Chức
tước quan chức đều từ kinh doanh do những nhóm lợi ích cuả những chóp bu lãnh
chuá Đỏ thao túng.Tham nhũng theo quy hoạch đẻ ra những chuyện ngược đời,nhưng
miệng quan có gang có thép!
SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT: SỰ THẬT VỀ CÂU CHUYỆN “TẮC NGHẼN BẦU
TRỜI”, “CHỒNG LẤN VÙNG TRỜI”, VÀ “KHU VỰC CẤM BAY CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”
TS
Nguyễn Bách Phúc (*)
Một lý do “nặng ký” mà Bộ Giao thông Vận tải đưa ra cho Dự án xây
dựng sân bay Long Thành là “lỗi”
của sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, “việc mở rộng nâng công suất cảng hàng không này để đáp
ứng nhu cầu 40-50 triệu hành khách/năm trong giai đoạn 2025-2030 là không khả
thi”.Minh chứng điều này, Bộ đã đưa ra 4 cái lỗi.
Bài này xin bình luận lỗi thứ 2.
Về lỗi thứ 2, Bộ nói: “Hạn chế về khai thác vùng trời: Khu vực
vùng trời tiếp cận dành cho tàu bay cất hạ cánh của Cảng hàng không quốc tế Tân
Sơn Nhất hiện tại chồng lấn với vùng trời tiếp cận của căn cứ không quân Biên
Hòa ở phía Bắc. Mặt khác, khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay
phía Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều
không gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh, đặc biệt khi có hoạt động bay
quân sự tại khu vực Tân Sơn Nhất và Biên Hòa.
Thứ trưởng GTVT Phạm Quý Tiêu phát biểu tại tọa đàm về dự án đầu
tư sân bay Long Thành, do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 17/10.
Thứ trưởng Phạm Quý Tiêu khẳng định lại việc cần thiết phải đầu tư xây dựng sân
bay Long Thành, bởi Tân Sơn Nhất đã quá tải: “Sân bay Tân Sơn Nhất tắc nghẽn
bầu trời, trong nhiều năm không quản lý được tĩnh không sân bay”.
Câu chuyện “TSN bị tắc nghẽn bầu trời”
Nghe Bộ GTVT nói TSN “tắc nghẽn bầu trời”, chắc mọi người hình
dung ra cảnh tượng cả đàn máy bay ùn tắc chen lấn nhau trước lối vào TSN, giống
như xe Honda chen chúc trước đèn đỏ, giành nhau từng centimet đường!
Hàng trăm sân bay trên thế giới, số lượng hành khách (HK) nhiều
hơn TSN, 80-100 triệu HK/năm, tần suất cất hạ cánh lên đến 60 chuyến/giờ hoặc
hơn, đều không hề có khái niệm tắc nghẽn bầu trời, tại sao chỉ có bầu trời TSN
bị tắc nghẽn khi tăng hơn 20 triệu HK/năm?
Thử tính xem mức độ tắc nghẽn của TSN như thế nào, liệu có bao
nhiêu máy bay chen lấn nhau, chúng giành nhau bao nhiêu centimet không gian:
+ Tần suất lớn nhất hiện nay của TSN,
theo Cục trưởng Cục Hàng không VN là 29 chuyến/giờ.
Với tần suất này, TSN có thể đưa đón tới 80 triệu hành khách/năm,
chứ không phải chỉ hơn 20 triệu (tham khảo bài “Có thể nâng Tân Sơn Nhất lên 80
triệu hành khách/năm, không cần giải phóng mặt bằng di dời dân cư, với tổng vốn
đầu tư chỉ khoảng 3 tỷ USD).
+ Với tần suất 29 chuyến/giờ này thì số
chuyến máy bay xếp hàng để cất cánh hoặc hạ cánh trong 1 giờ là: 29/2 = 14,5 chuyến.
+ Thời gian dãn cách giữa hai chuyến máy
bay kế tiếp nhau là 1/14,5 = 0,07 giờ
+Máy bay dân dụng hiện nay khi cất cánh
hoặc hạ cánh thường bay với tốc độ 250 km/giờ.
+ Tính ra cự li xếp hàng dọc giữa hai máy
bay kế tiếp nhau là (250 km/giờ) x (0,07 giờ) = 17,5 km.
Hóa ra máy bay xếp hàng dọc trước cửa TSN, khi lên xuống cấp tập
nhất, 2 chiếc liên tiếp nhau vẫn cách nhau hơn 17 km, chứ không phải mấy
centimet như honda trước đèn đỏ, sao lại gọi là tắc nghẽn bầu trời?
Câu
chuyện “chồng lấn vùng trời với sân bay Quân sự Biên Hòa”
- TSN
và Biên Hòa nằm cạnh nhau hơn nửa thế kỷ nay, chưa nghe ai nói “chồng lấn
vùng trời”, kể cả những năm chiến tranh ác liệt, máy bay lên xuống “nhiều
như chuồn chuồn”, cớ sao hôm nay lại đẻ ra việc “chồng lấn vùng trời”?
- TSN
cách Biên Hòa 25 km, trong khi sân bay Changi của Singapore chỉ cách sân
bay quân sự Paya Lebar 8 km, nhưng không ai nói sân bay Changi của
Singapore chồng lấn với sân bay quân sự Paya Lebar, cớ sao lại nói TSN
chồng lấn với Biên Hòa?
- Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh, là vùng trời tiếp giáp với đường băng sân bay, với
chiều dài 40 dặm (khoảng 72 km), chiều rộng khoảng 9 km, chiều cao dưới
3000 mét, là vùng trời được quốc tế quy định giao cho Trạm kiểm soát APP
điều khiển không lưu, tức là APP hoàn toàn chịu trách nhiệm điều khiển các
máy bay chuẩn bị hạ cánh hoặc sau khi cất cánh. Như vậy “Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh”
thực chất chỉ là một vùng quy ước, là vùng được kiểm soát chặt chẽ bởi
APP chứ không phải là vùng cấm máy bay qua lại.
Ở Việt Nam có 3 Trạm APP, trong đó Trạm APP ở miền Nam, kiểm soát
vùng trời tiếp cận của tất cả sân bay ở miền Nam. Hai sân bay ở gần nhau đều
được một Trạm APP kiểm soát, nếu vùng tiếp cận có chồng lấn lên nhau đi nữa thì
vẫn do cùng một Trạm APP kiểm soát, nên sẽ không có bất cứ phiền toái nào.
Ngoài ra, vùng trời tiếp cận của TSN nằm giữa 2 vùng trời tiếp cận
của sân bay Biên Hòa và của sân bay Long Thành, khoảng cách từ vùng trời tiếp
cận của TSN đến vùng trời tiếp cận của Long Thành gần hơn của Biên Hòa, cớ sao
Bộ GTVT chỉ nói TSN và Biên Hòa chồng lấn, mà bỏ qua chồng lấn giữa TSN hiện
hữu và Long Thành tương lai? Nếu sự chồng lấn này là thực sự nguy hiểm thì cớ
sao Bộ lại chấp nhận sự nguy hiểm đó khi quyết định xây dựng sân bay Long
Thành?
Câu chuyện “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh”
Khi nghe Bộ GTVT nói như vậy, ai cũng ngỡ ngàng không biết khu vực
cấm bay của TP.HCM là khu vực nào, rộng hẹp bao nhiêu, cấp nào ra quyết định
cấm bay, cấm bay vì mục đích gì?
Chúng tôi may mắn được Cụ Lê Trọng Sành, nguyên Trưởng phòng Quản
lý bay sân bay TSN giải thích cho như sau: Khi hạ cánh, những máy bay cỡ nhỏ
với sức tự hãm trên đường băng tương đối kém nên Trạm APP phải “lựa theo chiều
gió” để chọn cho những máy bay này hướng hạ cánh sao cho ngược với chiều gió.
Chẳng hạn ở TSN máy bay thường xuyên hạ cánh theo chiều từ Đông sang Tây, nhưng
đôi khi các máy bay nhỏ phải bay vòng vượt qua sân bay TSN rồi quay ngược lại
để hạ cánh theo hướng từ Tây sang Đông. Với những máy bay nhỏ, vòng lượn này thường
nhỏ, đoạn song song với đường băng thường cách đường băng 5 đến 7 km, sau khi
máy bay vượt quá đường băng chừng 10 km thì sẽ quay vòng lại để hạ cánh. Vùng
mặt đất được giới hạn bởi đường quay vòng hạ cánh tạm gọi là Vùng quay vòng hạ
cánh.
Thông thường Vùng quay vòng hạ cánh nằm hai phía của sân bay. Với
sân bay TSN là vùng phía Bắc và phía Nam, hiện tại vùng đất kế cận đường băng ở
phía Nam là khu vực có rất nhiều nguy cơ cháy nổ, như kho chứa xăng máy bay,
bãi đậu của hầu hết các loại máy bay, bãi đậu của máy bay trực thăng, đều là
vùng nguy hiểm cháy nổ, nếu máy bay khi quay vòng bay trên vùng này có thể xuất
hiện nguy cơ cháy nổ khi không may gặp sự cố. Vì vậy cơ quan Quản lý Hàng không
VN quy định Vùng quay vòng hạ cánh phía Nam TSN là vùng cấm bay.
Như vậy, Bộ GTVT gọi vùng cấm bay này là “Vùng cấm bay của TP.HCM”
là hoàn toàn không đúng, bởi vì TP.HCM không có vùng cấm bay nào cả!
Nhưng điều quan trọng nhất là, vùng cấm bay này không ảnh hưởng gì
đến mật độ và lưu lượng lên xuống của máy bay ở sân bay TSN, không ảnh hưởng gì
đến công suất của TSN, bởi một lẽ đơn giản rằng TSN vẫn còn vùng quay vòng ở
phía Bắc không bị cấm, và giả sử một lúc nào đó, vùng quay vòng ở phía Bắc quá
chật chội thì APP vẫn có thể cho phép máy bay quay vòng về phía Nam, chỉ cần
nằm ngoài phạm vi cấm bay, tức là cách xa đường băng trên 7 km.
Thật tình chúng tôi không thể nào hiểu nổi, tại sao Bộ GTVT lại
trình Quốc hội rằng “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay phía
Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều không
gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh”?
N.B.P.
(*) Tác giả: TS Nguyễn Bách Phúc là Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ
& Quản lý TP.HCMHASCON và là Viện trưởng Viện Điện – Điện tử – Tin học EEI
SỰ THẬT VỀ KHOẢNG CÁCH GIỮA HAI ĐƯỜNG BĂNG SONG SONG
TS
Nguyễn Bách Phúc (*)
Một lý do quan trọng để biện minh cho việc không thể nâng cấp sân
bay Tân Sơn Nhất mà Bộ GTVT đưa ra là: khoảng cách giữa hai đường băng của Tân
Sơn Nhất chỉ có 365 mét, không đạt tiêu chuẩn của ICAO. Từ đó khi nói về việc
nâng cấp Tân Sơn Nhất, Bộ bảo phải làm thêm một đường băng mới cách đường băng
cũ khoảng 1.400 m cho phù hợp với tiêu chuẩn của ICAO, tương ứng phải giải phóng một vùng đất rộng
tới 1.500 ha và buộc phải di dời 140.000 hộ gia đình với khoảng 500.000 ngàn
dân, chi phí di dời tới 9,1 tỷ đô la!
ICAO, Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế của Liên Hợp Quốc không
hề đưa ra “tiêu chuẩn” cho khoảng cách giữa hai đường băng”, mà ICAO chỉ đưa ra
khuyến nghị. Tại phụ lục 14 về cảng hàng không, trong Chương 3, là phần khuyến
nghị cho khoảng cách giữa hai đường băng song song. Khuyến nghị này rất chi
tiết, liên quan đến mức độ lớn nhỏ của sân bay, chiều dài chiều rộng và đặc
tính của đường băng, các chế độ cất hạ cánh độc lập hỗn hợp, v.v.
Áp dụng khuyến nghị này vào trường hợp cụ thể của Tân Sơn Nhất, có
hai đường băng song song cấp 4D, dài 3200 m và 3800 m, hoạt động không độc lập,
cất hạ cánh hỗn hợp (cả hai đường băng cho phép cất và hạ cánh), sẽ thấy rằng
khoảng cách tối thiểu giữa hai đường băng phù hợp với khuyến nghị là 300 mét. Trong khi khoảng cách ở Tân Sơn Nhất là 365
mét.
Đối với trường hợp hai đường băng song song hoạt động đồng thời và
độc lập, và chỉ cất hoặc hạ cánh, thì ICAO khuyến nghị khoảng cách lớn hơn, từ
760 mét đến 1400 mét.
Vì chỉ là “khuyến nghị”, chứ không phải là “tiêu chuẩn” có tính
bắt buộc, nên trên thế giới có nhiều sân bay quốc tế, công suất hàng chục triệu
hành khách năm, nhưng khoảng cách giữa 2 đường băng song song còn nhỏ hơn 300
mét.
Ở nước Mỹ có nhiều sân bay như thế. Ví dụ Sân bay quốc tế San Francisco ở
thành phố San Francisco, California, có các chuyến bay đến khắp châu Mỹ và là
một cửa ngõ chính đến châu Âu, châu Á và châu Đại Dương, là sân bay quốc tế lớn
nhất trong khu vực vịnh San Francisco. Năm 2007, sân bay này phục vụ 36 triệu
hành khách, xếp hạng thứ 23 trong các sân bay bận rộn nhất thế giới. Nhưng hai
đường băng song song của Sân bay này chỉ cách nhau có 228 mét!
Sân
bay quốc tế Thành phố Mexico là sân bay thương mại phục vụ thành phố Mexico, thủ đô Mexico. Đây là sân
bay quan trọng nhất, bận rộn nhất và lớn nhất nước Mexico, kết nối với hơn 100 điểm trên
thế giới, phục vụ 32 triệu lượt khách mỗi năm. Hai đường băng song song của sân
bay này chỉ cách nhau có 310 mét!
Sự thật là như thế! Tại sao Bộ GTVT và Cục Hàng không VN cứ nói
ngược lại?
N.B.P.
(*) Tác giả: TS
Nguyễn Bách Phúc là Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý
TP.HCMHASCON và là Viện trưởng Viện Điện – Điện tử – Tin học EEI.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.