Formosa
cần bồi thường cho nhân zân Vietnam: 1kỹ
USD
hay là (aka): 1,000 tỷ USD
hay là (aka): 1,000,000 triệu USD
và đóng cửa công ty Formosa,
Hà Tĩnh
TS Nguyễn Thị Hải Yến,
CHLBĐ
Cơ sở
khoa học tính toán thiệt hại thảm họa sinh thái tại vùng biển miền Trung Việt
Nam từ thảm họa Formosa Vũng Áng:
1
kỹ USD aka
1,000
tỷ USD và không Formosa.
Cấu trúc bài viết này
gồm 5 phần:
- Phần 1: cung
cấp thông tin về lượng và chất các hệ sinh thái biển Việt Nam, đặc biệt là ở
dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ thảm họa Formosa
Vũng Áng. Mục đích cung cấp cho cơ sở tính toán thiệt hại;
- Phần 2: cung
cấp phương pháp tính toán các giá trị của các hệ sinh thái biển làm cơ sở
chuyển đổi sang các giá trị thiệt hại;
- Phần 3: cung
cấp chi tiết tính toán thiệt hại về mặt sinh thái của các hệ sinh thái dọc bờ
biển 4 tỉnh miền Trung làm cơ sở để Việt Nam yêu cầu Formosa bồi thường thiệt
hại. Đồng thời cũng cung cấp thông tin để thấy rằng sự thiệt hại môi trường và
tài nguyên khủng khiếp như thế nào, từ những chính sách đầu tư ngu xuẩn. Cũng
là thông điệp để các nhà đầu tư đã, đang và muốn có đầu tư vào Việt Nam cần
phải cẩn trọng cam kết bảo vệ môi trường thay vì lợi dụng chính quyền, qua mặt
người dân;
– Phần 4: cung
cấp thông tin về việc sử dụng tiền cho việc đền bù, đặc biệt là công việc bảo
đảm an sinh của ngườì dân và nghiên cứu khoa học nhằm phục hồi lại chức năng
sinh thái của các hệ sinh thái biển;
- Phần 5: kết
luận và yêu cầu.
1. Phân bố và
những giá trị của các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, cỏ biển và san hô) của
Việt Nam
1.1. Đa dạng sinh
học biển Việt Nam
Vùng biển Đông Nam Á
được đánh giá là vùng biển bậc nhất của của hệ sinh thái biển trên thế giới về
mức độ đa dạng thành phần loài sình vật. Hình 1 bản đồ hệ số đa dạng sinh học
dựa trên chỉ số Shannon’s Index (SI) (hệ số đo lường mức đa dạng về thành phần
giống loài các sinh vật biển) được Tổ chức Môi trường Thế giới UNEP đánh giá và
xếp loại năm 2014. Nằm giáp ngay với Philippines và gần với Indonesia, tuy
nhiên, mức độ đa dạng sinh học của hệ sinh thái biển của Việt Nam lại kém hơn
rất nhiều so với mức độ đa dạng sinh học của Philippines và Indonesia. Điều này
là do yếu tố kiến tạo địa tầng tự nhiên. Vùng biển từ Quảng Ngãi ra tới Quảng
Ninh và vùng biển Kiên Giang chỉ số SI được đánh giá từ 5,4 đến 6,5 với vùng mở
rộng ra cả vùng bên ngoài quần đảo Hoàng Sa hoặc sang tới vùng biển của
Campuchia. Tuy nhiên, vùng từ Quảng ngãi trở vào Vũng Tàu, chỉ số SI không thay
đổi nhưng chỉ một dải hẹp sát bờ, còn lùi ra vài chục km mức độ đa dạng sinh
học đã giảm xuống chỉ ở mức 4,3 đến 5.4. Đặc biệt vùng biển của vùng ĐBSCL
(Đồng bằng sông Cửu Long), chỉ số SI chỉ còn đạt 3,2 đến 4.3 [1].
1.2. Hệ sinh thái
rừng ngập mặn
Việt Nam là quốc gia có
đường bờ biển kéo dài dọc đất nước lên đến 3,290 km. Tuy nhiên, sự phân bố và
độ phủ (diện tích) cũng như năng suất sinh học của hệ sinh thái rừng ngập mặn
(RNM) của Việt Nam lại rất hẹp và thấp. Hình 2. Phân bố và năng suất sinh học
(NSSH) RNM chủ yếu phân bố ở vùng ĐBSCL.
NSSH của RNM ở vùng ĐBSCL và vùng miền
Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng tuy chỉ ở mức trung bình của thế giới nhưng lại là
những vùng có NSSH cao của RNM Việt Nam. Vùng RNM của các tỉnh ven biển phía
bắc NSSH tương đối thấp. Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham
gia rừng ngập mặn [2]. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (BTB), gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế) có 30.974 ha đất
ngập mặn, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha đất nuôi trồng thủy sản (NTTS),
và 26.584 ha đất tiềm năng trồng RNM hoặc NTTS [3].
Hình 2: Bản đồ phân bố và
năng suất sinh học rừng ngập mặn Việt Nam năm 2014 (Nguồn: UNEP) [4].
1.3. Hệ sinh thái
cỏ biển
Khác với các loài rong
biển là thực vật bậc thấp. Cỏ biển là những thực vật bậc cao, tổ chức cơ thể
phân chia thành thân rễ lá. Hệ sinh thái cỏ biển thường phân bố rất rải rác nơi
nền đáy cát, hoặc cát với rất ít bùn, nhiều ánh sáng. Cỏ biển phân bố ở vùng
nước sâu thường không quá 6 m. Thành phần loài cỏ biền rất ít. Hình 3 cho thấy
ở vùng biển đa dạng nhất Philippines chỉ đạt 12-15 loài.
Ở vùng biển Bắc Trung
Bộ của Việt Nam số loài chỉ đạt ở mức 3-6, vùng từ Phú Yên đến Ninh Thuận thành
phần loài có thể tăng lên đến 7-9. Trong khi đó vùng bờ biển của ĐBSCL nơi biển
đục do phù xa nhiều không là môi trường thích hợp cho những loài cỏ biển sống
đáy cần nhiều ánh sáng để quang hợp phát triển. Ở Việt Nam đã tìm được 16 loài
cỏ biển. Diện tích cỏ biển tại 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ
thảm họa Formosa Vũng Áng là 2.170 ha (Bảng 1)
Bảng 1: Diện tích cỏ
biển phân bố ở vùng biển 4 tỉnh miền Trung Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế
và Đà Nẵng [5].
Hình 3: phân bố (năm
2015) và mức độ đa dạng thành phần loài (năm 2003) của hệ sinh thái cỏ biển ở
Việt Nam (Nguồn: UNEP) [6].
1.4. Hệ sinh thái
san hô
Hệ sinh thái san hô, đó
là một hệ sinh thái đặc thù, ở đó san hô là những loài động vật phát triển nên
một nền đáy đá, đá vôi, là động vật nhưng các loài san hô đều phải sống cộng
sinh với các loài tảo (ngoại trừ các loài san hô sừng phát triển ở các vùng
biển sâu).
Chính vì thế, hệ sinh thái san hô thường phân bố ở những vùng biển
có độ sâu không quá 30 m, nơi cường độ ánh sáng trong nước có thể đáp ứng như
cầu quang hợp của các loài tảo sống cộng sinh. Hình 4 biểu diễn sự phân bố của
san hô ở biển Việt Nam và ở 4 tỉnh miền Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng [7].
Hình 4: Phân bố của hệ sinh
thái san hô ở vùng biển Việt Nam và 4 tỉnh miền Trung năm 2015 (Nguồn:
UNEP)
Theo số liệu của UNEP
thì tổng diện tích phân bố của san hô toàn cầu là 284.300 km2. Indonesia và
Philippines là hai quốc gia có diện tích san hô lớn nhất khoảng hơn 20.000 km2.
Trong đó Việt Nam đứng ở vị trí 35 về diện tích san hô trên thế giới, với tổng
diện tích là 1270 km2 so với Indonesia và Philippines. Trung Quốc đứng thứ 31
với diện tích là 1510 km2 [8].
Vùng biển Việt Nam
tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân
bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở
vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun-Khánh Hòa. Sống
cùng với hệ sinh thái này là trên 2000 loài sinh vật đáy và cá trong
đó khoảng 400 loài cá san hô cùng nhiều hải sản có giá trị kinh tế cao
như tôm hùm, bào ngư, trai ngọc, hải sâm… Ở Vịnh Hạ Long, phát hiện được 205
loài san hô cứng, 27 loài san hô mềm. Ở Côn Đảo, có 219 loài san hô, tập trung
thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá san hô [9].
Cùng với hai hệ sinh
thái RNM và cỏ biển, hệ sinh thái san hô đóng góp giá trị kinh tế cao nhất hành
tinh về giá trị sinh thái. Nếu quản lý tốt 1 km2 hệ sinh thái san hô hàng năm
có thể cung cấp 15 tấn cá và các loại đặc hải sản. Giá trị sinh thái và giá trị
về đa dạng sinh học của hệ sinh thái san hô (TEEB = the Economisc of Ecosystems
and Biodieversity) là khoảng 1.25 USD/ha/năm từ dịch vụ du lịch, bảo vệ đới bờ,
bảo vệ sinh học và nguồn lợi thủy sản [10].
2. Phương pháp
đánh giá các giá trị kinh tế của các hệ sinh thái biển
Một nghiên cứu tổng kết
đánh giá những giá trị sinh thái của 9 hệ sinh thái đặc biệt toàn cầu dưới sự
kết hợp giữa các trường đại học đến từ Mỹ, Anh, Châu Âu và các tổ chức Liên
Qiệp Quốc như UNEP và Viện Nghiên cứu Tài nguyên môi trường của Châu Âu năm
2012 đăng trên tạp chí Ecosystem
Service, Elsevier [11]. Dựa vào kết quả của 320 nghiên cứu cho 300 điểm
nghiên cứu cứu trên toàn cầu, với bốn nhóm thông số của 22 thông số (Bảng 2) và
chi tiết hóa thành 90 thông số cụ thể để đo lường giá trị sinh thái của 10 loại
hình sinh thái.
Bảng 2: Các nhóm và
thông số đánh giá giá trị
10 loại hình sinh thái
đặc trưng được tổng kết từ 300 điểm nghiên cứu bao gồm: 1) Vùng biển xa bờ =
open sea (14); 2) Hệ sinh thái san hô = coral reefs (94); 3) Hệ sinh thái ven
bờ = coastal systems (28); 4) Hệ sinh thái đất ngập nước ven biển = coastal
wetlands (139); 5) Hệ sinh thái đất ngập nước ngọt = inland wetlands (168); 6)
Hệ sinh thái sông hồ = Rivers and lakes (15); 7) Hệ sinh thái rừng nhiệt đới =
tropical forest (96); 8) Hệ sinh thái rừng ôn đới = temperate forest (58); 9)
Hệ sinh thái rừng gỗ = woodlands (21); 10) Hệ sinh thái đồng cỏ = grass lands
(32). Các giá trị trung bình, lớn nhât và nhỏ nhất của mỗi loại hình sinh thái
biểu diễn ở Bảng 3. Bốn hệ sinh thái trong khung màu đỏ là các hệ sinh thái
biển. Sẽ được sử dụng để thảo luận và tính toán cho Phần 3 áp dụng cho đánh giá
thiệt hại của thảm họa Formosa Vũng Áng.
Bảng 3: Giá trị sinh
thái của 10 loại hình sinh thái (USD/ha/năm tính vào thời điểm giá USD năm
2007)
Việc tính toán này được
tính theo các tỷ số để cần bằng tôi đa giữa các vùng miền, giữa các hệ sinh
thái, và được qui đổi từ tiền địa phương ra đồng Đô la tại thời điểm năm 2007.
Như vậy:
Hệ sinh thái vùng biển
xa bờ có tổng số giá trị kinh tế là 491 USD/ha/năm,
thấp nhất trong 4 hệ sinh thái biển và ven bờ. Trong đó có giá trị tổng và các
giá trị cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 491 USD = 102 + 65 + 5 +
315 USD.
Hệ sinh thái san hô
có giá trị vượt lên rất nhiều so với các hệ sinh thái khác. Trong đó tổng giá
trị và lần lượt các giá trị đóng góp cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 352.249 USD = 55.724 +
171.478 + 16.210 + 108.837 USD.
Hệ sinh thái ven bờ
có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847
+ 375 + 300 USD.
Hệ sinh thái đất ngập
nước ven bờ
có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 +
175.515 + 17.138 + 2.193 USD
Kết quả chi tiết giá trị
đóng góp của mỗi loại hình sinh thái ứng với mỗi thông số của 4 nhóm thông số
và 22 thông số chi tiết với giá trị trung bình. Đây là bảng dữ liệu thuyết phục
để sử dụng tính toán cho thảm họa Formosa Vũng Áng thiệt hại lên các hệ sinh
thái ven biển 4 tỉnh miền Trung, và cũng là cơ sở tính toán phân phối tiền đền
bù cho người dân, cũng như tiền lưu trữ cho an sinh xã hội liên quan đến sự mất
mát cho đến khi phục hồi của các hệ sinh thái này. Đa dạng sinh học và mức độ
phân bố của các hệ sinh thái biển Việt Nam hầu hết đều nằm ở ngưỡng trung bình
so với thế giới. Vì thế giá trị trung bình ở Bảng 4 là thuyết phục áp dụng cho
thực tế ở Việt Nam.
Bảng 4: Tính toán chi
tiết giá trị sinh thái cho mỗi 22 thông số của mười loại hình sinh thái
(USD/ha/năm)
3. Tính toán
thiệt hại sinh thái do thảm họa Formosa Vũng Áng
Theo thông báo của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà ngày 30 tháng 6 về thảm họa
Formosa Vũng Áng, thì tổng thiệt hại diện tích san là 400 ha, chiếm 50% diện
tích san hô phân bố ở 4 tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng. Mặc dù ông Trần Hồng Hà
cùng quan chức Chính phủ cho rằng hệ sinh thái RNM không bị ảnh hưởng và không
tính hệ sinh thái cỏ biển trong khu vực. Nhưng kết quả người dân cho biết nhiều
nơi RNM bị chết. Vì thế trong bài này việc tính toán được dựa trên diện tích
thống kê của các báo cáo khoa học trong nước.
Vùng biển xa bờ, tại
thời điểm này chưa có đánh giá về ảnh hưởng của chất thải Formosa đến vùng biển
xa bờ.
Hệ sinh thái san hô: 400
ha san hô đã bị chết, tại thời điểm chính quyền Hà Nội điều tra, tháng 5 và
tháng 6 năm 2016. Tuy nhiên, việc đánh giá ảnh hưởng lên hệ sinh thái san hô sẽ
còn phải tiếp tục. Những chỗ san hô chết hiện nay là do nồng độ quá cao của độc
tố, chết do sốc. Nhưng dư lượng của chất độc vẫn còn tồn dư nhiều trong trầm
tích đáy và rất nhiều hấp thụ vào những khoang cơ thể của san hô.
Chỉ cần một
lượng rất nhỏ [độc tố này – BVN] san hô sẽ âm thầm chết. Việc đánh giá ảnh hưởng của độc tố từ
xả thải của Fomosa xảy ra hồi đầu tháng 4 năm 2016 cần phải tiến hành lên hàng
chục năm. Việc tính toán thiệt hại ở bài viết này đối với hệ sinh thái san hô
mới chỉ dừng lại ở mức thiệt hại trước mắt.
Dựa vào thông tin Phần
2, 1 ha san hô một năm cung cấp 352.249 USD = 55.724 +
171.478 + 16.210 + 108.837 theo 4 nhóm thông số đánh giá ở trên ta sẽ
có kết quả áp dụng cho 400 ha, san hô bị phá hủy do thảm họa Formosa Vũng Áng
và áp dụng cho 50 năm với hy vọng sự phục hồi của hệ sinh thái san hô, kết quả
thu được như ở Bảng 5.
Hệ sinh thái ven bờ, chỉ
môi trường ven bờ nói chung. Với 20 hải lý (= 37,04 km) chiều ngang tính từ bờ
biển ra. Vùng ảnh hưởng mà độc tố đã quét dọc theo bờ biển 4 tỉnh miền Trung là
250 km.
Như vậy tổng
diện tích vùng ven bờ cũng là hệ sinh thái ven bờ là 30,04 km (rộng) × 250 km
(dài) = 9.260 km2 (=926.000 ha). Tính toán cho mặt nước, thì tổng diện
tích mặt nước sẽ là 926.000 ha. Và với hệ sinh thái ven bờ
có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847
+ 375 + 300 USD.
Vì dòng hải lưu và biển mở, nên trường hợp này tính
toán áp dụng cho 1 năm. Kết quả ở mục 3.1 Bảng 5. Tuy nhiên, ảnh hưởng vùng này
đối với hệ sinh thái nền đáy sẽ được trù đi diện tích cỏ biển là 2.170 ha, và
800 ha san hô, và cũng áp dụng cho ít nhất là 30 năm (cơ
sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả thiệt hại đối với hệ sinh thái ven biển
từ thảm họa Formosa Vũng Áng như mục 3.2 Bảng 5.
Ở Bảng 1, ta có 2.170 ha
hệ sinh thái cỏ biển nằm trong vùng bị tàn phá bởi thảm họa Formosa Vũng Áng.
Với kết quả từ Phần 2: Hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ có giá trị
tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 +
175.515 + 17.138 + 2.193 USD. Và cũng áp dụng cho 30 năm (cơ
sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả như ở Bảng 5.
Ở mục 1.2, ta có có
30.974 ha đất ngập mặn nằm trong vủng Bắc Trung Bộ, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha
đất nuôi trồng thủy sản (NTTS), và 26.584 ha đất chưa sử dụng. Và cũng
áp dụng với hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ, và 30 năm như tình
toán cho cỏ biển. Ta sẽ có kết quả lần lượt cho giá trị thiệt hại lên RNM, đất
NTTS và đất chưa sử dụng như mục 4.2, 4.3 và 4.4 Bảng 5 như sau.
Bảng 5. Thiệt hại sinh
thái của thảm họa Formosa Vũng Áng lên hệ sinh thái biển đọc 4 tỉnh miền Trung
(đơn vị: USD)
Ghi
chú: (NA: không áp dụng)
4. Sử dụng và
quản lý tiền đền bù
Theo phương pháp tính
toán như ở Phần 2 và kết quả ở Bảng 5, thì:
4.1. Sử dụng
+ Số tiền thiệt hại hơn
70 tỷ USD ở cột (1) Bảng 5, là những giá trị được
tính bằng những giá trị hàng hóa, có giá cả trực tiếp ở thị trường (direct
market values). Phần này chính là nguồn tài nguyên phục vụ trực tiếp cho những người dân có những
hoạt động liên quan đến đánh bắt và tiêu thụ các sản phẩm do đánh bắt từ biển
ít nhất 50 năm, nghĩa là 3 thế hệ người Việt phải tối thiểu đam bảo cuộc sống
cũng gia đình như việc học hành của con cái. Phần này bổ sung cho phần tính
toán của luật sư Lê Văn Luân và Trịnh Mộc Thường [12, 13]. Một phần
sẽ được dùng chi trả cho việc nghiên cứu phục hồi nguồn dược liệu
và phục hồi nguồn gene từ môi trường biển.
Trong khi đó số thiệt
hại ở các cột (2) (3) (4) là những giá trị không trực tiếp từ thị trường
(indirect maker values), nó mang nặng giá trị chức năng phục vụ của các hệ sinh
thái.
+ Số tiền thiệt hại hơn
889 tỷ USD ở cột (2) Bảng 5, chính là sự thiệt hại vì
mất đi qui luật tự nhiên về chức năng cân bằng sinh thái. Nghĩa là sau khi bị
thảm họa, các hệ sinh thái biển này không còn chức năng tự nhiên của nó. Khoản
thiệt hại này chiến gần hết số tiền thiệt hại. Số tiền thiệt hại này sẽ được dùng
trong các hoạt động nghiên cứu và xây dựng cho mục đích phục hồi các chức năng
tự nhiên của các hệ sinh thái.
+ Số tiền thiệt hại hơn
27 tỷ USD ở cột (3) Bảng 5, chính là số sự thiệt
hại do các sinh vật mất đi vùng sinh sản, và sâu xa hơn là mất đi nguồn gene
khi quá trình sinh sản đã bị ảnh hưởng. Số tiền này sẽ được sử dụng trong các
nghiên cứu phục hồi các bãi sinh sản và vườn ươm sinh thái dưới đáy biển.
+ Số tiền thiệt hại hơn
12 tỷ USD ở cột (4) Bảng 5, chính là số tiền thiệt
hại đối với các dịch vụ du lịch và liên quan du lịch biển, và các nhu cầu về
giải trí nghệ thuật liên quan biển. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng
để chi trả cho các hoạt động du lịch biển, và các dịch vụ phục phụ du lịch kèm
theo. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhằm duy trì và
phát triển các loại hình nghệ thuật liên quan đến biển.
4.2. Quản lý
- Số tiền này sẽ được
quản lý bằng một ủy ban độc lập do dân bầu ra, thành phần là những người đại
diện của những nhóm bị tổn thương bao gồm cả các ngư dân, nhà khoa học, nhà
nghệ thuật…
- Nhóm đại diện quản lý
đại diện này phải xây dựng lộ trình và kế hoạch sử dụng số tiền này và các hoạt
động đảm bảo an sinh và phục hồi sinh thái cho chặng đường 30 và 50 năm.
- Tất cả mọi hoạt động
của ủy ban này cùng việc sử dụng số tiền này phải được trưng cầu và giám sát
của người dân.
5. Kết luận và
yêu cầu
- Áp dụng 50 năm phục
hồi của san hô và 30 năm phục hồi của các hệ sinh thái cỏ biển, RNM (chủ yếu là
nền đáy) thì tổng
thiệt hại qui ra USD sẽ là 1,000,553,486,297 (1kỹ USD aka 1,000 tỷ USD) không
bao gồm tiền nạo hút cải tạo môi trường.
Yêu cầu chính quyền csHà Nội cung cấp
báo cáo điều tra chi tiết để các nhà khoa học đánh giá độ tin cậy về thông báo
kết quả của chính quyền. Nếu không người dân có quyền
đòi Formosa bồi thường như tính toán trong bài viết này. Và quan trọng là KHÔNG FORMOSA.
- Việc áp dụng 30 năm
cho sự phục hồi đối với các hệ sinh thái cỏ biển, RNM, vùng ven biển và đất
ngập nước khác, là dựa trên cơ sở dữ liệu từ thảm họa thủy ngân ở Vinh
Minamita. Mức thiệt hại này sẽ giảm đi theo số năm, tùy thuộc vào mức độ hút
nạo đáy biển rửa tấy chất độc mà Formosa thực hiện.
- Yêu cầu chính quyền Hà Nội cung cấp
tên theo danh thức hóa học của gần 300 loại hóa chất mà Formosa nhập và sử dụng.
Từ đó sẽ giúp người dân và các nhà khoa học giám sát việc tẩy rửa chất độc mà
Formosa sẽ thực hiện.
- Bản tính toán này được
dựa trên mức tái tạo của hệ sinh thái san hô là 50 năm, và với diện tích 400
ha. Tuy nhiên, thực tế việc chính quyền Hà Nội kết luận chỉ 400 ha san hô bị
ảnh hưởng là không thỏa đáng. Những mảng san hô chưa bị chết trắng đang đứng đó
đã không còn chức năng sinh thái nữa, chúng có thể sẽ chết dần mòn trong tương
lai.
- Việc bỏ qua thiệt hại
về RNM và hệ sinh thái cỏ biển cũng như các hệ sinh thái khác, càng chứng tỏ
chính quyền Hà Nội không thực tâm trong việc kiềm soát xả thải của Formosa cũng
như việc bảo về tài nguyên thiên nhiên của VN.
N.T.H.Y.
__________
Chú
thích:
[9]http://www.biendong.net/the-gioi-dai-duong/tai-nguyen-bien/1366-tim-hiu-h-sinh-thai-rn-san-ho.html
[12] và [13] https://anhbasam.wordpress.com/2016/07/03/8999-uoc-tinh-mot-phan-thiet-hai-kinh-te-do-formosa-gay-ra/
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.