giao thông lệ bốn năm một lần cống sứ, mà còn để nhờ Trung Hoa giúp đỡ.
Năm sau (1881), Trung Hoa gởi Đường Đình Canh
sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập chiêu thương cuộc. Những sự kiện nầy
không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart đã báo cáo đầy
đủ các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung Hoa cho thượng cấp ngày 2-8-1882.
(Yoshiharu Tsuboi, sđd. tt. 298-299.)
Về phía nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện Trung
Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng Việt Nam là thuộc quốc của Trung Hoa và
yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để duy trì tình hữu nghị Hoa Pháp. Tại Paris,
ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng lên tiếng phản đối Pháp và yêu cầu
Pháp rút quân.
Thủ tướng Pháp là Freycinet cho rằng lời lẽ của
họ Tăng bất nhã, nên thông báo cho đại sứ Pháp tại Bắc Kinh tin cho chính phủ
Trung Hoa biết rằng Pháp sẽ không nói chuyện với Trung Hoa và yêu cầu Trung Hoa
đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ. (Alfred Schreiner, Abrégé de l'histoire
d'Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353.)
Về quân sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân Nam
(Trung Hoa) loan báo rằng quân đội Trung Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ Bắc Kỳ để
truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính Bưu đem ba doanh
quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty (Hưng Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.]
Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế Lan đem mười hai doanh quân đóng ở
các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm
doanh quân đóng ở Tuyên Quang. Tài liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại Bắc
Kỳ lúc đó lên đến 20,000 người. Dầu vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp
đẩy lui.
Trong thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam
nhắm mưu lợi, chứ chẳng phải thực tâm giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy
không thể chiến thắng được Pháp, Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để
chia phần ở Việt Nam.
2. Trung Hoa âm mưu chia hai Bắc Kỳ với Pháp
Ngày 27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp
ở Trung Hoa là Bourée biết, trong phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết
định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói chuyện với Bắc Kinh. Trước sự cương quyết
của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang hay
Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha môn, cơ quan phụ trách
ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với Bourée rằng Trung Hoa và Pháp
chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.
Lúc đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều
muốn chiếm Bắc Kỳ nhưng vừa ngại tốn kém vì Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa
ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường lối của chính phủ Pháp không rõ ràng và
hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân
Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân
và Thuộc địa Pháp ra lệnh cho soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung
Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr. 291)
Ngày 20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay
Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm ước về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa
chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông
Hồng (vùng châu thổ, sản xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng
Trung Hoa, nhưng người Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam. (Khối Quân
sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân sử III, Sài Gòn:
Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971, tr. 164.) Tạm ước nầy thật
ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra cụ thể
ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tạm ước Thiên Tân
bị bãi bỏ. Nguyên tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày 22-1-1883.
Armand Fallières tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry trở lại làm thủ tướng lần
thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn đề Ai Cập (Egypt) vì nước
nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.
Việc làm đầu tiên của chính phủ Jules Ferry về
Việt Nam là bãi bỏ tạm ước Thiên Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì
theo chính phủ nầy, tạm ước đã giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc
Kỳ. Quyết định bãi bỏ được báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau,
đại sứ Bourée bị triệu hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại
Nhật Bản, sang Bắc Kinh làm đại sứ từ ngày 1-6-1883.
Ngày 18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ
Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo
đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất cứ phần lãnh thổ nào của An
Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp phải triệt binh khỏi những
nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải cảng để giao thương, và các cường quốc
có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để
giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm việc tự do giao thương trên sông Hồng;
(6) Những hòa ước giữa Pháp va Việt Nam phải được Trung Hoa chấp thuận. (Vũ Ngự
Chiêu, tt. 328-329.)
Trong khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh
cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883. Thất bại, triều đình Huế đành xin điều đình
và ký hòa ước ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước
Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối tương giao
nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự
giao thiệp của nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao
thiệp ngoại giao với nước nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà thôi.”
Bảo hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng
Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong thư trả lời ngày 27-8, và cho
Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn đề an ninh biên giới và quyền lợi
người Hoa buôn bán trên sông Hồng.
Ngoại trưởng Pháp còn gởi công văn ngày
15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa xác nhận rằng Pháp không chấp
nhận tạm ước Thiên Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng
Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai
điểm: (1) Lập một khu phi quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn
động binh để đánh dẹp thổ phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn
Man Hao trên sông Hồng trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao
thương. Chính sách của chính phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh
mẽ trong cuộc đầu phiếu tại Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd.
tt. 330-332.)
Hai chính phủ Pháp-Hoa tranh cãi không dứt về
vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Kỳ, trong khi Trung Hoa muốn
chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa.
Trung Hoa tin tưởng rằng Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc
Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa còn hy vọng hai nước Anh và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc
đó, Anh đang bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập
trung lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa hai bên.
Cuối cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân
Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới, làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc
đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ
tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi chiến phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay
đổi chính sách.
3. Hiệp Ước Thiên Tân Lần Thứ Nhất (11-5-1884)
Đầu tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên
là Detring, người Đức, công chức cao cấp trong ngành thương chánh Trung Hoa và
đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884,
Detring đem việc nầy thảo luận với một người bạn là trung tá Ernest François
Fournier, hạm trưởng tuần dương hạm Volta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier
trình bày lại ý định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Lespès,
tư lệnh hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận cho
Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt Lespès trình về Paris.
Fournier nhờ Detring chuyển cho Lý Hồng Chương
một văn thư cho biết các điều kiện về phía Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với
Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch, từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam,
rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ, và bồi hoàn chiến phí. (Alfred
Schreiner, sđd. tt. 371-372.)
Để tỏ thiện chí, triều đình Trung Hoa quyết định
chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ
ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và
Áo.
Cuộc nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên
Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng ký hiệp ước ngày 11-5-1884, gồm năm
khoản, thường được gọi là hiệp ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân, đại để như
sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân
khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước ký kết giữa Pháp và Việt Nam. 3) Pháp
không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy bỏ những hiệp ước trước đây giữa Trung
Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết không làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5)
Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính
thức.
Ernest F. Fournier tiếp tục thương lượng với Lý
Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân. Ngày 17-5, Fournier trao cho Lý
Hồng Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao
Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884. (Alfred Schreiner, sđd. tr.
362.)
Nhận được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh
lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao
Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp thu Lạng Sơn. Trên đường đi
Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa
tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.
Chính phủ Paris được tin vụ Bắc Lệ, liền ra lệnh
cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho triều đình Mãn Thanh một tối hậu thư ngày
12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót
là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải bồi thường 250 triệu quan chiến phí, nếu
không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.
Phó đề đốc Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở
Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa
sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7,
trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo Cơ Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan.
Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây thiệt hại nặng cho Trung Hoa.
Trên biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công
các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử (Yang-tse), vùng Thượng Hải,
và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ
(Pescadores) ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, tt. 227-228.)
4. Hiệp Ước Thiên Tân Lần Thứ Hai (9-6-1885)
Trong khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì rõ ràng
Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp và Trung Hoa
đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng của mỗi bên. Sau
những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc ký kết hòa ước vào
cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp đổ. Chính phủ Brisson lên thay
thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles Freycinet.
Cuộc đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại
thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp
ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre
(đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng Chương và Teng Tcheng Sieou (đại diện
Trung Hoa). Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể
được tóm lược như sau:
Trung Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1).
Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam (điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa
đàm về vấn đề biên giới Việt Hoa (điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước
thương mại (điều 5, 6, 8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (điều
9). Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một
phái đoàn đến Hà Nội để giúp chấm dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà
Thanh trở về Trung Hoa.
Kết luận
Dầu Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi vua
Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên xem
Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện,
Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với Pháp về Việt Nam, chia phần với Pháp
và quyết định số phận Việt Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành
nhượng bộ, nhưng vẫn không từ bỏ định kiến “thượng đẳng” đối với Việt Nam, và
chờ đợi cơ hội để tái lập quyền lực hoặc mưu cầu quyền lợi trên đất nước Việt
Nam. Cơ hội đó là việc giải giới quân đội Nhật Bản ở Đông Dương sau thế chiến
thứ hai, vào năm 1945.
26.06.2018
Trần Gia Phụng
__._,_.___
Posted by: Truc Chi