Trung
Quốc bác tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa
Phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Tần Cương nói 'Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình' và
rằng 'độ khả tín của nước này rất thấp'.
Tin liên hệ
Hình ảnh/Video
Trang ảnh
Biểu
tình trước Đại sứ quán Trung Quốc tại London
Ðường dẫn
CỠ CHỮ
Reuters
26.05.2014
Trung Quốc gọi tuyên bố
chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo tranh chấp ở Biển Đông là "hết sức
nực cười", sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế hôm thứ
Sáu nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo tin của thông tấn xã Reuters, trong buổi họp báo hôm thứ Hai, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa theo cách gọi của Việt Nam) đã là một phần lãnh thổ của Trung Quốc từ đời nhà Hán.
Ông Tần còn nói rằng “Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình” và rằng “độ khả tín của nước này rất thấp.”
Phát ngôn viên này viện dẫn công hàm năm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng mà, theo lời ông, ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc dâng cao đột biến trong những tuần gần đây sau khi Bắc Kinh đưa một giàn khoan vào khu vực Việt Nam nói thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Động thái này của Bắc Kinh khiến nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra khắp Việt Nam. Một số vụ bạo động làm vài công dân Trung Quốc thiệt mạng và gây thiệt hại cho hàng trăm doanh nghiệp do Trung Quốc sở hữu.
Theo tin của thông tấn xã Reuters, trong buổi họp báo hôm thứ Hai, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa theo cách gọi của Việt Nam) đã là một phần lãnh thổ của Trung Quốc từ đời nhà Hán.
Ông Tần còn nói rằng “Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình” và rằng “độ khả tín của nước này rất thấp.”
Phát ngôn viên này viện dẫn công hàm năm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng mà, theo lời ông, ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc dâng cao đột biến trong những tuần gần đây sau khi Bắc Kinh đưa một giàn khoan vào khu vực Việt Nam nói thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Động thái này của Bắc Kinh khiến nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra khắp Việt Nam. Một số vụ bạo động làm vài công dân Trung Quốc thiệt mạng và gây thiệt hại cho hàng trăm doanh nghiệp do Trung Quốc sở hữu.
Việt
Nam gìn giữ, bảo tồn và phát triển tài nguyên biển ra sao?
Gia
Minh, biên tập viên RFA
2014-05-25
2014-05-25
- In trang
này
- Chia
sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Biển Đông được bao bọc bởi 9 quốc gia gồm Trung Quốc, Philippines,
Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam.
RFA files
Việt Nam có vị trí địa lý là một quốc gia ven biển với đường bờ
biển kéo dài hơn 3000 kilomet.
Từ rất lâu, cụm từ ‘rừng vàng, biển bạc’ được sử dụng đế nói đến
nguồn tài nguyên phong phú của đất nước với một đại dương bao la như thế. Tuy
nhiên, gần đây dư luận dậy sóng vì tình hình Trung Quốc lấn lướt tuyên bố chủ
quyền những vùng biển mà lâu nay là ngư trường truyền thống cũng như là khu vực
khai thác dầu mỏ của Việt Nam.
Tuy nhiên tự thân Việt Nam đã gìn giữ, bảo tồn và phát triển
nguồn tài nguyên đó ra sao?
Vấn đề này được một số các chuyên gia ngành hải dương học Việt
Nam đánh giá trong chuyên mục Khoa học- Môi trường kỳ này và kỳ sau.
Nguồn tài nguyên biển
Tổng hợp tin tức từ nhiều nguồn đều cho thấy Biển Đông là khu
vực chứa đựng nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và có một vị trí quan trọng
đối với hoạt động lưu thông hàng hải…
Biển Đông có diện tích khoảng 3 447 000 kilomet vuông và là biển
lớn thứ ba trong số các biển trên Trái Đất. Biển Đông trải rộng từ vĩ độ 3 đến
vĩ độ 26 Bắc, và từ kinh độ 100 đến 121 Đông. Đây là một biển nửa kín được bao
bọc bởi 9 quốc gia gồm Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam.
Độ sâu trung bình của Biển Đông là 1140 mét. Vùng có độ sâu nhất
đo được 5559 mét. Những nơi có độ sâu hơn 2000 mét tại Biển Đông chiếm tổng
cộng một phần tư.
Tại vùng biển này cho đến nay đã phát hiện được khoảng 11 ngàn
loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong số này có
khoảng 6 ngàn loài động vật đáy, hơn 2 ngàn loài cá, hơn 3 ngàn loài san hô
cứng, hơn 650 loài rong biển…
Biển Đông có diện tích hơn 3400 triệu kilomet vuông và là biển
lớn thứ ba trong số các biển trên Trái Đất....Đây là một biển nửa kín được bao
bọc bởi 9 quốc gia gồm Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam
Biển Đông được xem là một trong 5 bồn trũng chứa dầu khí lớn
nhất thế giới. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định được nhiều bể
trầm tích có triển vọng dầu khí. Theo đánh giá của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ thì
lượng dự trữ dầu được kiểm chứng tại Biển Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản
xuất 2,5 triệu thùng mỗi ngày.
Biển Đông được đánh giá là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp
thứ hai của thế giới. Đây là tuyến giao thông biển nối liền Thái Bình Dương- Ấn
Độ Dương, Trung Đông- Châu Á, Châu Âu- Châu Á. Những quốc gia được cho phụ
thuộc lớn vào tuyến đường này gồm có Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan,
Singapore. Trong khu vực Đông Nam á có gần 530 cảng biển.
Du lịch biển cũng là một tiềm năng của khu vực Biển Đông. Riêng
Việt Nam có khoảng 125 bãi biển từ bắc xuống nam thuận tiện cho hoạt động du
lịch.
Rong biển và san hô (ảnh minh họa)
Hiện trạng khai thác
Vậy trong thời gian qua Việt Nam khai thác những tiềm năng lớn
lao đó của khu vực biển thuộc Việt Nam ra sao?
Giáo sư- Tiến sĩ Lê Đức Tố, Chủ nhiệm Công trình khoa học về
Công nghệ Biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội đánh giá:
Thông tin trên báo chí và truyền thông của Việt Nam nói đã
nhiều. Hiện nay trong nền kinh tế của Việt Nam, biển đóng vị trí quan trọng
nhưng biển chưa trở thành nguồn lực lớn nhất trong tất cả các nguồn lực của
Việt Nam. Tuy nhiên Nhà nước Việt Nam hiện đang phấn đấu trong một thời gian
ngắn đưa tiềm lực của biển trở thành nguồn lực lớn nhất cho phát triển kinh tế
của đất nước.
Do phát triển kinh tế trong vòng 20 năm gần đây, do nhận thức
của người dân về môi trường không được đầy đủ nên dẫn đến việc khai thác làm
cho cạn kiệt tài nguyên. Nhưng Việt Nam đã nhận thức được giá phải trả cho việc
khai thác bất hợp lý đó; hiện nay các địa phương đã suy nghĩ đến việc bảo tồn
các hệ sinh thái
GSTS Lê Đức Tố
Trong các nguồn lực của biển thì mọi người cũng đã hiểu không
những chỉ có nguồn lợi về thủy sản, nguồn lợi về khoáng sản ( trong đó có dầu
khí), nguồn lợi về giao thông, nguồn lợi về du lịch và các nguồn lợi khác liên
quan đến sự sống.
Do phát triển kinh tế trong vòng 20 năm gần đây, do nhận thức
của người dân về môi trường không được đầy đủ nên dẫn đến việc khai thác làm
cho cạn kiệt tài nguyên. Nhưng Việt Nam đã nhận thức được giá phải trả cho việc
khai thác bất hợp lý đó; hiện nay các địa phương đã suy nghĩ đến việc bảo tồn
các hệ sinh thái, ví dụ như vùng biển Vịnh Vân Phong, ven biển của Khánh Hòa,
hiện nay người dân tự nguyện đứng ra bảo tồn các hệ sinh thái trong vùng. Điều
đó đã đem lại một số kết quả. Thứ hai, một số vùng đảo người ta đã xây dựng
được các khu bảo tồn và duy trì được các hệ sinh thái làm cho nguồn lợi ở các
vùng đó được phục hồi. Điển hình như Cát Bà, rồi các vùng đảo Vịnh Bắc Bộ hiện
đã có các khu bảo tồn. Việc đó đóng góp lớn cho việc bảo tồn các hệ sinh thái
và môi trường vùng ven biển.
Chợ cá (ảnh minh họa)
Giáo sư Nguyễn Tác An, nguyên trưởng Viện Hải Dương học cho
biết:
Vừa qua Nhà nước Việt Nam bỏ ra rất nhiều tiền để triển khai các
nhiệm vụ gọi là bảo tồn và phát triển quĩ gien, kể cả sinh vật trên rừng- dưới
biển. Kết quả là tương đối có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm, vấn
đề tai biến nho nhỏ vẫn chưa quản lý được. Xu thế môi trường hiện đạt tiêu
chuẩn cho phát triển các ngành kinh tế, tuy nhiên cục bộ nhất là các vùng ở khu
công nghiệp, các khu đô thị lớn, các vùng cửa sông vẫn có hiện tượng ô nhiễm
cục bộ, xuất hiện hiện tượng ‘dung dưỡng hóa’ mặt nước. Đó là những biểu hiện
mang tính cục bộ nhưng cũng rất đáng lo ngại.
Các hệ sinh thái quan trọng như san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn
cũng đã được chú ý phục hồi; tuy nhiên vẫn chưa đạt được sự mong muốn của xã
hội.
Vừa qua Nhà nước Việt Nam bỏ ra rất nhiều tiền để triển khai các
nhiệm vụ gọi là bảo tồn và phát triển quĩ gien, kể cả sinh vật trên rừng- dưới
biển. Kết quả là tương đối có thể chấp nhận được. Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm, vấn
đề tai biến nho nhỏ vẫn chưa quản lý được
Giáo sư Nguyễn Tác An
Gíao sư Đinh Văn Ưu, Khoa Hải Dương Học, Đại học Hà Nội trình
bày:
Các công bố chính thức xưa nay chưa thay đổi gì nhiều; chỉ có
nếu nói tiềm năng biển- nói một cách đơn giản hơn là các tài nguyên của biển,
được đánh giá một cách đa dạng hơn. Trước đây chỉ có liên quan đến các nguồn
tài nguyên từ lòng đất, từ trong nước… Hiện nay đánh giá về tài nguyên vị thế,
tài nguyên du lịch… được toàn diện hơn nên chúng ta không thể chỉ dựa vào một
nguồn tài nguyên khoáng sản hoặc tài nguyên sinh vật mà đánh giá toàn diện hơn!
Ts Nguyễn Hữu Đại, trưởng phòng thực vật Biển, Viện Hải dương
học Nha trang nhận xét:
Theo nhận định của tôi thì nguồn tài nguyên biển càng ngày càng
suy giảm và hiện nay người dân tự vào bản năng, người ta tìm cách nuôi trồng.
Nguồn chính cho cung cấp là do nuôi trồng, còn nguồn chính thì càng ngày càng
cạn kiệt. Cạn kiệt một cách ghê gớm, nhanh chóng.
Trừ đánh bắt xa bờ ở vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay đảo Thổ
Chu ở phía nam, còn đánh bắt vùng ven bờ, vùng ven lục địa của mình thì cạn
kiệt tài nguyên hết; nhất là những đầm phá ven bờ của mình cạn kiệt toàn bộ.
Không được quản lý một cách chặt chẽ nên theo nhận định của tôi sắp đến nguồn
tài nguyên của mình sẽ bị suy giảm một cách ghê gớm lắm.
Người dân được sự hổ trợ một ít của Nhà Nước, còn lại do bản năng
họ phải nuôi trồng.
Chương trình Nhà nước
Trong thực tế, chính quyền Việt Nam cũng có những chương trình
nhằm khai thác nguồn tài nguyên biển thiên nhiên ban tặng cho Việt Nam, cũng
như hạn chế những tác động bất lợi nhằm bảo tồn và phát huy nguồn vốn quí đó.
Giáo sư- Tiến sĩ Lê Đức Tố cho biết:
Trong giới hạn vùng ven bờ của Việt Nam hiện nay có những chương
trình làm khá tốt, ví dụ như đã xây dựng được 15 khu bảo tồn biển dọc theo bờ
biển Việt Nam từ bắc xuống nam. Đó là điểm lớn nhất về vấn đề bảo vệ môi
trường.
Thứ hai có kết quả về quá trình nghiên cứu đánh giá những diễn
biến môi trường sinh thái dọc bờ biển Việt Nam, từ bắc xuống nam, trong giới
hạn từ 50 mét nước trở vào.
Còn nữa là những kết quả nghiên cứu đánh giá về vùng biển nông
ven bờ ví dụ như lập bản đồ địa hình, bản đồ về địa mạo, bản đồ về địa chất ở
giới hạn từ 30 mét nước vào đến sát bờ.
Nói chung người ta cũng vạch ra chiến lược 10 năm, 15 năm, 20
năm, nhưng thực sự để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả thì còn xa vời và
không có thực tế. Phải điều chỉnh mãi mà không bao giờ đạt được. Rất khó!
tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại
Giáo sư Đinh Văn Ưu trình bày:
Nói thực ra Nhà Nước cũng có định hướng rồi, tức là Đảng đưa ra
nghị quyết hồi năm 2007 về chiến lược phát triển kinh tế biển đến năm 2020.
Trong đó vấn đề bảo vệ môi trường biển cũng được đưa ra, hoặc khai thác các
nguồn tài nguyên biển cũng được đưa ra. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn biển đã
có quyết định xây dựng 20 khu bảo tồn khác nhau trên cả nước. Tôi nghĩ rằng đó
cũng là một bước đã có định hướng tương đối đúng rồi. Chỉ có điều là trên từng
phạm vi khu vực cụ thể liên quan đến từng phạm vi nhỏ của một số khu công
nghiệp, vùng cảng… thì có lẽ hiện tượng suy thoái môi trường có thể xảy ra nhưng
chỉ trên phạm vị cục bộ thôi; chứ còn trên phạm vi lớn chưa thấy có vấn đề gì
đặc biệt.
Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề pháp luật hóa đối với vấn đề
bảo vệ môi trường biển có lẽ phải từng bước. Một điều là việc quản lý Nhà nước
của Việt Nam, không chỉ lĩnh vực biển, mà các lĩnh vực nói chung là phân tán.
Tức là nhiều đơn vị, nhiều ngành quản lý khác nhau, do đó trong thời gian tới
cần phải có phối hợp trong một chiến lược chung là điều cần thiết. Những định
hướng đó hiện nay đều có cả nhưng lại nằm trong các chương trình, các dự án
riêng biệt, ví dụ liên quan đến thích ứng biến đổi khí hậu, liên quan đến bảo
tồn đa dạng sinh học, liên quan đến phát triển bền vững. Tất cả đều có đưa ra
nhưng cơ bản chưa thành thống nhất. Tôi nghĩ cần phải có một thời gian nữa mới
có một chiến lược thống nhất bảo vệ môi trường biển kết hợp nhiều yếu tố khác
nhau từ phát triển kinh tế, thích ứng với biến đổi khí hậu cho đến
Và ý kiến thẳng thẳn của tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại về các chương
trình nghiên cứu trong lĩnh vực hải dương, biển của Việt Nam:
Nói chung người ta cũng vạch ra chiến lược 10 năm, 15 năm,
20 năm, nhưng thực sự để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả thì còn xa vời
và không có thực tế. Phải điều chỉnh mãi mà không bao giờ đạt được. Rất khó!
Quí thính giả vừa nghe một số nhận định của các chuyên gia ngành
hải dương học tại Việt Nam về thực tế khai thác tiềm năng biển của Việt Nam.
Trong chương trình kỳ tới, các chuyên gia vừa nói tiếp tục trình
bày những khó khăn trong lĩnh vực nghiên cứu, hợp tác để khảo sát, đánh giá khu
vực biển rộng lớn thuộc Biển Đông của Việt Nam và những quốc gia lân cận.
Mục Khoa học- Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại
quí vị và các bạn trong chương trình kỳ tới.
Trung Quốc nói Việt
Nam ‘lố bịch’
Cập nhật: 15:18 GMT - thứ hai, 26 tháng 5, 2014
- Facebook
- Twitter
- Google+
- chia sẻ
- Gửi cho bạn bè
- In trang này
Ông Tần Cương lên án Việt Nam là 'lố bịch'
Trung Quốc nói tuyên bố chủ quyền của Việt Nam với quần đảo
Hoàng Sa là “lố bịch” trong bối cảnh quan hệ song phương rạn nứt vì vụ giàn
khoan HD-981.
Hôm 23/5 tại một cuộc họp báo ở Hà Nội, ông Trần Duy Hải, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia nói Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và
bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Đáp trả lại, trong cuộc họp báo ngày 26/5, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Trung Quốc nói: “Về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo vào
thứ Sáu tuần trước, tôi cảm thấy hết sức lố bịch.”
Ông Tần Cương nói tiếp: “Quần đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh
thổ không thể tranh cãi của Trung Quốc.”
Người phát ngôn của Trung Quốc lên án Việt Nam “bóp méo lịch sử,
bác bỏ sự thật, tự mâu thuẫn mình và phản bội ngôn từ của chính mình”.
“Vị thế quốc tế của nước này rất thấp,” ông Tần Cương lớn tiếng.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa có phản hồi về những lời nói của
người phát ngôn ngoại giao Trung Quốc.
Trước đó tại cuộc họp báo trước đó của Bộ Ngoại giao Việt Nam,
Việt Nam đã nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền dựa trên lịch sử của Việt Nam với
Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý
nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Căng thẳng giữa hai nước leo thang sau khi Việt Nam cáo buộc
Trung Quốc đưa một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Phát biểu trong chuyến thăm Philippines và tham dự Diễn đàn Kinh
tế Thế giới Đông Á tuần trước, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phê phán Bắc
Kinh “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế”, và cho biết sẽ xem xét những
“hành động pháp lý phù hợp” để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.
Vào Chủ nhật vừa qua, Việt Nam đã bắt đầu tiến hành các phiên
tòa đầu tiên xét xử nghi phạm tham gia các vụ “bạo động, gây rối và hôi của”,
sau khi làn sóng biểu tình chống Trung Quốc biến thành bạo loạn vào trung tuần
tháng Năm.
Tàu hai nước va chạm quanh giàn khoan HD-981
Hai trong số các bị cáo ở tỉnh Bình Dương đã bị kết án từ một
năm tới ba năm vì các hành vi “gây rối, phá hoại và trộm cắp” tài sản của doanh
nghiệp.
“Chúng tôi không nghĩ rằng như vậy là đủ,” phát ngôn nhân Tần
Cương của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói về phiên toà.
Ông này yêu cầu Việt Nam điều tra thấu đáo vụ bạo loạn trong
thời gian sớm nhất, “trừng trị nghiêm khắc tội phạm”, bồi thường cho các doanh
nghiệp và cá nhân chịu thiệt hại, đồng thời bảo đảm an toàn cho doanh nghiệp và
công dân Trung Quốc tại Việt Nam, Tân Hoa Xã đưa tin.
“Chỉ như vậy cộng đồng quốc tế mới lấy lại được niềm tin với
Việt Nam,” ông Tần nói.
‘Bị tàu Trung Quốc đâm
chìm’
Trong khi đó, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) ngày thứ Hai đưa
tin một tàu cá Việt Nam bị tàu cá Trung Quốc đâm chìm ở khu vực cách giàn khoan
HD-981 khoảng 17 hải lý.
Trung Quốc nói không có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa
Mười ngư dân rơi xuống biển nhưng sau đó được lực lượng cứu hộ
Việt Nam cứu lên. Hiện đang có 40 tàu cá Trung Quốc đang bao vây tàu cá của
Việt Nam ở khu vực trên, VTV đưa tin.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.