Hải Dương: Hàng loạt hộ dân bị
phá nhà, cướp tài sản
22/04/2016 21:59
GMT+7
TTO - Nhiều tháng nay, một số hộ dân tại khu vực Tử Lạc 1, xóm Núi
1 (thị trấn Minh Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) bị nhóm người lạ mặt kéo
đến đập phá, nhắn tin đe dọa yêu cầu phải rời đi.
Nhà
của một hộ dân trong vùng phải di dời bị đập bể trong khi chưa thống nhất
được việc đền bù - Ảnh: Đình Ngọc
Nhiều
ngôi nhà kiên cố của người dân bị đập bể trong lúc gia chủ không có nhà -
Ảnh: Đình Ngọc
Hàng loạt hộ gia đình của các ông Vũ Văn Ban, anh Vũ Văn Nam, bà
Hoàng Thị Thúy, bà Bảy... đang phải sống trong ngôi nhà bị hư hỏng nặng do bị
một nhóm người lạ mặt cho máy xúc đến phá nhà, đập thủng tường rồi lấy đi một
số tài sản bên trong.
Bà Bảy (thị trấn Minh Tân) cho biết ngôi nhà gia đình bà gắn bó
mấy chục năm nay vào khoảng một tháng trước không biết bị ai tới đập bể trong
lúc vắng nhà đi làm.
"Trước lúc tôi đi làm, gian nhà này còn lành lặn nguyên vẹn,
vậy mà khi trở về trông nó điêu tàn với những mảng tường lớn bị đập bể ở xung quanh,
đồ đạc thì không còn lại gì cả." - bà Bảy lấy tay gạt nước mắt.
Chị Vũ Thị Mai (con gái ông Vũ Văn Ban), cho biết do bố bị ốm nặng
nên gia đình phải đưa ông đến bệnh viện để chữa trị. Trong lúc tất cả thành
viên gia đình đang tất bật lo cho sức khỏe của bố trên bệnh viện thì khi trở về
nhà đã thấy bị đập bể, đồ đạc bên trong bị lấy đi hết.
"Sự việc xảy ra cũng lâu nhưng mọi người không ai dám đi báo
vì sợ bị xã hội đen đến làm liều, chỉ mong chính quyền sớm chủ động đến xác
minh tìm hiểu nhưng đợi mãi cũng không thấy có ai đến." - chị Mai cho hay.
Bên cạnh việc bị phá nhà, các hộ dân trong khu vực này cũng nhận
được nhiều nội dung tin nhắn đe dọa đến tính mạng nếu như còn tiếp tục không chịu
di dời khỏi khu vực này để nhường mặt bằng cho dự án khai thác đá của công ty
xi măng Hoàng Thạch.
Theo tìm hiểu, khu vực các hộ dân bị đập bể nhà đang nằm trong
vùng Dự án khai thác đá để làm vật liệu sản xuất ximăng và là vành đai an toàn
khai thác mỏ của Công ty ximăng Hoàng Thạch đóng tại địa bàn thị trấn Minh Tân,
huyện Kinh Môn. Trong khi một số hộ dân này vẫn chưa thống nhất để nhận giá đền
bù trước khi quyết định di dời khỏi khu vực thì xảy ra sự việc trên.
Tối ngày 22-4, ông Lê Văn Bí, phó Chủ tịch UBND huyện Kinh Môn,
khẳng định huyện không có bất cứ chỉ đạo nào về việc cưỡng chế liên quan đến dự
án của công ty xi măng Hoàng Thạch và cho biết cũng vừa mới chỉ đạo cơ quan Công
an huyện vào cuộc điều tra, làm rõ sự việc này đồng thời yêu cầu chính quyền
địa phương phải tiến hành xác minh.
"Đến hôm nay, lãnh đạo địa phương mới báo cáo qua điện thoại
cho tôi là không có sự việc trên. Tuy nhiên, tôi yêu cầu phải có báo cáo cụ thể
bằng văn bản về sự việc này lên UBND huyện." - ông Bí nhấn mạnh.
Được biết, dự án của công ty xi măng Hoàng Thạch được triển khai
từ năm 2012 và đến năm 2015 đã tiến hành bồi thường để giải phóng cơ bản được
mặt bằng, duy chỉ còn một số ít hộ dân chưa nhận tiền đền bù để di dời.
Báo
Washington Post ngày 6.4.2016 và nhiều báo khác đã kể lại rằng khoảng đầu năm
2015 có một người nặc danh đã gọi cho phóng viên Bastian
Obermayer của báo Sueddeutsche Zeitung ở Đức với câu mở đầu như sau: “Hello.
This is John Doe. Interested in data?” (Đây là John Doe. Quan tâm các tài
liệu không?). Obermayer trả lời vắn gọn rằng “tôi đây”, Doe liền chuyển dần cho
Obermayer đến 11,5 triệu tài liệu. Đó là Hồ Sơ Panama (Panama Papers).
Theo
ký giả Paul Farhi của Washington Post, năm 2014 Doe cũng đã chuyển cho
Obermayer và đồng nghiệp của ông ta là Federik Obermaier những tài liệu liên
quan đến tình hình thế giới. Obermayer nói rằng ông ta không hề biết người này
và cũng không thể định danh được người đó là ai. Người cung cấp tài liệu cũng
không hề đòi hỏi tiền bạc hay sự đáp trả nào ngoài một vài biện pháp về an
ninh.
Phóng
viên Bastian Obermayer
Tổ
hợp Quốc Tế của các Ký Giả Điều tra (ICIJ) ở Mỹ đã hợp tác với báo Sueddeutsche
Zeitung và dung các chuyên gia để khai thác đống tài liệu đó, định danh các
khuôn mặt nổi tiếng rồi mới công bố ngày 3.4.2016.
NHỮNG CÂU HỎI ĐƯỢC ĐẶT RA
Việc
lấy cắp tài liệu của một tổ hợp luật như tổ hợp Mossack Fonseca của Panama
không phải là khó lắm vì các loại tổ hợp này thường không bảo mật hồ sơ chặt
chẽ, một tin tặc (hacker) loại thường cũng có thể làm được, nhưng ít ai tin
rằng chỉ vì tinh nghịch, một người hay một nhóm hacker nào đó đã bỏ ra một số
lớn thì giờ để làm công việc này, trong khi kết quả chẳng những không đem lại
lợi ích gì cho họ mà có khi còn bị nguy hiểm nếu bị phát hiện. Nhiều người tin
rằng chỉ có CIA hay cơ quan thuế vụ IRS của Mỹ mới bõ công sức ra để làm công
việc đó.
Câu
hỏi thứ hai là mục tiêu chính của việc công bố tài liệu này là gì? Panama có
nhiều tổ hợp luật lớn như Icaza, Gonzalez-Ruiz & Aleman, Pardini &
Associates, Cambra La Duke & Co, Abogados Lombardi Aguilar Group, Adja
Attorneys at Law, Mata & Pitti, v.v, cùng làm các công việc như Mossack
Fonseca, tại sao không chọn tổ hợp nào khác mà lại nhắm vào Mossack Fonseca?
Văn
phòng Mossack Fonseca
Một
số người tin rằng CIA đã theo dõi và phát hiện có một số người Trung Quốc và
người Nga đến Panama liên lạc với tổ hợp Mossack Fonseca nên quyết định đánh
cắp tài liệu của Mossack Fonseca, tìm xem những tài liệu đó có liên hệ đến các
nhân vật quan trọng của Nga và Trung Quốc hay không. Việc có rất ít người Mỹ
dính líu đến vụ Hồ Sơ Panama đã dưa tới nghi ngờ: Phải chăng trong vụ này có
bàn tay thao túng của CIA nhằm gây bất ổn cho một số nước như lời cáo buộc của
Nga?
Nếu
giả thiết này đúng thì trò chơi này quá tốn kém, và thực tế cho thấy kết quả
không xứng các công sức bỏ ra, chưa nói đến một số “đồng minh” của Mỹ cũng bị
vạ lây. Vả lại nếu so với vụ “thiên đường thuế” ở tiểu bang Delaware của Hoa
Kỳ, vụ này nhỏ bé hơn nhiều.
Để
giải tỏa dư luận, hôm 20.4.2016, Phòng Công Tố Liên Bang Hoa Kỳ ở New York đã
gửi cho Hiệp Hội Các Nhà Báo Điều Tra Quốc Tế một lá thư mong muốn nói
chuyện với Hiệp Hội với hy vọng sẽ thu thập được những tài liệu liên quan
đến cuộc điều tra (về các cá nhân hay công ty Mỹ vi phạm luật pháp).
VẤN ĐỀ TRỐN THUẾ VÀ RỬA TIỀN
Chuyện
trốn thuế và rửa tiền là chuyện xảy ra hàng ngày trên thế giới, từ các hình
thức đơn giản như khai gian hay chuyển ngân lậu đến việc hình thành các tổ chức
đại quy mô để giấu thuế hay hợp thức hóa các số tiền lớn đã thu nhận qua các
hoạt động bất hợp pháp như tham nhũng, kinh doanh ngoài vòng pháp luật, buôn
lậu ma túy, buôn người…
Để
thu hút nguồn vốn này, rất nhiều quốc gia hay vùng lãnh thổ thiếu hụt về tài
chánh hay muốn có nguồn tài chánh để mở rộng việc phát triển, đã ban hành những
luật pháp dễ dãi, tạo ra những “THIÊN ĐƯỜNG THUẾ” (Tax Havens) và các “CÔNGTY
BÌNH PHONG” (Shell Companies) để giúp những người muốn che giấu tài sản hay
trốn thuế thực hiện mục tiêu của họ.
Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước lượng có khoảng 50% lượng giao dịch trên toàn thế
giới đã đi qua các thiên đường thuế. Khoảng 4.000 ngân hàng, 2/3 quỹ đầu tư mạo
hiểm toàn cầu và khoảng 2 triệu công ty bình phong khư trú tại các thiên đường
thuế với khoảng 7.000 tỉ USD nằm chết tại đây. Giáo sư kinh tế Gabriel Zucman
thuộc Trường đại học Kinh tế Paris cho rằng tổng số tiền các cá nhân nắm giữ ở
các thiên đường thuế chiếm tới 8% tổng số lượng tài chính của cả thế giới.
Tổ
chức Tax Justice Network cho biết trên thế giới có 10 thiên đường thuế lớn là Switzerland,
Hong Kong, Delaware ở Mỹ, Singapore, The Cayman Islands, Luxembourg, Lebanon,
Germany, Bahrain và United Arab Emirates.
Trước
khi bàn đến các thiên đường thuế tiêu biểu, chúng tôi xin trình bày khái lược
về hai phương thức trốn thuế và rửa tiền có quy mô lớn nhất hiện nay.
CÁCH TRỐN THUẾ VÀ RỬA TIỀN LỚN
Hiện
nay, có hàng ngàn cách để rửa tiền và trốn thuế khác nhau, nhưng có hai cách có
quy mô nhất là “thiên đường thuế” và “công ty bình phong”.
1.- Các thiên đường thuế (tax havens)
Tổ
chức Phát triển Kinh tế và Hợp tác (OECD ) cho rằng các thiên đường thuế (tax
havens) có những đặc tính chính sau đây: nơi đó không có thuế hoặc thuế suất
rất thấp, kèm theo những quy định pháp lý có lợi cho những người muốn giữ bí
mật về tài sản như có cơ chế bảo mật ngân hàng, không đòi hỏi cung cấp thông
tin, không cần chứng minh nguồn gốc tài sản, không có những kiểm tra chặt chẽ,
v.v.
Hiện
nay trên thế giới có khoảng 80 quốc gia hay vùng lãnh thổ có thiết
lập các thiên đường thuế, một số lớn nằm trong vùng Caribean. Có 8 thiên
đường thuế lớn được nhiều tỷ phú và các viên chức quan trọng trên thế giới đến
rửa tiền hay trốn thuế, đó là Belize, British Virgin Islands, Cayman, Costa
Rica, Monaco, Puerto Rico, Paanama và Seychelles (Tây Phi).
Ngay
tại Hoa Kỳ, một số tiểu bang cũng đã cho hình thành các thiên đường thuế để thu
hút nguồn tài chánh, đặc biệt là các tiểu bang Delaware,
Montana, South Dakota, Wyoming và thành phố New York. Nhưng Trung Quốc
vốn được coi là thiên đàng thuế lớn nhất thế giới.
2.- Các ông ty bình phong (shell companies)
Công
ty bình phong (shell companies) còn được gọi là Công ty võ bọc, Công ty hộp thư
(Đức) hay Công ty ma. Đó là những công ty chỉ có trên giấy tờ và người đứng tên
không phải là chủ của công ty. Công ty không hoạt động kinh doanh, nhưng có các
chương mục để ghi các hoạt động kinh doanh không có trong thực tế, các số tiền
gởi đến và gởi đi... Nói một cách rõ ràng hơn, sổ sách kế toán và văn kiện giao
dịch của các công ty này đều giả.
Loại
công ty này được thành lập với các mục tiêu chính sau đây: (1) Che giấu người
hay công ty đứng làm chủ tài sản; (2) Tránh các vụ kiện người hay công ty làm chủ
tài sản; (3) Được chịu thuế nhẹ; (4) Rửa tiền hay trốn thuế.
Muốn
rửa tiền, chỉ cần chuyển số tiền muốn rửa đến một công ty ở các thiên đường
thuế. Công ty này sẽ giúp chuyển số tiền đó thành các cổ phiếu vô danh thuộc
quyền sở hữu của một công ty bình phong mà không ai biết chuyện đó. Do tính vô
danh, người có cổ phiếu có thể xử dụng nó như những tờ giấy bạc mà không cần
chứng minh quyền sở hữu.
Về
phương diện pháp lý, công ty bình phong là một công ty hoàn toàn hợp pháp, còn các hoạt
động bất hợp pháp được tiến hành trong công ty đó lại là một chuyện khác. Khi
bị điều tra, tổ hợp luật Mossack Fonseca nói rằng họ không làm gì bất hợp pháp.
Họ chỉ giúp làm các thủ tục hình thành các công ty, còn các công ty đó hoạt
động như thế nào họ không biết.
Tổ
hợp luật Mossack Fonseca đã thành lập 214.488 công ty bình phong trong 40 năm tồn
tại từ 1977 đến 2015, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ của tình trạng rửa tiền và
trốn thuế trên thế giới ngày nay. Chúng tôi chỉ cần nói đến tình trạng rửa tiền
và trốn thuế tại hai quốc gia có tổng sản lượng quốc nội (GDP) lớn nhất thế giới
là Hoa Kỳ và Trung Quốc, độc giả có thể nhìn thấy rõ hơn tầm quan trọng của
thảm họa này.
DELAWERE: CÔNG TY NHIỀU HƠN DÂN SỐ!
Tờ
Washington Post ngày 5.4.2016 đã cho phổ biến một tài liệu dưới đầu đề “Làm thế nào Hoa
Kỳ trở thành một trong những thiên đàng thuế lớn nhất thế giới” do bà Ana
Swanson, một chuyên viên phân tích về thương mại và kinh tế biên soạn. Tài liệu
này cho biết tòa nhà một tầng tại số 1209 North Orange St. ở trung tâm thành
phố Wilmington của Delaware trông nhạt nhẽo và vô hại, nhưng trong vài năm qua
tòa nhà này đã là địa chỉ đăng ký cho hơn 250.000 doanh nghiệp của các công ty
trên toàn thế giới, giúp họ hưởng lợi từ những luật lệ ưu đãi dành cho các
doanh nghiệp địa phương.
Tòa
nhà một tầng số 1209 North Orange St.
Trong
khi đó, dưới đầu đề “Delaware: Một Thiên Đường Thuế trên Đất liền” (Delaware: An
Onshore Tax Haven), Viện về Thuế và Chính Sách Kinh Tế (ITEP) ở Washington DC
đã công bố một phúc trình khá đầy đủ và nạn rửa tiền và trốn thuế của các đại
tỷ phú ở bang Delaware (gần Washington DC). Bản phúc trình nhấn mạnh “Delaware có
nhiều công ty hơn người” (Delaware has more companies than people):
Delaware đứng thứ 46 về dân số trong 50 tiểu bang Hoa Kỳ, tại đây chỉ có
935.000 dân nhưng năm 2014 có đến 1.100.000 công ty, bao gồm 65% tài
sản của 500 công ty mẹ.
Theo
tờ Wall Street Journal, Delaware có luật đảm bảo bí mật tuyệt đối cho hoạt động
của các doanh nghiệp. Vì thế sau khi Hồ Sơ Panama được công bố, nhiều quốc gia
ở Đông Âu như Nga, Ukraine, Lithuania, Hungary... có công ty bình phong ở Mỹ đã
yêu cầu Bộ Tư Pháp Mỹ cung cấp các thông tin về các trường hợp bị nghi là rửa
tiền. Chuyên gia Mark Hays nhấn mạnh: “Chúng ta thường
nói Hoa Kỳ là một trong những nơi dễ dàng nhất để thành lập cái gọi là các công
ty bình phong vô danh”.
Khi
tập đoàn Enron của Mỹ bị điều tra, người ta phát hiện công ty này có đến 881
chi nhánh "bình phong" và 692 trong số đó đăng ký hoạt động chỉ riêng
ở quần đảo Cayman! Enron là một công ty về khai thác dầu khí có trụ sở ở Texas.
Tổ
chức Tax Justice Network đã xếp Hoa Kỳ đứng hàng thứ ba sau Thụy sĩ
và Hồng Kong trong danh sách các quốc gia có chứa chấp nạn rửa tiền và trốn
thuế của các công ty nước ngoài, nhưng đứng trước Cayman Islands and
Luxembourg.
THẾ GIỚI TÀI CHÁNH NGẦM
Bài
phóng sự điều tra ngày 28.3.2016 của hãng tấn AP cho thấy có rất nhiều hình
thức rửa tiền ở Trung Quốc, kể cả việc thông qua các ngân hàng lớn của Nhà
Nước, hệ thống xuất nhập khẩu và các mạng lưới chuyển tiền ngầm tồn tại từ hàng
nghìn năm nay.
Trước
những diễn biến xấu của thị trường chứng khoán và tiền tệ trong nước, Bộ Công
An Trung Quốc đã chỉ đạo triệt phá các ngân hàng ngầm. Từ tháng 4/2015 đến nay,
đã phá được 170 vụ ngân hàng ngầm hoạt động chuyển tiền tham nhũng, rửa tiền
với số tiền lên tới hơn 800 tỷ NDT (126 tỷ USD).
Ngày
20.11.2015, Cục cảnh sát kinh tế Thâm Quyến thông báo đã triệt phá được 10 ngân
hàng ngầm, bắt 23 nghi phạm, phong tỏa 1.009 tài khoản với số tiền lên tới 51,6
tỷ NDT.
Cáo
trạng của Bộ Tư pháp Hoa Kỷ vào tháng 9/2015 cho hay một mạng lưới rửa tiền
toàn cầu do 3 người Colombia cầm đầu ở thành phố Quảng Châu, Trung Quốc, từng
chuyển hơn 5 tỉ USD cho các băng tội phạm buôn bán ma túy ở Tây Ban Nha và
Mexico. Mạng lưới này bị tình nghi hoạt động ở Mỹ, Colombia, Tây Ban Nha, Ecuador
và Venezuela.
Ông
John Cassara, cựu đặc vụ tình báo tài chính của Bộ Tài chính Mỹ nhận xét: “Đi tới đâu cũng
bắt gặp người Trung Quốc ngày càng nhiều. Họ ra nước ngoài nhưng không quên
mang theo kiểu làm ăn ở quê nhà, trong đó không thể thiếu thế giới tài chính
ngầm”.
Nhiều
mạng lưới tội phạm người Israel đang làm ăn với người nhập cư Trung Quốc trên
khắp châu Âu để rửa tiền thông qua các mạng lưới chuyển tiền ngầm Trung Quốc, được gọi là “fei qian” (tiền bay).
Tháng 2/2016 vừa qua, 6 nhà lãnh đạo Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC)
tại Tây Ban Nha đã bị bắt giữ do nghi ngờ trợ giúp các hoạt động rửa tiền trên
khắp châu Âu. Các vụ bắt giữ diễn ra sau khi cảnh sát lục soát văn phòng của
ngân hàng lớn nhất Trung Quốc này tại Madrid để điều tra nghi án rửa tiền ít
nhất 40 triệu euro. ICBC bị cáo buộc cho phép nhiều người Trung Quốc và tổ chức
tội phạm Tây Ban Nha chuyển tiền kiếm được từ các hoạt động tội phạm như buôn
lậu, lừa đảo thuế, bóc lột lao động... về Trung Quốc dưới hình thức có vẻ hợp
pháp.
Ngân
hàng Trung Quốc ở Milan
Tháng
6 năm ngoái, Ngân hàng Trung Quốc (BOC) chi nhánh Milan cũng bị giới chức Ý cáo
buộc liên quan đến một vụ rửa tiền quy mô 4,5 tỉ euro. Số tiền này được chuyển
từ Ý sang Trung Quốc với nguồn gốc được cho là từ các hoạt động mại dâm, làm
hàng giả, trốn thuế và bóc lột lao động.
Hiệp
Hội Nhà Báo Điều Tra Quốc Tế cho biết có 16.300 công ty bình phong (1/3)
được thành lập ở nước ngoài qua ngõ Hồng Kong và Trung Quốc.
QUYỀN LỰC RỬA TIỀN VÀ TRỐN THUẾ
Hiện
nay, vùng Caribean là vùng có nhiều thiên đường thuế nhất gồm 16 hải đảo. Hai
đảo Cayman Islands và British Virgin Islands thuộc lãnh thổ
hải ngoại của Anh, là nơi có những hoạt động rửa tiền và trốn thuế tấp nập
nhất. Các đảo độc lập nầy đều có những luật pháp riêng để bảo vệ quyền lợi của
họ. Lâu lâu mới có một vụ nỗi sóng như vụ Hồ Sơ Panama, nhưng rồi đâu lại vào
đó. Quyền lợi của các thiên đường thuế cũng là quyền lợi của nhiều quyền lực
trên thế giới. Quyền lợi của phía này làm phát sinh ra quyền lợi của phía kia
nên họ bảo vệ nhau.
Với
Trung Quốc, đài BBC cho rằng “Thật khó để tìm bất kì tài liệu hay nghiên cứu
nào về Hồ Sơ Panama ở Trung Quốc. Đặc biệt về những cáo buộc về những họ hàng
thân thiết của bảy nhà lãnh đạo hiện tại hay đã nghỉ hưu để chứng minh rằng họ
có sự liên kết với công ty nước ngoài.” Khi Trung Quốc
hay Mỹ quyết định đứng ngoài vòng pháp luật quốc tế thì thế giới đành bó tay.
Theo
đánh giá của tổ chức Tax Justice Network, năm 2012 có khoảng từ 21.000 đến
32.000 tỷ USD đang được những người siêu giàu trên thế giới giấu trong các công
ty ở nước ngoài.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 kết thúc với phát biểu
cảm xúc của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ‘dân chủ đến thế là cùng’.
Kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 13 cũng đã kết thúc ngoài dự
kiến khi miễn nhiệm dàn lãnh đạo cũ và bổ nhiệm mới để lấp khoảng trống quyền
lực giữa đảng và chính phủ với tuyên bố thủ tục rằng ê kíp lãnh đạo mới này sẽ
tiếp tục được giới thiệu ra Quốc hội 14 theo Hiến định.
Các nhà quan sát thế giới và trong nước đang theo dõi những quyết
định nhân sự của đảng và động thái của tân chính phủ thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc.
Những thách thức kinh tế kéo dài từ các chính phủ tiền nhiệm, như
thâm hụt ngân sách nặng nề, chi thường xuyên lớn, hết dư địa cho đầu tư phát triển,
nợ công cao và tăng nhanh, nợ xấu cao tạo rủi ro cho hệ thống tài chính ngân
hàng, doanh nghiệp làm ăn khó khăn, giải thể nhiều… cộng thêm những bất lợi về
thiên tai ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, làm giảm thiểu tốc độ tăng
của nền kinh tế.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện
những phóng sự ‘nặng ký’ về các dự án sai phạm đất đai ở Vườn Quốc gia Ba Vì Hà
Nội, dự án nhiều nghìn tỷ ‘đắp chiếu’, như dự án TISCO – Công ty cổ phần gang
thép Thái Nguyên (8.104 tỷ đồng), dự án sơ sợi Hải Phòng (7.000 tỷ đồng), nhà
chờ xe buýt nhanh (1.000 tỷ đồng) ở Hà Nội, các dự án không hiệu quả như Bảo
tàng Hà Nội...
Những bức xúc xã hội như dân oan, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai,
gia tăng phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội, mất vệ sinh an toàn thực phẩm,
chạy quyền chạy chức, giảm sút chất lượng dịch vụ xã hội, tăng phí giao thông,
phí y tế… tạo sức ép đối với cuộc sống người dân, làm mất lòng tin vào chế độ…
Các chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI và chỉ số hiệu quả quản
trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI ở Việt Nam 2015 mới vừa được công bố cho
thấy sự yếu kém của bộ máy công quyền không được cải thiện, phí ‘bôi trơn’ tăng
lên và tham nhũng là căn bệnh kinh niên.
Tăng trưởng GDP quý 1/2016 giảm sút còn 5,46% so với cùng kỳ năm
2015 là 6,12% (bỏ qua những nghi vấn về tính trung thực số liệu thống kê), con số
7,3 tỷ đô la các ngân hàng, tổ chức và cá nhân chuyển ra nước ngoài… tạo ra
hiện tượng ‘bất bình thường’.
Kế hoạch tăng trưởng bình quân năm trong 5 năm 2016-2020 được Quốc
hội khóa 13 thông qua là 6,5% -7%. GDP/đầu người ước đạt 3.200 USD.
Nhìn lại, chỉ tiêu này trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
năm 2020 đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hóa, GDP/ đầu người khoảng
5.000 USD, rõ ràng không thể đạt được.
Sa lầy trong tư duy
Sự tụt hậu kinh tế Việt Nam so với các nước trong khu vực ngày
càng lớn.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), thu nhập bình quân đầu người năm 2014 của Việt
Nam là 2.052 USD, trong khi
Singapore là 56.287 USD,
Malaysia là 10.830 USD,
Thái Lan là 5.561 USD và
Indonesia là 3.515 USD.
Như vậy, chỉ tiêu này của nước ta tụt hậu so với Hàn Quốc chừng 30
đến 35 năm, Malaysia khoảng 25 năm, Thái Lan chừng 20 năm, Indonesia và Philippines
chừng từ 5 đến 7 năm. Đến năm 2038, Việt Nam mới có thể bắt kịp năng suất lao
động của Philippines và đến năm 2069 mới có thể bắt kịp Thái Lan…
Báo cáo “Việt Nam 2035 – Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công
bằng và dân chủ”, do các chuyên gia World Bank và Việt Nam thực hiện – được
nhận xét là quá lạc quan, khi cho rằng Việt Nam nếu duy trì mức tăng trưởng tối
thiểu 7% mỗi năm để nâng mức thu nhập trung bình lên trên 7.000 USD vào năm
2035, tuy nhiên đã đề xuất nhiều khuyến nghị quan trọng, đặc biệt là cải cách
thể chế.
Các chuyên gia nhận định: “Việt Nam đang có nguy
cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình thấp và khó thoát ra khỏi tình trạng
này nếu không có các giải pháp cải cách mạnh mẽ, quyết liệt”.
Liệu đây là lời cảnh báo cho ‘chiến lược’ phát triển mới của Việt
Nam?
Tại sao Việt Nam lại là ‘đất nước không chịu phát triển’?
Có ba nhân tố cơ bản quyết định một quốc gia sẽ phát triển, giàu
có: thể chế, vị trí địa lý
và văn hóa. Nhân tố hàng đầu là thể
chế. Nói chung, những nước phát triển có một thể tốt và những nước kém phát
triển có một thể chế tồi.
Việt Nam ‘sa lầy’ trong tư duy giáo điều về chủ nghĩa Mác – Lê,
chủ nghĩa xã hội trong thời gian dài, khiến cho cải cách thể chế không mang lại
hiệu quả.
Đào tạo cho các lớp ‘cán bộ nguồn’, chương trình chính khóa về tư
tưởng Mác – Lê Nin trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề chiếm dung
lượng lớn đã làm kéo dài thời gian đào tạo, gây nên những phản ứng từ học sinh
và đối với vấn đề cải cách giáo dục, đào tạo.
Nay sinh viên học trường đều phải đóng học phí, họ cần được biết
các tư tưởng, triết lý khác ngoài hệ quy chiếu này.
Mâu thuẫn hai hệ thống
Mâu thuẫn giữa hai hệ thống giá trị và lợi ích của chủ nghĩa xã
hội và thị trường tạo ra những khoảng trống quyền lực không kiểm soát, lợi ích
nhóm và tham nhũng… trở thành quốc nạn và đang cản trở đổi mới.
Tập trung cao quyền lực trung ương, thiếu vắng hoặc mang tính hình
thức cơ chế giám sát, phản biện, giải trình, công khai minh bạch của chính
quyền, không công nhận tổ chức xã hội dân sự, thiếu thực chất sự tham gia của
người dân trong quản lý nhà nước… đang làm cho thể chế méo mó, xã hội xuống cấp
và người dân mất niềm tin.
Cải cách kinh tế tất yếu dẫn đến thay đổi thể chế chính trị,
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, bảo thủ. Vấn đề là thời gian.
Quan sát các nước gần đây trong khu vực, bài học kinh nghiệm từ
Indonesia có ích cho Việt Nam để tiếp tục đổi mới.
Tính phức tạp xã hội, nhân khẩu học, kinh tế liên
tưởng tới thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhưng với những cải cách mạnh mẽ
gần đây khiến chất lượng thể chế của Indonesia ổn định, ngày càng được cải
thiện và được thế giới đánh giá cao.
Những tiến bộ thể hiện ở việc quyền hạn của Quốc hội và tư pháp
được củng cố, thể chế tam quyền phân lập được xác lập từng bước. Năm 1999, lần
đầu tiên Indonesia thực hiện tổng tuyển cử, năm năm sau, lần đầu tiên dân chúng
được trực tiếp bầu tổng thống.
Về thể chế kinh tế, ngân hàng nhà nước được độc lập, chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế dài hạn được hoạch định công phu, với nội dung có
sức thuyết phục và các cơ chế, biện pháp thực hiện chi tiết và có tính khả thi
cao.
Những bài học sâu sắc nêu trên được trình bày trong cuốn
"Indonesia: Cường quốc kinh tế."
Nhân tố thứ hai làm cho đất nước tụt hậu là văn hóa – những thứ đã
in sâu vào tâm trí, quan điểm, niềm tin và định hướng hành vi.
Cơ sở văn hóa lúa nước, trọng tình, nước đôi… ảnh hưởng của Nho
giáo, Khổng giáo… đã không hỗ trợ kinh tế thị trường. Năm 2015 có khoảng 9000
lễ hội, trong đó nhiều hình thức biến tướng, buôn thần bán thánh, kích thích lòng
tham tiền và quyền lực, hủ tục lạc hậu.
'Cho tôi một thể chế'
Cải cách văn hóa ở đây, một mặt phải kết hợp giữa niềm tin tôn
giáo và sự tạo ra của cải nhiều hơn, mặt khác tạo cơ chế tự do cá nhân và dân
chủ để con người tin tưởng mạnh mẽ vào khả năng để thay đổi số mệnh của họ
thông qua việc nỗ lực và tài năng, chứ không phải thế lực siêu nhân, hay sự
trông chờ vào đảng và nhà nước.
Vị trí địa lý là một nhân tố đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển
của Việt Nam.
Trái với những bài học ca ngợi tổ quốc thời niên thiếu rằng nước
ta ‘mưa thuận, gió hòa, rừng vàng, biển bạc…’, Việt Nam, không thực giàu có về trữ
lượng tài nguyên thiên nhiên, lại nằm ở vùng nhiệt đới khắc nghiệt chịu ảnh
hưởng lớn từ biến đổi khí hậu, giông bão, hạn hán, ngập mặn do nước biển dâng,
các dịch bệnh nhiệt đới đòi hỏi chi phí lớn để bảo vệ con người, súc vật và cây
trồng…
Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, yếu tố này trở
thành ‘lời nguyền địa lý’ bởi sự chung biên giới và quan hệ truyền thống với
Trung Quốc.
Lịch sử chống xâm lăng hàng nghìn năm, chung ý thức hệ tư tưởng,
đồng dạng thể chế chính trị, kinh tế và sự tranh chấp ngày càng căng thẳng trên
biển đông và sự quan sự hóa quần đảo Trường Sa của Trung Quốc hiện nay, khiến
cho Việt Nam trở ngại trong lựa chọn đường hướng cải cách, tác động đến thể
chế, làm cho chi phí quân sự, an ninh gia tăng…
Nếu các nhà lãnh đạo thấy khó khăn, hãy để mọi người dân được lựa
chọn cách thức trong đó họ toàn quyền quyết định vận mệnh dân tộc và của chính
họ.
Để phát triển bền vững và thịnh vượng, cần có một thể chế phù hợp
với kinh tế thị trường hiện đại – kết tinh giá trị của sự phát triển nhân loại
trong thời đại hiện nay, một thể chế cho phép Việt Nam khi đó không chỉ sẽ giảm
thiểu khoảng cách tụt hậu kinh tế, mà còn hy vọng một tương lai tươi sáng.
V. I. Lê Nin, lãnh tụ giai cấp vô sản Nga đầu thế kỷ 20, đã từng
nói, đại thể ‘nếu cho tôi một thể chế tôi sẽ xoay chuyển nước Nga’.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, chuyên gia phân
tích chính sách công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Việt Nam.
Nhà cách mạng Nga V.I. Lenin từng nói: “giành chính quyền đã khó,
giữ chính quyền còn khó hơn”. Những đồng chí của ông ở Việt Nam có vẻ rất coi
trọng tuyên ngôn đó, cho nên luôn xem “ổn định” là mục tiêu hàng đầu của hệ
thống chính trị.
Muốn giữ được “ổn định”, như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát
biểu, điều hiển nhiên là phải lựa chọn những người kế nhiệm phù hợp. Đại hội
Đảng Cộng sản lần thứ 12 và những phiên họp cuối cùng của Quốc hội 13 Việt Nam
vừa hoàn thành xong nhiệm vụ đó, đưa lên sân khấu những gương mặt sẽ là đại
diện cho chính quyền trong ít nhất 5 năm tới.
Ở Việt Nam, dù hệ thống bị đánh giá là độc đoán (authoritarian)
theo Chỉ số Dân chủ (Democracy Index) của tờ Economist, vẫn có nét tiến bộ hơn các
đồng chí khác như Bắc Triều Tiên và Cuba, khi sử dụng “nhiệm kỳ” để tránh tình
trạng độc quyền cá nhân.
Thế nhưng, quản lý bằng nhiệm kỳ không phải là hoàn hảo. Nó dễ tạo
ra thêm một thứ hay được gọi là “tư duy nhiệm kỳ”, khi lãnh đạo cố gắng “đặt
dấu ấn” của mình trong giới hạn thời gian được tại vị. Điều này đồng nghĩa với
việc cứ đến một thế hệ cầm quyền mới sẽ có nhiều ý tưởng mới, từ cấp cao nhất
là thủ tướng cho đến các thành viên nội các. Có thể lấy ví dụ từ nhiệm kỳ của
ba thủ tướng gần đây: Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải và Nguyễn Tấn Dũng.
Nếu như ông Võ Văn Kiệt và ông Phan Văn Khải nhấn mạnh vào quá
trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cố gắng đưa vòi bạch tuộc của nhà nước
ra khỏi nền kinh tế, thì ông Nguyễn Tấn Dũng lại muốn nhóm các doanh nghiệp này
lại thành những “quả đấm thép”.
Đi xuống cấp bộ trưởng, có thể thấy vấn đề này rõ ràng hơn.
Đơn cử như Bộ Giáo dục: đúng 10 năm trước, chúng ta có đề án “hai
không”, nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Năm
đầu tiên thực hiện, từ 94% học sinh đỗ tốt nghiệp THPT năm 2006, con số này
giảm xuống còn 66% trong kỳ thi 2007 (tăng lên 80% sau kì kỳ thi “vớt”). Ba năm
tiếp theo, không có năm nào vượt qua thành tích quen thuộc 90%.
Thế nhưng kể từ năm chuyển giao nhiệm kỳ (2010), tỷ lệ này vọt lên
ngoạn mục đến 99% năm 2014, và chỉ chịu giảm xuống 93% vào năm ngoái.
Có một sự trùng hợp là sự tiến bộ trong thành tích tốt nghiệp này
đi cùng với sự thay đổi về trọng tâm của ngành giáo dục. Nếu như nhiệm kỳ của
Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh đến chống tiêu cực, thì từ khoá trong
nhiệm kỳ của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận là “trận đánh lớn” với liên tiếp những cuộc
cải cách, từ tuyển sinh cho đến sách giáo khoa, gây nhiều tranh cãi. “Hai số
không” không còn là ưu tiên số một nữa.
Người thay thế ông, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ quay về với quan điểm
con người là trung tâm. Người ta đang nín thở chờ ý tưởng của ông sẽ được hiện
thực hoá ra sao. Những câu chuyện tương tự không khó để tìm thấy ở các bộ,
ngành khác.
Đâu là giới hạn cho “ý tưởng”?
Tất nhiên, lãnh đạo khác nhau thì sẽ có những ý tưởng khác nhau,
đó là điều không thể tránh khỏi ở bất kỳ thể chế nào. Nhưng một chiến lược phát
triển đúng đắn, dài hạn đôi khi cần nhiều hơn một nhiệm kỳ.
Nhìn vào một ví dụ về cải cách doanh nghiệp nhà nước như trên,
điều gì sẽ xảy ra nếu người đứng đầu thực hiện chưa xong ý tưởng thì nhiệm kỳ
kết thúc? Và thậm chí ý tưởng đó bị bẻ ngoặt, dù cho đang được thực hiện hiệu
quả?
Kết quả dễ thấy nhất sẽ là nguồn lực bị phân tán liên tục cho
những mục tiêu dang dở, dẫn đến chuyện “vừa mất phu nhân lại thiệt quân”. Bởi ý
tưởng mới tất nhiên sẽ cần nguồn lực, là tiền bạc và con người, để thực hiện.
Chưa tính đến vấn đề lợi ích nhóm (hay tham nhũng), khi ý tưởng không hiệu quả,
căn bệnh nhiệm kỳ sẽ tạo ra một chuỗi các cuộc cách mạng nửa vời, hao tổn nguồn
lực mà không đi đến đâu.
Chính vì thế, tạo ra các quy chế buộc lãnh đạo mới phải có trách
nhiệm với chính sách của mình, bất kể nhiệm kỳ kết thúc lúc nào, là rất cần
thiết. Quan trọng hơn, ý tưởng mới cần phải được mổ xẻ một cách kỹ lưỡng trước khi
được thông qua. Trong các hệ thống nhà nước hiệu quả, quy chế đó gọi là “trách
nhiệm giải trình” của lãnh đạo.
Thời gian còn ở Anh, tôi có dịp được chứng kiến hoạt động rất thú
vị của “shadow cabinet” (nội các đối lập), nhóm các nhà lãnh đạo của phe đối
lập với từng “bộ trưởng đối lập” (shadow minister) theo dõi và phản biện các
chính sách của bộ trưởng “xịn”.
Họ tranh luận thường xuyên trên TV như một show
truyền hình thực tế. Điều này khiến cho các nhà xây dựng chính sách phải hết
sức cẩn trọng và có trách nhiệm với ý tưởng của mình, nếu như không muốn bị làm
bẽ mặt, hay thậm chí là mất chức.
Tất nhiên, mỗi một quốc gia đều có những nét đặc thù, cái hay của
nước này không dễ đem áp dụng một cách cơ học cho nước khác. Thế nhưng, hệ
thống nào cũng cần những tiếng nói phản biện độc lập để đảm bảo góc nhìn chính
sách không bị thiên lệch và nâng cao trách nhiệm giải trình của những người
đứng đầu.
Ở Trung Quốc, đã có một số trường hợp các ứng viên ngoài Đảng được
cho phép giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp (bộ trưởng). Quá trình dân chủ hóa ở
Đài Loan cũng bắt đầu với việc cho phép các ứng viên độc lập được vào Lập pháp
viện (Quốc hội) từ những năm 1970.
Nhìn vào kết quả hiệp thương lần ba, tôi ước giá như các ứng viên
tự ứng cử ở Việt Nam có được nhiều cơ hội hơn, thì có lẽ vai trò “giám sát” của
Quốc hội sẽ được tăng lên rất nhiều. Điều đó đã không xảy ra. Xoá sổ căn bệnh
nhiệm kỳ, vì thế, có lẽ chỉ trông chờ vào năng lực tự thân của các lãnh đạo, ít
nhất là trong 5 năm tới.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo tự do
sống tại Hà Nội.
Xe công nghiệp
bao gồm xe buýt, xe tải và xe ủi đất trong một cuộc triển lãm thương mại bốn
ngày tại Hà Nội ngày 12 tháng 6 năm 2013, về các sản phẩm sản xuất tại các tỉnh
phía nam của Quảng Tây Trung Quốc.
AFP PHOTO
Trong quý 1/2016, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất
của Việt Nam.
Số liệu mới nhất vừa được Tổng Cục Hải Quan Việt Nam công bố cho
thấy trong 3 tháng đầu năm nay, tổng số hàng nhập khẩu là 37,4 tỷ dollars, trong
đó số hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm 10,7 tỷ dollars, tức 28%.
Công bố của Tổng Cục Hải Quan cho thấy tất cả những mặt hàng Việt
Nam nhập khẩu nhiều nhất đều xuất xứ từ Trung Quốc, từ máy móc, máy vi tính, linh kiện điện tử,
cho đến nguyên liệu dệt may.
Công bố này cũng cho thấy sau số tiền nhập khẩu hàng từ Trung Quốc
là hàng Việt Nam mua từ Hàn Quốc, khu vực ASEAN, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Một cửa hàng
quần áo bán các sản phẩm sản xuất trong nước ở trung tâm thành phố Hà Nội ngày
29 tháng 10 năm 2014.
AFP PHOTO
Khó có nền kinh tế nào có thể cất cánh trong tình trạng doanh nghiệp
chết hàng loạt, giải thể hay ngừng hoạt động. Giới chuyên gia mô tả tình trạng
bất bình thường, qua sự kiện 46% doanh nghiệp ngừng hoạt động trong vòng 10 năm
qua.
Theo các số liệu chính thức của các cơ quan chuyên môn như Tổng
cục Thống kê, Cục Quản lý kinh doanh, Bộ Kế hoạch Đầu tư, riêng trong năm 2015,
số doanh nghiệp phải ngừng hoạt động là hơn 71.000 đơn vị, tăng hơn 22% so với
năm trước. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động gia tăng hàng năm, đến nỗi
có sự ví von là một doanh nghiệp ra đời chưa kịp tham gia thị trường, thì lại
có một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, gặp khó khăn, lâm cảnh nợ nần và phải ngừng
hoạt động.
Việt Nam nên nghiên cứu một tổ chức giúp đỡ cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ, vì đây thể hiện hơn 90% tổng số doanh nghiệp.
- Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành
Có nhiều nguyên do để doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phải rời sân
chơi thị trường, thứ nhất là cạn vốn
mà không có chỗ để vay thêm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì giá thành cao, phẩm chất hàng hóa chưa tốt vì công nghệ lạc hậu,
năng suất lao động thấp. Ngoài thuế và phí theo
qui định, tất cả doanh nghiệp ở Việt Nam dù công hay tư đều phải chấp nhận những khoản chi tiêu không chính
thức, không biết kê vào mục nào.
Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, một Việt Kiều về nước làm
việc ở Hà Nội từ hơn 20 năm qua, nhận xét về nguyên nhân mà ông cho là lớn nhất
khiến các doanh nghiệp tư nhân chết hàng loạt.
“Khó khăn lớn nhất là các doanh nghiệp ấy chưa có được sự
hỗ trợ của nhà nước để phát triển từ nhiều mặt. Thí dụ doanh nghiệp chưa
tiếp cận được nguồn vốn, nếu tiếp cận được thì lãi suất vẫn còn quá cao.
Vì vậy trong thời gian tới cần có chính sách tiền tệ như thế nào để cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất hợp lý. Ngoài ra Việt
Nam nên nghiên cứu một tổ chức giúp đỡ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì đây thể
hiện hơn 90% tổng số doanh nghiệp. Nhà nước nói là tạo mọi điều kiện để cho
doanh nghiệp phát triển, thế thì mọi điều kiện đó là cái gì…Nhà nước cần ngồi
lại với các doanh nghiệp để đưa ra những quyết sách mới…”
Trò chuyện với chúng tôi, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nguyên thành
viên Ban Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Phan Văn Khải, từng phân tích là về
nguyên tắc, nguồn tín dụng trên thị trường mà các doanh nghiệp tư nhân trông
chờ có thể bị giảm đi khá nhiều, vì các nhà đầu tư đi tìm lợi nhuận cao hơn và
chắc chắn hơn, thông qua việc mua trái phiếu chính phủ được phát hành rất nhiều
trong thời gian qua. Trong dịp đề cập tới những vấn đề bất ổn đang giăng bẫy
nền kinh tế Việt Nam, chuyên gia Phạm Chi Lan từ Hà Nội nhận định:
“Về khu vực tư nhân trong nước thì rất nhiều doanh nghiệp bị ngừng
hoạt động, số ngừng hoạt động cứ tiếp tục tăng lên. Nhiều doanh nghiệp lớn hơn
không phải ngừng hoạt động, tình trạng hoạt động khá hơn thì lại đi bán cho các
công ty khác qua các thương vụ mua lại sáp nhập… Chính sách của nhà nước vẫn thiên về hỗ trợ
nhiều hơn cho khu vực đầu tư nước ngoài, thay vì khu vực tư nhân trong nước…”
Một cửa hàng tiện lợi Hàn Quốc ở trung tâm thành phố Hà Nội, ảnh
chụp ngày 08 tháng 12 năm 2015.
Theo báo cáo thường niên Doanh nghiệp Việt Nam 2015 do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phổ biến, tổng số doanh nghiệp đã đăng ký thành
lập vào khoảng 941.000 đơn vị, tính từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực năm
2000. Riêng trong giai đoạn từ 2007 đến 2015 tổng số doanh nghiệp ngừng hoạt
động lên tới 428.000 đơn vị tương đương 45,5% tổng số doanh nghiệp. Như vậy
tính đến cuối năm 2015 Việt Nam đang có khoảng 513.000 doanh nghiệp, đại đa số
là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh các vấn đề thuộc về chính sách như thuế, phí và tỷ giá, doanh
nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi thủ tục hành chính nhiêu khê và bất hợp lý. Vấn đề
này vô hình chung góp phần tăng thời gian và chi tiêu của doanh nghiệp. Báo chí
Việt Nam thường ví von thủ tục hành chính: hành là chính, còn nguyên Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thì từng cám cảnh, thủ tục bây giờ ác độc lắm không
có tiền là không xong.
Trong xu hướng cải cách ở Việt Nam, chuyên gia Bùi Kiến Thành cho rằng
việc cần làm ngay là cải cách một cách thực chất về thủ tục hành chính. Ông
nói:
“Lãnh đạo nhà nước đã nói bế tắc lớn nhất của chúng ta là vấn đề thủ
tục hành chính chưa được khai thông. Cho nên cải cách hành chính là vấn đề ưu
tiên hàng đầu đối với việc quản lý nhà nước. Như vậy đã biết hướng đi rồi còn
lại là cải cách hành chính như thế nào. Ở cấp Trung ương phải làm gì, ở cấp địa
phương thực hiện ra sao, đi đến chỗ những người tiếp cận với nhân dân có thái
độ như thế nào để được nhân dân ủng hộ. Việc này không chỉ thay đổi tư duy mà
còn là phong cách xử lý trong quan hệ với dân, để cho nhà nước và nhân dân gần
nhau hơn, có được sự hợp tác chặt chẽ giữa nhân dân và nhà nước để có thể vươn
lên, việc này là ưu tiên hàng đầu…”
Được biết Chính phủ Việt Nam đã tiến hành cải cách hành chính theo
nghị quyết 30 năm 2011. Cho đến nay, kế hoạch này đã đi nửa đoạn đường 2011-2020
nhưng kết quả đạt được không đáng kể. Tình trạng này đã được các đại biểu Quốc
hội khóa 13 nhận xét nặng nề, trong kỳ họp cuối cùng trước khi mãn nhiệm.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành tiếp lời:
Chính sách của nhà nước vẫn thiên về hỗ trợ nhiều hơn cho khu vực
đầu tư nước ngoài, thay vì khu vực tư nhân trong nước.
- chuyên gia Phạm Chi Lan
“Muốn cải cách hành chính thì cải cách thể chế như thế nào. Cái gì
cần cải cách trong thể chế, cái gì cần phải đưa ra trong những qui định mới,
trong việc xử lý công việc của các bộ các ngành như thế nào, tổ chức ra những
cơ chế gì để ủng hộ doanh nghiệp phát triển, cơ chế gì để cho nhân dân có thể
tham gia phát triển, không chỉ kinh tế mà thôi mà còn về vấn đề tự do, phát huy
dân chủ, làm chủ đất nước...”
Tệ nạn tham nhũng làm suy yếu hệ thống công quyền và mất niềm tin
của nhân dân. Trong các cuộc hội thảo, giới chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp
phản ánh rất nhiều về tình trạng phải thực hiện các khoản chi không chính thức.
Riêng ông Bùi Kiến Thành mô tả tham nhũng ở Việt Nam là một quốc nạn, mà đã đến lúc phải có các nỗ lực quyết liệt để
giảm bớt tình trạng này. Ông nói:
“Phòng chống tham nhũng cần phải làm quyết liệt hơn các thời trước,
phải có phương pháp nào để trên bảo dưới phải nghe…phải có kỷ cương phép nước
như thế nào, để cho các công chức nhà nước thực sự phục vụ nhân dân chứ không
phải là lãng quên trách nhiệm của mình là người phục vụ nhân dân…”
Vấn đề doanh nghiệp chết hàng loạt có xu thế gia tăng trong thời
gian tới. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thông báo, tân Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đồng ý tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp tư nhân dự kiến vào
cuối tháng 4/2016 sắp tới tại Dinh Thống Nhất Saigon. Tân Thủ tướng mong muốn
lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp để tìm giải pháp phát triển, trong bối cảnh đã
có tới 428.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động vì khó khăn trong 10 năm qua.
Hồ sơ Panama Papers, cho đến thời điểm này, chưa thấy tiết lộ
thông tin gì liên quan Việt Nam nhưng tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận Global Financial
Integrity (GFI, Washington DC; được thành lập năm 2006 với mục đích khảo sát
dòng tiền phi pháp tuồn ra nước ngoài của các quốc gia, đặc biệt các nước đang
phát triển) đã thống kê số tiền phi pháp được tuồn khỏi Việt Nam. Báo cáo GFI
công bố tháng 12-2015 cho biết, từ năm 2004 đến 2013, các nước đang phát triển
thất thoát đến 7,8 ngàn tỷ USD với tỉ lệ tăng trung bình 6,5%/năm - gấp đôi tỉ
lệ GDP toàn cầu.
Dòng chảy tài chính bất hợp pháp (illicit financial flows) được
định nghĩa là những phi vụ chuyển tiền hoặc vốn từ nước này đến nước kia. Gọi là
“bất hợp pháp” bởi nguồn tiền được chuyển là tiền có được từ những hoạt động
phi pháp chẳng hạn buôn lậu hoặc tham nhũng. Việc lập công ty ma ở những thiên
đường trốn thuế được xem là phi pháp và việc cắn xé nguồn vốn ODA để tư túi và
chuyển cất ở nước ngoài tất nhiên cũng không hợp pháp. Với Việt Nam, báo cáo GFI cho biết, dòng tiền
phi pháp chảy ra nước ngoài đã tăng liên tục:
Năm 2004: 4,034 tỷ USD
Năm 2005: 4,665 tỷ USD
Năm 2006: 4,964 tỷ USD
Năm 2007: 5,473 tỷ USD
Năm 2008: 7,633 tỷ USD
Năm 2009: 13,054 tỷ USD
Năm 2010: 8,358 tỷ USD
Năm 2011: 11,967 tỷ USD
Năm 2012: 14,940 tỷ USD
Năm 2013: 17,837 tỷ USD
Tổng cộng: 92,935 tỷ USD (tức
trung bình 9,293 tỷ USD/năm)
Trong bài viết trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn (1-4-2016), kinh tế
gia Vũ Thành Tự Anh cho biết, “trong 20 năm trở lại đây, chưa bao giờ bức tranh
ngân sách xấu như bây giờ”. Không chỉ vậy, nợ công Việt Nam đang tiến đến ngưỡng
“chết chùm”. Chiếc đồng hồ đo nợ công toàn cầu (cập nhật liên tục) của The
Economist (truy cập ngày 12-4-2016) cho biết, nợ công Việt Nam hiện là 94.854.098.361 USD, tức mỗi đầu người, bất luận trẻ nhỏ hay cụ
già, ông bán vé số hay cô nhân viên ngân hàng, phải gánh khoản nợ công là
1.039,67 USD. Điều trớ trêu là con số tổng thất thoát tài chính Việt Nam từ 2004 đến 2013 như nói ở
trên (92,935 tỷ USD), mà tất nhiên người
nghèo không hề liên quan, lại khá gần bằng với con số tổng nợ công (hơn 94,854
tỷ USD).
Trong bối cảnh kinh tế co thắt và khủng hoảng ngân sách sâu, bởi
chủ yếu tình trạng thu chi bừa bãi và lạm dụng nguồn vốn vay ODA, tức một nền
kinh tế cực kỳ bấp bênh không an toàn, người giàu chắc chắn còn tiếp tục chuyển
tiền và tài sản ra nước ngoài, hợp pháp lẫn bất hợp pháp, như cơn sốt diễn ra
lâu nay. Dòng tiền này dường như không được giám sát hoặc ngăn chặn. Cần biết,
tổng ngân sách cho giáo dục năm 2015 là gần 225.000 tỷ đồng. Trong khi đó, mỗi
năm lại có 9,293 tỷ USD (khoảng 207.187 tỷ đồng) được chuyển ra nước ngoài, một
cách bất hợp pháp. Ai chuyển và bằng cách nào? Dĩ nhiên khi liệt kê hơn 140
quốc gia và công bố các thương vụ chuyển tiền ra nước ngoài bất hợp pháp hàng
năm, GFI phải có nguồn. Họ không thể công bố bừa bãi mà không có bằng chứng. Chẳng
phải tự nhiên mà Ngân hàng Thế giới tuyên bố ngưng cho vay ODA từ năm sau
(2017).
Ngân sách khô hạn, tài chính quốc gia lại bị “xuất huyết”, đất
nước xác xơ chỉ còn lại những tấm lưng nghèo. Người dân tiếp tục đối mặt với nợ
chồng nợ, theo đà cơn sốt lễ hội tốn kém quanh năm và những công trình tượng
đài chưa bao giờ mang lại phúc lợi xã hội và đóng góp cho tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế. Không dính dáng gì đến những cuộc “nhậu ngân sách” điên cuồng vô tội
vạ, người dân bây giờ lại bị buộc phải “đổ vỏ”, phải gánh cái khoản nợ chết
tiệt mà họ chưa bao giờ có trách nhiệm gây ra.
Con số ước tính dòng tiền phi pháp chảy khỏi Việt Nam mỗi năm.
BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP
-
https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/
https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM
Chuyện Xứ Xã Nghĩa
rpedn...