Việt Nam đã
làm gì trong lúc Thái Lan lo chống hạn từ vài năm trước?
Năm 2016 mới chỉ trôi qua được 3 tháng, nhưng có vẻ như nó đã chỉ
ra những thách thức lớn cho nền kinh tế Việt Nam chứ không hứa hẹn và tươi sáng
như chúng ta đã kỳ vọng.
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều
so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ
đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai và biến đổi khí
hậu, mà tình trạng hạn hán và xâm mặn kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
là điển hình. Tuy nhiên, trên thực tế hậu quả đó có thể được giảm thiểu đáng kể
nếu như chúng ta có sự chuẩn bị từ trước và không bị rơi vào tình thế “nước đến
chân mới nhảy” như hiện tại.
Nếu như không có sự thay đổi về tư duy và tầm nhìn, và vẫn để tình
trạng “nước đến chân mới nhảy” này diễn ra, thì hậu quả nghiêm trọng sẽ không
chỉ dừng lại ở ngành nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long, mà sẽ còn diễn ra
trong toàn bộ nền kinh tế và trên phạm vi toàn quốc.
Nếu đặt vấn đề trách nhiệm trong vụ việc hạn hán và xâm mặn kỷ lục
được xem là lớn nhất trong vòng 100 năm qua tại đồng bằng sông Cửu Long, thì
ngoài yếu tố biến đổi khí hậu do El Nino gây ra khiến lượng mưa giảm khoảng
40%, ngoài yếu tố các con đập khổng lồ trên thượng nguồn của Trung Quốc khiến
lượng nước ở hạ nguồn không đủ, thì còn có trách nhiệm của chính Việt Nam khi
đã không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng dù đã có cảnh báo từ trước đó rất lâu.
Các yếu
tố này đều đã được các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra từ lâu. Nhưng tất
cả đã không được lắng nghe và Việt Nam đã gần như không có sự chuẩn bị nào cho
kịch bản tồi tệ nhất nếu nó xảy ra, và nó đã xảy ra. Phải đến khi nước mặn xâm
nhập 8/13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long thì chúng ta mới vội vã tìm cách ứng
phó.
Một trong những điều đáng chú ý nhất của câu chuyện hạn hán tại
các quốc gia ở hạ nguồn sông Mekong trong đó có Việt Nam là sự khác biệt về nhận
thức và cách thức chuẩn bị để ứng phó với nguy cơ này. Có những quốc gia đã có sự chuẩn bị từ rất sớm
và ít phải chịu những tác động nghiêm trọng từ tình trạng hiện tại và Thái Lan
là điển hình. Và cũng có những quốc gia gần như không có bất cứ một sự chuẩn bị
nào và đang hứng gần hết những hậu quả nghiêm trọng nhất, mà Việt Nam là ví dụ.
Ngay từ khi Trung Quốc bắt đầu xây dựng các con đập lớn trên sông
Lan Thương (tên Trung Quốc của sông Mekong) để phát triển thủy điện, đồng thời
để dẫn nước vào sử dụng trong công nghiệp và đưa vào hồ chứa cho tiêu dùng ở
tỉnh Vân Nam, thì Thái Lan đã ngay lập tức có biện pháp ứng phó. Trong nhiều
năm, Thái Lan đã bắt đầu xây dựng hệ thống thủy lợi bao gồm hồ chứa và hệ thống
dẫn nước khá quy mô và đồ sộ sử dụng nước từ các phụ lưu của sông Mekong. Giờ
đây khi tình trạng hạn hán trên diện rộng diễn ra, cũng là lúc người Thái bắt
đầu vận hành hệ thống quy mô của mình để dẫn nước tới các khu vực đang chịu
tình trạng hạn hán và thiếu nước, như Nọng Khai và các tỉnh vùng Đông Bắc của
nước này. Dù không giải quyết được toàn bộ tình trạng hạn hán ở nước này thì nó
cũng làm giảm thiểu phần lớn tác động do hạn hán gây ra.
Còn Việt Nam thì gần như ngược lại. Chúng ta đã gần như không làm
bất cứ điều gì để ứng phó với nguy cơ hạn hán được đánh giá là nghiêm trọng nhất
trong vòng 100 năm trở lại đây. Các hồ chứa và các công trình ngăn mặn ở đồng
bằng sông Cửu Long đã không được xây dựng, khiến cho tốc độ xâm mặn lớn đến mức
8/13 tỉnh thành bị nước mặn xâm nhập, tàn phá nông nghiệp và đẩy người dân ở
các tỉnh này vào tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt. Đến lúc này chúng ta mới
bắt đầu vội vã ứng phó và đương nhiên, chúng ta phải đón nhận cho thảm
họa này – thảm họa không chỉ tàn phá nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long,
mà còn đang là tác nhân kéo lùi tăng trưởng GDP của cả nền kinh tế một cách
nghiêm trọng nhất.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thảm họa này, không gì khác ngoài tình
trạng “nước đến chân mới nhảy” quen thuộc trong cách xử lý các vấn đề của nền
kinh tế khá thường thấy trong những năm qua. Nhìn rộng ra một chút, thì tình
trạng này tràn lan trong hầu khắp các lĩnh vực nền kinh tế, mà gần đây chúng ta
có thể thấy thông qua một số vụ việc như áp thuế nhập khẩu cho thép nhập khẩu
từ Trung Quốc hay thậm chí là nợ công quốc gia.
Theo kế hoạch đến hết năm 2016 thì nợ công sẽ kịch trần ở mức trên
64% GDP và sẽ giảm dần kể từ năm 2017, nhưng trong bối cảnh tốc độ tăng nợ công
phi mã từ 3-4%/năm như những năm qua mà muốn không những không tăng mà còn giảm
đi chỉ trong vòng 1 năm ngắn ngủi thì quả thực là điều khó có thể xảy ra.
Điều tương tự cũng đang diễn ra trong hầu khắp nền kinh tế, và
đang bị cảnh báo có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trong bối cảnh hàng
loạt hiệp định thương mại lớn và quan trọng mà Việt Nam ký kết sắp đi vào hoạt
động, thì tình trạng “nước đến chân mới nhảy” này có thể dẫn tới những hậu quả
khó lường. Đã có không ít cảnh báo về việc nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị,
thì sẽ phải hứng chịu các tác động tiêu cực từ các hiệp định này, như các doanh
nghiệp trong nước bị thâu tóm và sáp nhập, thị trường nội địa lọt vào tay doanh
nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài. Đó đều là những hậu quả rất lớn, và để tránh
khỏi những nguy cơ đó cần phải có sự chuẩn bị lâu dài, trong khi thời gian
chuẩn bị cho các hiệp định thương mại cho Việt Nam chỉ diễn ra từ 1-2 năm mà
thôi. Và thực tế Việt Nam đã chuẩn bị những gì về pháp lý, hành chính, về sức cạnh
tranh của doanh nghiệp… trong thời gian vừa qua? Gần như là rất ít.
Câu chuyện về thiên tai, hạn hán và xâm mặn tại đồng bằng sông Cửu
Long hiện tại đang là một lời cảnh báo đắt giá hơn bao giờ hết về những gì Việt
Nam sẽ phải hứng chịu nếu cứ tiếp tục duy trì tình trạng “nước đến chân mới
nhảy” hiện nay, trong nền nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Trong một thế giới toàn cầu hóa, nơi mà thế giới biến động và thay đổi
liên tục trong từng phút từng giây, thì rõ ràng bất cứ một sự chậm chân nào
cũng đồng nghĩa với những hậu quả khôn lường.
Hạn hán và xâm mặn kỷ lục lần này mới chỉ kéo tăng trưởng GDP của Việt
Nam trong quý I xuống còn 5,46%, nhưng nếu những hậu quả và tác động diễn ra
trong các lĩnh vực khác cũng như toàn bộ nền kinh tế thì đó sẽ là một con số
thiệt hại khổng lồ. Một tầm nhìn xa không chỉ có ý nghĩa là nhìn ra được các cơ
hội trong tương lai, mà còn mang ý nghĩa giảm thiểu tác động từ các tác nhân
gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Nhàn Đàm (bài
viết có sử dụng một số thông tin từ The Saigon Times, CafeF)
TÌNH HÌNH THỦY HỌC CỦA SÔNG MEKONG
(Từ ngày 14 đến 28 tháng 3 năm 2016)
Nguyễn Minh Quang, PE
28 tháng 3 năm 2016
Trạm thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong [MRC]
Dựa theo dữ kiện đăng tải trên website (http://ffw.mrcmekong.org/)
của Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)), tình hình thủy học (mực
nước và lưu lượng) ghi nhận được tại các trạm thủy học của MRC như sau:
1.
Sau khi Trung Hoa loan
báo xả nước sông Mekong từ đập Cảnh Hồng từ ngày 15/3, mực nước tại trạm Chiang
Saen, Thái Lan bắt đầu tăng nhanh từ 1,91 m trong ngày 7/3 đến 3,26 m trong
ngày 14/3 và duy trì ở mức đó cho đến ngày 28/3. Lưu lượng tại trạm nầy tăng từ
950 m3/sec trong ngày
7/3 lên 1.980 m3/sec
trong ngày 14/3 và duy trì ở mức đó cho đến ngày 28/3. Như vậy, số lượng
nước do Trung Hoa xả thêm, khoảng 1.000 m3/sec, đã đến Chiang Saen.
2.
Nước xả thêm từ đập Cảnh
Hồng xuống đến trạm Luang Prabang vào ngày 15/3, trạm Chiang Khan vào ngày
18/3, trạm Vientiane vào ngày 21/3, và trạm Nong Khai vào ngày 22/3. Lưu lượng
tại các trạm nầy duy trì ở mức 2.400 m3/sec ở Chiang Khan, 2.500 m3/sec ở trạm Luang Prabang,
2.400 m3/sec ở trạm
Vientiane, và 2.300 m3/sec
ở trạm Nong Khai. Mực nước tại Nong Khai tăng từ 1,53 m trong ngày 18/3
lên 2.95 m trong ngày 28/3.
3.
Tính đến ngày 28/3, tức
6 ngày sau khi đến trạm Nong Khai, nước
xả thêm từ đập Cảnh Hồng chưa được ghi nhận tại trạm Paksane cách
trạm Nong Khai khoảng 140 km về phía hạ lưu. Khoảng cách nầy tương tự như từ
Chiang Khan đến Vientiane nhưng nước chỉ mất 3 ngày, chứng tỏ số
nước xả thêm từ đập Cảnh Hồng có thể đã biến mất sau khi đến Nong Khai,
Thái Lan vì lưu lượng tại trạm nầy vẫn ở mức 1.000 m3/sec.
4.
Sau khi Lào loan báo xả
nước thủy điện, khoảng 1.000 m3/sec,
để giúp Việt Nam từ ngày 23/3, dường như từ đập thủy điện Theun-Hinboun, lưu
lượng ở các trạm ở hạ lưu Nam Hinboun đầu tăng lên khoảng 1.000 m3/sec và đạt 3.000 m3/sec tại trạm Nakhon Phanom
vào ngày 25/3; 3.000 m3/sec
tại trạm Thakhek vào ngày 26/3; 3.700 m3/sec tại trạm Mukdahan vào
ngày 27/3; và 5.100 m3/sec
vào ngày 28/3. Như vậy, nước mất 3 ngày để đi từ Nakhon Phanom đến Mukdahan,
cách nhau 100 km.
5.
Với một khoảng cách
khoảng 850 km – từ Mukdahan đến Tân Châu –
nước xả thêm từ đập Theun-Hinboun của Lào có thể phải mất thêm ít nhất 25 ngày
mới đến Tân Châu, với điều kiện nó vẫn còn trong sông Mekong. Tuy
nhiên, dữ kiện thủy học của MRC cho thấy đoạn sông từ Mukdahan đến Khong Chiam
cũng bị mất một lượng nước rất lớn, tương tự như đoạn sông giữa Nong Khai và
Paksane.
Bảng phân tích nầy sẽ được cập nhật hàng tuần, sau khi MRC cập
nhật dữ kiện thủy học sông Mekong và đăng tải lên website nêu trên.
N.M.Q.
Tác giả gửi BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.