Cải Cách Ruộng Đất
(CCRĐ): Xin Đừng Quên Nửa Thế Kỷ Trước
Nguyễn Minh Cần
November 1, 2014 Bình Luận
November 1, 2014 Bình Luận
Có thể bạn đọc
sẽ trách tôi: trong dịp đầu năm (1) mà nhắc đến chuyện quá buồn. Xin
các bạn lượng thứ cho! Nhưng chuyện này không thể không nói đến! Nó
cũng khủng khiếp không kém gì chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy mà chuyện
Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ
mà!
Cần phải nhắc
đến các tấn bi kịch, các thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện còn đang
tiếp diễn dưới nền chuyên chính của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN),
để mọi người yêu nước thương dân thắp một nén hương cho vong linh biết
bao người vô tội đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan
ức đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ
lại biết bao bạo hành của một đảng độc tài đã gây ra trong quá khứ
và trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc
dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm thay!
Hơn nữa, ngày nay
tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi cách để
dân tộc ta quên đi các tội ác tày trời của họ, nhất là để các thế
hệ mới lớn lên không hề hay biết gì đến các tội ác đó và những kẻ
tội phạm chí
Chuyện tôi muốn
nói đến hôm nay là cuộc CẢI
CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm hoạ
khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực
tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết thúc
năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho đến tận ngày
nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão táp ác liệt đổ ập
xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp, biết bao
đảo lộn kinh người, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương
thiện.
Xuất phát từ đâu
mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này?
Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt
Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và
Mao Trạch Đông (lúc đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận
xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh),
và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động
lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRĐ ở
các vùng gọi là “giải phóng”. Sau khi về nước, ông Hồ đã cùng
Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau này) ĐCS trong hai năm trời bí
mật và tích cực chuẩn bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt tư
tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo
sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ
đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố
vấn là La Quý Ba đồng thời là đại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ
cộng hoà (VNDCCH).
Vi Quốc Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự, còn
đứng đầu đoàn cố vấn CCRĐ là Kiều Hiểu Quang, vốn là phó bí thư
tỉnh uỷ Quảng Tây. Đó là chưa kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn
chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền… Để
chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952,
Bộ chính trị (BCT) Trung ương (TW) Đảng thực hiện “cuộc chỉnh huấn”
trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong quân đội, theo đúng mẫu mã “cuộc
chỉnh phong” của ĐCS Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà
thôi. Chuẩn bị về mặt tổ chức, BCT TW đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung
ương (UBCCRĐTW), gồm có Trường Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm,
hai phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương, uỷ
viên BCT, còn uỷ viên thường trực là Hồ Viết Thắng, uỷ viên TW Đảng.
Dưới UBCCRĐTW là các đoàn CCRĐ, dưới các đoàn là các đội CCRĐ. Cả
một đạo quân hùng hậu để làm “chiến dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là
“một cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay
phát động quần chúng” để thực hiện, có nghĩa là phải làm hết sức
mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù có
những hành động quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ
cộng sản thường nhấn mạnh ĐCS là đảng cách mạng thì nhất định phải
làm CCRĐ theo tinh thần “cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”! Họ
cao ngạo phê phán các cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương
chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính
quyền hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được có, còn phần
thừa thì nhà nước mua lại để chia cho người ít hay không có ruộng đất.
Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần
chúng” khó hiểu này, ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn
thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu,
rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được.
Hình như ông cũng khoái cái lối
giải thích hóm hỉnh ấy, không nghờ rằng cái tinh thần “quá đi một tí”
sau này chính là mối hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được
tung về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế,
họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã
“phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay”… Vì thế, trong dân gian
thường nói “nhất đội, nhì Trời”, và các “anh đội” cũng khoái tai khi
nghe như thế! Tôi còn nhớ một lần, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch
uỷ ban quân quản thành phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh
Oai) thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh
cần vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng không được thả ra. Về sau
do một sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho người đến
nhận ông về. Đại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ dân
đen!
Trong năm 1952, BCT
TW Đảng lao động Việt Nam (ĐLĐVN), tức là ĐCS khoác tên mới từ năm
1951, cho làm thí điểm CCRĐ ở sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên. Trong lần thí điểm này có một sự kiện “động trời”: toà án
CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị Năm, tức là Cát Thành Long, người mà
thời trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh
Nghị, Lê Giản… Còn trong Tuần lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng
vàng cho chính quyền mới.
Bà đã hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại có
con trai đi bộ đội làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà đã bị quy là
địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, UBCCRĐ TW
duyệt y và BCT TW ĐLĐVN cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản
trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn,
tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ
tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như
vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu
nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó
đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước
những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!
Năm 1953, thực tế
là năm bắt đầu tiến hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối,
chính sách và “luật pháp hoá” các chính sách của Đảng bằng quyết
nghị của Quốc hội, sắc lệnh và nghị định của Chính phủ, thông tư
của các bộ. Dựa trên tài liệu chính thức của ĐCS, tôi xin ghi lại
những cái mốc lịch sử đau thương của dân tộc ta trong cuộc CCRĐ đẫm
máu và nước mắt này:
- Cuối tháng
01.1953 – hội nghị lần thứ tư của TW ĐLĐVN để thông qua bản Dự thảo
cương lĩnh Đảng về chính sách ruộng đất. Tại hội nghị, ông Hồ đọc
báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để giảm tô, tiến tới CCRĐ.
- Đầu tháng
03.1953 – Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của Phó thủ
tướng Phạm Văn Đồng về mục đích, phương châm, kế hoạch phát động quần
chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách
ruộng đất và phát động quần chúng, tức là đã “luật pháp hoá” nghị
quyết của TW Đảng.
- 01 – 05.03.1953 –
báo Nhân Dân đăng tải bài “Chỉnh đốn chi bộ” của uỷ viên Bộ chính trị
ĐLĐVN, trưởng ban tổ chức TW Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ trách
cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ
VNDCCH ra thông tư về việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát
động quần chúng. Đây là những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc
Chỉnh đốn tổ chức với CCRĐ, với tinh thần “không dựa vào (thực tế
là đánh vào – Người viết) tổ chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở
nông thôn!
- 12.04.1953 –
Chính phủ VNDCCH ra ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy định chính sách ruộng
đất, trong đó có việc tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho
nông dân; 2/ sắc lệnh quy định việc thành lập Toà án nhân dân ở những
nơi phát động quần chúng; 3/ sắc lệnh quy định việc trừng trị những
địa chủ ở những nơi phát động quần chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953 – báo
Nhân Dân đăng bài về Chương trình CCRĐ.
- Tháng 06.1953 –
ĐLĐVN tổ chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn chính trị” để nâng cao lập
trường giai cấp cho cán bộ đảng viên trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953 – hội
nghị TW lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc của ĐLĐVN để quyết định
tiến hành CCRĐ. Ông Hồ đã phát biểu ý kiến tại hội nghị nhấn mạnh
phải “phóng tay phát động quần chúng tiến hành CCRĐ”.
- 01–04.12.1953 –
kỳ họp thứ ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo
cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRĐ” và ngày 04.12.1953 – Quốc
hội nhất trí thông qua Luật CCRĐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ do Quốc hội thông qua.
Từ đó, bắt đầu
các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6
xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng
miền núi. Đợt năm là đợt cuối cùng, phần lớn diễn ra ở các xã
đồng bằng Bắc bộ và các vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho
đồng bào miền núi, vì ĐLĐVN chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở vùng
đồng bằng mới làm ở miền núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã
bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh
Lưu, Phát Diệm, nên về sau, TW ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải
cách dân chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương
(tức là các phía tạo) mà không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân
chúng chạy sang Trung Quốc, Lào… Còn ở huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị,
vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Việt Nam Cộng hoà, nên cũng được
chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực vừa phải “để không gây ảnh hưởng
xấu đến miền Nam”.
- Tháng 09.1956 –
hội nghị lần thứ 10 của TW ĐLĐVN kiểm điểm tình hình CCRĐ. Do ảnh
hưởng của đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô vạch trần những tội ác của
Stalin, do sự bất mãn trong dân chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh
của cán bộ, TW Đảng buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng
trong CCRĐ và chủ trương sửa sai. Tại hội nghị, TW đã thi hành kỷ
luật như sau: Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên
BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức uỷ viên BCT, Hồ
Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW ĐLĐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí
thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW, thường trực BCT.
- 29.10.1956 –
mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ
Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công
nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một
vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động
Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được
giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được
giải thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ
muốn đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên không hề có việc ông Hồ
khóc trước dân chúng.
Ở hải ngoại, cho
đến nay cũng đã có một số tài liệu nói đến những bạo hành, những
tội ác trong CCRĐ, cuốn sách nói về đề tài này khá kỹ ra mắt sớm
nhất (1964, bằng tiếng Anh) là cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”
của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở trong nước thì đến nay, chưa có một công
trình nghiêm túc nào nghiên cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng
về đề tài CCRĐ. Tại sao?
Dễ hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa
nhận những sai lầm trong CCRĐ, BCT TW Đảng ra lệnh miệng tuyệt đối cấm
không được nói đến đề tài này. Người đầu tiên “vi phạm” tabou “thiêng
liêng” đó là nhà văn Hà Minh Tuân – anh đã viết lướt qua rất nhẹ
nhàng đến đề tài cấm kỵ đó trong tác phẩm “Vào Đời”. Tức thì
Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là “tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và
anh bị hành hạ hết nước. Từ đó mọi người ai cũng im re, “lo giữ cái
đội nón của mình” (nhóm từ thông dụng hồi đó có nghĩa là giữ đầu
mình)… Mãi sau này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon men đến đề tài đó
mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong
nước vượt qua nỗi sợ “truyền kiếp”, dám đề cập đến đề tài đau
thương này một cách nghiêm túc và toàn diện.
Nếu nói về
những tội ác trong CCRĐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây.
Thứ nhất. Tội tàn sát
thường dân vô tội – tội ác chống nhân loại. Người nông dân Việt
Nam hiền hoà, chất phác đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp
vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ĐCS giáng cho họ một đòn
chí mạng. ĐCS nói rằng CCRĐ là một cuộc cách mạng để thực hiện ước
mơ muôn đời của nông dân: “người cày có ruộng” – nhưng thực tế thì
không phải như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng
lớp năng nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là
địa chủ, phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường
sinh sống, còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian
khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị
quy là phản động, gián điệp, Việt gian, v.v… bị trừng trị, nhiều
người bị bắn giết vô cùng man rợ.
Ngay cả nhiều người trung nông, thậm
chí một số bần nông cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ
quái gở 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái
số phận mà ĐCS dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm
thêm những “kết luận” quái đản khác: đã có địa chủ, tất phải có
cường hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất
không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng
thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây ra tình
trạng “kích thành phần”, “nống thành tích” cố tìm ra nhiều địa chủ,
phản động, xử tử nhiều ác bá… để có được bằng khen, huân chương, để
ngoi lên địa vị cao hơn… càng làm cho nỗi khổ đau của người dân tăng
lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi
làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu
Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và Đặng Thí, phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu
sát trong CCRĐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân
gian lưu truyền bài vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu
Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án tử hình trên ghi
đông (guidon) xe đạp!
Chuyện như sau: một đội tới làm CCRĐ ở
một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết
Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng
đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Đặng
Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa
chủ. Đội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân
khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong,
nào ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì… Liếc mắt qua không thấy có
danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có
địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt
đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn”
vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp,
tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang
vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề
nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút
bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm
việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRĐ kể lại chuyện thương tâm
này. Đội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không
thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ
ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh
sách bị bắn! Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng
nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi
thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là
“đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay
ghét đắng”. Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp
thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay!
Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi
“cỗ máy nghiền thịt” của Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không
ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì
ĐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán.
Hồi cuối năm 1956, khi tôi được Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm
sửa sai CCRĐ ở ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc
đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc
sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm
việc. Đôi khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề
chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan.
Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn – thế
thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến vấn
đề cấm kỵ nhất của Đảng.
Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông
Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức
thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn số người bị
hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng
năm-sáu nghìn người (2). Đó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý
do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam
cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây,
v.v… Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết
con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con
số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về
người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng
nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày
trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa
sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hoả mù” chủ yếu để làm dịu đi
phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng
nổ bất lợi cho Đảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên
biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết
người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có
không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người
ta tan vỡ… thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng
chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia
đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân,
khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi
biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy
cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát
cả ngôi nhà họ đang ở.
Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn
như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm
sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế),
nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả
lại cho người ta. Đó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị
tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò,
giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên
nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do
cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một
số cán bộ đã bị đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản
đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin
nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của TW ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, TW
buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người ta
cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TW Đảng không
nghiêm khắc tự phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của TW về cơ bản
là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ
vẫn khư khư khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành
được thắng lợi lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự
không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai
được?! Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRĐ
cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi.
Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là uỷ viên BCT, chuyển
sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng,
rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp
quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn
nghệ sĩ tài ba bị tù đày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy
chục năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm
nó bị thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người
nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ
trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp,
ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là
cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì
lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm
quyền sinh quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh
đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết,
bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư
Thành uỷ Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW Đảng thì lại
cho làm uỷ viên thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại,
người ngoài Đảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho
dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc
bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRĐ và
đưa ra những đề nghị hợp lý thì Đảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh
khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW Đảng thành thực
sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không
sám hối mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRĐ đã
giành được thắng lợi lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân –
đem lại ruộng đất cho người cày. Đây là một sự dối trá trắng trợn.
Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những
người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất
chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất
được chia đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã
để tập thể hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng
đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày”
đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của
Đảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất
nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Đảng đã nhẹ nhàng
quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế thì làm sao có
thể nói là Đảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật
là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng
được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại
truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc. Truyền thống hòa
hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta
xây dựng hàng nghìn năm đã bị ĐCS phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ.
Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước
CCRĐ đều cảm nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá
rách” còn khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người. Cố
nhiên, không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột,
nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái chính sách
“phân định thành phần giai cấp”, ĐCS chia cư dân nông thôn thành cố nông,
bần nông, trung nông (có ba loại, trung nông yếu, trung nông vừa, trung
nông cứng), phú nông (có hai loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé
địa chủ – đây là “sáng kiến” của người chấp hành để khi cần thì dễ
“kích” họ lên địa chủ, chứ trong chính sách thì không chia ra), địa chủ
(có mấy loại, địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa chủ thường, địa
chủ cường hào ác bá, địa chủ phản động).
Sự phân chia có vẻ “khoa
học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ quan, do
nhu cầu của “đội” (khi trên bắt phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác
bá, phản động để bắn, thì cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn
chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, như khi
thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ
ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố khổ”,
phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối xúi giục,
cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ
đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau.
Cũng có nhiều người lúc đầu không
muốn “tố” ai hết vì không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu
“tố” thì bị đội CCRĐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v… cuối
cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây
là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì
muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rể”, làm “cốt
cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái
đám người này nghèo túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi
là những phần tử lưu manh, nhưng thường lại được đội coi như là bần
cố nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm… hoàn thành nhiệm vụ của đội.
Một điều kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều
không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là
bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ
một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải tin
tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”.
Thế là
không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư
hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị
coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân
Đảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó
tránh khỏi cái án tử hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên
địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn
lên trời và chỉ chỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp”
và số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn
lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì
khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự
thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRĐ
làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung
tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ
hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người
bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt
tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị
quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ…
Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần
đùm bọc, hòa hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá
huỷ từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại
đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa
bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong
CCRĐ. Các đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”,
“tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha
mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ
“đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm
ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau!
(Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để
mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những
người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị
hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước
nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải
xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con.
Còn nông
dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là
“mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể
chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó – đội
tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh
gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất
lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả
đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là
địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng
đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành
quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của
người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để
chứng kiến tận mắt cảnh tượng hãi hùng đó! Đúng là sự khủng bố
tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng
thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có
liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai
người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên) thành phần địa chủ, bị
gán tội phản động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải
bỏ nhau.
Nhiều người đi lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với
chồng hay vợ mới. Đến sau này thấy sai, người bị bắt đi tù này được
trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp
VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ
chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn
được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng
một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị
xâm phạm nghiêm trọng giống hệt như thế – để giữ lập trường giai cấp
ai cũng phải cắt đứt với người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản
động!
Đây cũng là một
nét về đạo đức nữa cần phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối
trắng trợn được đề cao như trong CCRĐ. Chẳng cần phải nói tới việc
các “anh đội”, “chị đội” báo cáo láo cho đoàn, vì nó quá thường, mà
cái cần vạch ra ở đây chính là người ta ép buộc, khuyến khích người
nông dân nói dối, làm láo. Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần
phải nói dối, làm láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố
bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống.
Cũng có người cố giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả
giá đắt cho điều đó.
Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội cũng
dạy thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối, chẳng hạn như dặn
họ: khi thấy trên màn ảnh xuất hiện hình địa chủ thì phải hô “đả
đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa chủ để tỏ lòng uất hận
của mình. Thế là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên, cũng không loại
trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám đông”, khi người ta hành động
như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim
“Bạch Mao Nữ” của Trung Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi
xuất hiện hình địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính
vì thế, các diễn viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa
chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của
UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là địa chủ cường hào
ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu trường” không được
vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an,
toà án, chủ tịch đoàn… đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu”
trước, ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào
người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả
đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội…), lúc nào thì bắt địa chủ
quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô”
(khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản…). Chủ tịch đoàn những
cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài
tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào
nổi, nên khi ra “đấu trường”, thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau
lưng nhắc, như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi
nhắc mãi không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật micro
và điều khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố
bịch, trắng trợn, mà không hề biết ngượng! Nhưng cái nguy hại chính
là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người dân,
tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ
truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc. Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS
cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm linh của dân tộc.
Trước CCRĐ, các nhà thờ Thiên Chúa giáo, các tu viện, nhà cô nhi… đều
có ruộng đất riêng, các Chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa,
các nhà thờ họ có ruộng họ, các đình có ruộng làng… để lo việc
sửa sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ
thiện, v.v… và để nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những
người chuyên lo việc trông nom, thờ phụng… Nhờ thế hoạt động tôn giáo,
tâm linh, từ thiện được tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng
với chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả các ruộng đất đó đều nhất loạt
bị coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu để chia cho nông dân.
Với cái đòn độc địa đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi,
chùa chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ, đình… đều trở nên điêu đứng
và dần dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa giáo, do phong
trào giáo dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về sau Đảng đã phải để lại cho
các nhà thờ một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các cơ sở thờ
cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội trường, làm kho hợp tác
xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v… Có nơi thậm chí người ta
cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín đồ bí mật cứu các
tượng Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn các tượng gỗ
đều mục nát, thế nhưng cũng có ít tượng còn giữ được, vào thập niên
80 bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn
toàn bị xoá bỏ. Chữ “thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng ai
dám nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”,
chữ “nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối!
Trong lúc đó,
người ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh giai cấp, khuyến khích
điều ác, điều bất nhân, điều vô đạo. Một điều rất quái dị trong CCRĐ
mà ĐCS lại coi là tự nhiên hoặc là cần thiết: người ta thường xuyên
huy động các cháu thiếu niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt
chúng mang trống ếch đi cổ động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các
cuộc đấu tố, các phiên toà CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều
cháu, nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc
phải tham gia, đã không chịu nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất
xỉu trước cảnh hãi hùng, súng bắn, máu đổ… Còn các cháu vốn có
tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô, thậm chí sau khi “được” tham
dự những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại bày trò chơi “đấu tố”,
bắt con cái địa chủ quỳ để con cái nông dân lên đấu, cũng xỉa xói
vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội… Chẳng biết có ai xúi giục không, nhưng
nhiều nơi đã xảy ra những “trò chơi” quái đản đó! Khi cái thiện bị
nén xuống mà cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên là
đạo đức bị suy đồi, băng hoại dưới chế độ của những người cộng
sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn
“Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ Duy Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ”
(1989) ở Hà Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch của giới
trẻ nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRĐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRĐ
đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và truyền thống nhân bản, mà
nền văn hoá dân tộc cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều
miếu đền uy nghiêm bề thế, nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu
đời của dân tộc đã bị huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện
này, nhưng cũng có thể nêu ra vài trường hợp.
Mong rằng các bạn xa
gần, trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ
Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền, gọi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ 11 là bác. Đầu năm
1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài
mẫu cho phát canh để sống) lại bị “kích” lên thành phần phong kiến
cường hào (vì cụ từng đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại
đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề
nhận chức tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật.
Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại
Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay mùa thu năm ấy, cụ
bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở ven rừng.
Cụ Nghè
Nguyễn Mai từ trần trong uất hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn
lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị quy oan như vậy, mà đội CCRĐ đã
phá huỷ nhiều đền đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn
Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa
đầy thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di
cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát lớn lao về văn hoá không
có gì bù lại được! (Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của
Đặng Cao Ruyện, NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện
này nữa. Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Đảng triệu tập sau khi có
nghị quyết sửa sai trong CCRĐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù
Huy Cận, lúc đó là thứ trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là
tấm bia đá của Lê Lợi đã bị đội CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp
tốc thuê làm bia khác giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải
tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều
kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại nói sai?!
Như trên tôi đã
viết, tuy là chuyện CCRĐ đã qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần
phải nói đến, vì ngày nay tập đoàn lãnh đạo ĐCS đang cố viết lại
lịch sử, đang cho bọn bồi bút xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho ông
Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN trong CCRĐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói
công bằng là trước năm 1950, ông Hồ và ĐCSVN không nói đến CCRĐ, chỉ
nói đến giảm tô, mà cũng chỉ trên giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực
hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn đề giảm tô và CCRĐ mới đặt ra một cách
gắt gao. Như vậy có thể nói là việc CCRĐ là do sức ép của Stalin và
Mao Trạch Đông. Nhưng khi ông Hồ đã nhận làm CCRĐ là ông và ĐCSVN đã
làm một cách tin tưởng và tích cực. Cũng có thể do yếu tố tâm lý
của một người trước đây đã từng bị Stalin và Quốc tế Cộng sản coi
là hữu khuynh, thậm chí bị nghi ngờ, không giao việc trong thời hạn
dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm vụ phản phong, thì ông
càng phải cố tỏ rõ tinh thần mẫn cán, kiên quyết của mình. Quả là
hồi đó, ông Hồ và ĐCSVN cũng thật tình rất tin tưởng vào Stalin và
Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà ông đã công khai nói trước hội nghị cán
bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc để chuẩn bị cho đại hội 2 của ĐCS
sẽ họp năm sau là: “Các cô các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể
sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào
sai được”.
Chính tôi có mặt trong cuộc hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều
người khác cũng nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ không muốn hay
không dám nhắc lại mà thôi. Đến đại hội 2 của Đảng (tháng 03.1951), ông
Hồ lại cũng nói đúng như thế, và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã kể
lại chuyện đó trong sách của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”. Cho nên
ông Hồ làm CCRĐ rõ ràng với sự tin tưởng và tích cực. Vì thế, không
phải ngẫu nhiên mà cụ Vũ Đình Huỳnh, người gần gũi ông nhất thời
gian đó sau này đã “khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự
gây ra những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông
Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh
là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ” (xem “Đêm Giữa Ban Ngày” của
nhà văn Vũ Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm
chính, như cụ Vũ đã nói, nhưng Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế
thần” với cái nghĩa “oan dương” đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư, vừa
là chủ nhiệm UBCCRĐTW, ông ta là người điều hành mọi việc CCRĐ hồi
đó, cho nên, nếu Trường Chinh không phải là thủ phạm số một thì cũng
phải là thủ phạm số hai. Cái ý của cụ Vũ, theo tôi hiểu, là TW
Đảng trong hội nghị lần thứ 10 (09.1956) đã không đả động gì đến Hồ
Chí Minh, đã không dám nói đến trách nhiệm của ông Hồ (vì thi hành
kỷ luật Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước thì… ôi thôi, ĐCS còn gì nữa!)
mà chỉ đưa Trường Chinh và các ông khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau này, trong
giới thân cận với giai cấp cầm quyền, có những người hay tung ra
những câu chuyện về Hồ Chí Minh không tán thành chủ trương CCRĐ, không
tán thành việc xử tử bà Nguyễn Thị Năm, không tán thành làm Chỉnh
đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v… Nhưng, xét cho cùng, loại chuyện đó chỉ
là những huyền thoại không hơn không kém. Những huyền thoại ấy nhằm
đánh lừa những người không biết tình hình thực tế hồi thập niên 50 ở
miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm chạy tội cho ông Hồ để
vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm phao cứu mạng cho tập
đoàn thống trị cộng sản. Hoàng Tùng, nguyên tổng biên tập báo Nhân
Dân, nguyên bí thư TW ĐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn, v.v… là một trong
số những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại kiểu đó.
Trong hồi ký
“Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có kể lại về thái độ của ông Hồ
đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm như sau: “Họp Bộ chính trị Bác
nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không
phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người
ấy cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”.
Sau cố vấn Trung Quốc La Quý Ba
đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là
không phải”. Và họ cứ thế làm” (xem đoạn trích, đăng trên tờ “Diễn
Đàn Forum” ở Paris, số 123/11.2002, tr.15). Khi kể chuyện này, Hoàng
Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực tế lịch sử rất quan trọng: 1/ vào
thời điểm nửa đầu thập niên 50, uy thế của ông Hồ trong Đảng là
tuyệt đối, một lời của ông đã nói ra thì không một ai, kể cả các ông
trong BCT, dám làm trái ý ông hết; 2/ tất cả các ông trong BCT TW,
không trừ một ai hết, đều răm rắp giữ đúng tư cách một người học
trò khiêm tốn, không bao giờ được phép quyết định những chủ trương
lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là việc làm trái ý ông. Hồi
1952-1953 thì không thể nào có chuyện “Thôi tôi theo đa số” và “Và họ
cứ thế làm” được!
Nếu thật sự ý thức được là “không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”, mà ông Hồ chỉ lắc đầu một cái
thôi, chứ không cần phải nói nhiều lời như Hoàng Tùng kể, thì chắc
chắn là ông đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm! Mà không chỉ một mình bà
Năm! Thêm nữa, cái chữ “họ” trong câu của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế
làm” rất mập mờ: “họ” là ai? Các ông trong BCT hay các cố vấn? Các
ông trong BCT thì chắc chắn là không. Còn các ông cố vấn có thể họ
trái ý với ông Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng của Việt Nam, nhưng họ
không thể bắt ép ông được, họ chỉ là cố vấn, chứ không có quyền
biểu quyết, quyết định. Những cơ quan nào đã từng làm việc với cố
vấn Trung Quốc hồi đó đều biết cái nguyên tắc đó. Cho nên có thể
khẳng định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng là ông Hồ đã không
cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án Xét lại – chống Đảng, ông
đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông biết rõ về họ.
Hơn nữa, một câu
hỏi hoàn toàn chính đáng được đặt ra: trong suốt ba-bốn năm đằng đẵng
lẽ nào ông Hồ và BCT không hề hay biết gì hết đến những thảm hoạ
của người dân ở nông thôn mà họ cai trị hay sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường
Chinh và các ông khác trong BCT không biết rằng ở quê hương mình những
người đồng hương của họ đang khốn khổ ra sao? Lẽ nào trong giới thân
cận của ông Hồ và các uỷ viên BCT không có một ai dám phản ánh tình
trạng bi đát của người dân cho họ biết hay sao? Câu trả lời dứt khoát
là: các ông ấy đều có biết, nhưng các ông đều im lặng! Im lặng đến
nỗi ông Vũ Đình Huỳnh một lần đang ốm cũng cố chống gậy lên Chủ
tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt ông: “Máu đồng bào, đồng
chí đã đổ mà Bác ngồi yên được à?
Chúng ta tuy không có học, chúng
ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa xây dựng chính quyền, vì dốt nát
chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng
ta nhuốm máu đồng bào, đồng chí!” (Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng
Tùng cũng đã lờ tịt cái thực tế lịch sử phũ phàng này: Trong suốt
thời gian CCRĐ, ông Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước, chưa hề ký một
lệnh ân xá nào cho một ai bị án tử hình. Chỉ từ sau Đại hội lần
thứ 20 ĐCS Liên Xô và nhất là sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung
cấp của Đảng (từ 28.04 đến 03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán
bộ thì mới có lệnh tạm thời chưa thi hành các án tử hình. Nhưng, than
ôi, lúc đó thì… CCRĐ về cơ bản đã gần xong rồi! Lúc đó các đoàn và
UBCCRĐTW đang bắt tay làm báo cáo tổng kết để chuẩn bị cho hội nghị
TW Đảng kiểm điểm CCRĐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc
chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, Hoàng Tùng cũng cố tình đổ lỗi cho cố
vấn Trung Quốc là chính, chứ không phải lỗi của ông Hồ và ĐCSVN. Ông
Tùng viết: “Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức
lại một số tổ chức của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác,
như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành
công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà
họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích
của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm
1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng đã gần
xong, thế mà bảo là “kịp”! – Người viết), nếu không thì tan nát hết”.
Một đoạn khác: “Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là
do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta
đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội,
làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí
trung nông cũng đánh. Đảng viên tốt cũng bị đánh. Kết quả của những
chính sách, cải cách lúc đó là như thế” (xem tờ “Diễn Đàn Forum” nói
trên).
Đúng là các cố vấn Trung Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRĐ ở
Hoa Nam, khi Hồng quân tiến xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ
chức của ĐCS, nên có nhiều người không phải cộng sản cũng đã đứng ra
lập tổ chức, lập chính quyền, vì thế khi làm CCRĐ thì ĐCS Trung Quốc
cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch các tổ chức đó đi lập những tổ
chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, tình hình hoàn toàn khác
hẳn. Không thể làm rập khuôn theo kinh nghiệm Hoa Nam được. Tôi cũng
chẳng thích gì các cố vấn Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải
xét vấn đề khách quan theo đúng sự thật lịch sử, chứ không thể đổ
lỗi, đổ tội tùm lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và BCT TW ĐLĐVN sống
và làm việc ở Việt Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố
vấn Trung Quốc xúi gì là làm nấy?
Chẳng qua chỉ vì khi đã say men
“lập trường giai cấp đấu tranh”, say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme,
Maoisme… trong cuộc lên đồng tập thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng
sản Việt Nam cũng “hăng hái” không kém gì người ta. Tôi còn nhớ, có
lần đọc bài nói chuyện của ông Hồ với cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội
san “Cải cách Ruộng đất” (tạp chí lưu hành trong nội bộ), trong đó ông
giải thích rất mộc mạc chủ trương không được dựa vào tổ chức cũ như
sau: “Tổ chức cũ là “tổ kén”, các cô, các chú không được dựa vào…”.
Lại cũng cái lối dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói trên! Năm
1962, khi nói chuyện về Tuyển tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến
Giang, lúc đó là phó giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng:
“Làm tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm, phải rà soát lại cả, bao nhiêu
bài nói của ông cụ trong CCRĐ phải loại bỏ hay thu gọn lại”. Tôi hỏi
anh có nhớ bài ông cụ nói “Tổ chức cũ là “tổ kén” không? Anh trả
lời: “Có chứ! Bài đó phải loại bỏ. Cán bộ đảng viên nông thôn người
ta đang oán giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế nào được!”. Nếu
ông Hồ không tán thành chủ trương của các cố vấn đối với tổ chức
cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải nói thế đâu?
Tôi kể lại những
chuyện đó chỉ để đi đến kết luận này: ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ tội
cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách nhiệm lớn lao của mình trong
CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN chưa sám hối được về những tội ác đã gây ra,
thì người dân chớ có hy vọng là Đảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ
không tái diễn lại những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi
người đừng quên: CCRĐ không phải là thảm hoạ đầu tiên, cũng chẳng
phải là thảm hoạ cuối cùng mà tập đoàn thống trị cộng sản Việt
Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi không kể những thảm hoạ trước CCRĐ,
mà chỉ nói ngay liền sau CCRĐ là vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án
Xét lại – chống Đảng, rồi Cải tạo công thương nghiệp, đánh đổ tư sản
ở miền Bắc, rồi cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc
hội do Trường Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người vô
tội ở miền Bắc vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu
Thân, v.v… và v.v… Nếu kể hết thì ta thấy cả một chuỗi dài tội ác
khủng khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận ngày nay. Cố
nhiên, ngày nay người ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội
ác vẫn thế.
Tội ác mới gần
đây nhất là vụ án Lê Chí Quang, xử một nhà yêu nước chân thành, một
chí sĩ đáng kính dù chỉ mới ngoài ba mươi tuổi! Cái “tội” của anh là
đã dũng cảm dấn thân vì nước, đã dám kêu gọi đám cầm quyền hiện nay
hãy cảnh giác kẻo mang tội bán nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân
vào “Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng” những mong trừ được quốc nạn cho
dân tộc. Tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã trắng trợn bày
trò xử án để tống người thanh niên yêu nước vào tù, người thanh niên
đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng của anh trong bài tiểu luận nổi
tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”: “Tôi viết bài này khi đang bị
kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các lực lượng bảo thủ và tay sai
cho Bắc Triều.
Biết rằng, bài viết này không làm cho hào quang lấp
lánh trên đầu tôi mà trái lại, càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng nguy
hiểm. Ngay như đối với một công thần của cách mạng, mà họ còn ngang
nhiên tuyên bố xanh rờn: “… Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ
chế độ”. Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến
thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước hiểm
hoạ khôn lường của tồn vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả thân, bởi
tôi tâm niệm câu nói của Hàn Phi Tử: “Nước mất, mà không biết là
bất tri. Biết mà không lo liệu, là bất trung. Lo liệu, mà không liều
chết là bất dũng“. Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương
tri dân tộc trong và ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ
giáo” (01.10.2001).
Rất mong rằng
trong dịp nhớ lại thảm hoạ CCRĐ, “lương tri dân tộc trong và ngoài
nước”, nhất là lương tri giới trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc tài
đảng trị mà còn thì những thảm hoạ tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục,
vì tập đoàn thống trị cộng sản không tôn trọng con người, không tôn
trọng sinh mạng và quyền tự do của con người, không tôn trọng luật
pháp mà chỉ coi trọng quyền lực của họ là tối thượng mà thôi. Nhắc
lại thảm hoạ CCRĐ, chúng tôi rất mong mọi người, nhất là giới trẻ,
noi gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm xoá bỏ chế độ độc
tài nhằm chuyển hoá đất nước ta thành một xã hội dân chủ đích thực,
tạo điều kiện cho sự phát triển và phồn vinh của Tổ quốc chúng ta.
Nguyễn Minh Cần
Đứa nào bán nước!? -
Dân Làm Báo
Biếm họa PHO (Danlambao)
Đời Mồ Côi
Em sinh
ra đã không hề biết mẹ
Hàng
ngày Em theo chị để ăn xin
Ngày
đầu đường đêm ghế đá công viên
Sống
lay lắt nhờ đồng tiền thiên hạ.
Nhiều
khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai chị
em vật vã dạ cồn cào
Dế ve
Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong
trời sáng xin cơm thừa hàng quán.
Cha
chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang
bên Tàu vào động bán dâm
Nhà cửa
ruộng nương
Đảng
qui hoạch chẳng bồi thường
Nghe
người nói cán bộ phường chia chác
Mình
sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi
nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ
cha đời đói rét bơ vơ
Đừng
khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.
Chuyện
xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị
tông xe nằm ngất bên đường
Khi mọi
người đưa chị đến nhà thương
Chị đã
chết từ trên đường nhập viện.
Kẻ tông
chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên
quan chúng đã biến vào đêm
Hết họ
hàng giờ chỉ còn mình em
Nên ánh
mắt mới buồn lên đến thế.
Anh xin
lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ
mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn
mày không được đảng yêu thương
Nhưng
còn có những trại cô nhi viện
Uyển Thi
danlambaovn.blogspot.com
MUA ĐÀN
BÀ VN : Không ưng được đổi lại
http://m.9gag.com/gag/6699050
Đây là thời đại siêu xa
lộ tin tức, đâu phải chúng muốn làm gì thì làm.
TIẾN
LÊN HONG KONG !
TIẾN LÊN HONG KONG !
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
|
TIẾN LÊN HONG KONG !
|
|||||||
|
Preview
by Yahoo
|
||||||
|
Ngốc ơi là ngốc . Một lũ
cán ngố đứng xếp hàng một để ... ngửi . Đúng là một đám hề
!
Còn mụ "y tế" thì ... nếm . Chán ơi là
chán ! Kết quả là đã 40 năm , VN vẫn còn thù
lù hàng đống thực phẩm độc
hại và bẩn cuả bọn Chệt cộng tống
sang . Hiện nay VNcs đang đứng đầu bảng thế giới về ung
thư , thì mụ "y tế " có "nếm" cho lắm , cũng bằng
thừa .
Xem kết quả , biết việc làm .
HY.
Cán Ngố Gộc đi thanh tra kiểm
soát...
Bó tay Bó tay ! Hết ý,
hết ý kiến.
Cùng nếm, ngửi, gõ với các Bộ trưởng Ngố: Kim Tiến - Khôi
Nguyên - La Thăng:
Mụ Kim Tiến, Bộ trưởng Y té (giếng) Ngố đi kiểm tra thực phẩm ở chợ như vầy nè
!!!!
Chị Kim Tiến, bộ chưởng Y tế đi kiểm tra thực phẩm ở chợ
Anh Phạm Khôi Nguyên, bộ chưởng bộ Tài Nguyên và
Môi trường và bầu đoàn đi kiểm tra chất lượng môi trường"
Chỉ bọn quan chức
Việt Nam mới có hành động kỳ quặc và ngu xuẩn thế này!
Ối trời ơi là ông Tiến sĩ ! Ông nghè Phạm Khôi Nguyên ơi
Anh Đinh La Thăng,
bộ chưởng bộ Rao Thông đi kiểm tra độ lún của mặt đường
CHÂN
DUNG 'CÁC ĐẦY TỚ NHÂN DÂN'
Ngạo
mạn, dâm ô chính là Lê Duẩn
Già
mà lắm con là lão Đỗ Mười
Mưu
mô quỷ quyệt là Lê Đức Anh
Nhẫn
nhục sống lâu là Võ Nguyên Giáp
Chưa
nói đã cười là Nguyễn Minh Triết
*
Giả
danh Mác xít là Lê Khả Phiêu
Tham nhũng đớn hèn là cậu y tá (Nguyễn Tấn Dũng)
Ác thú lộng hành là Nguyễn Văn Hưởng
Gian manh, trí trá là Nguyễn Sinh Hùng
Cái gì
cũng nhặt là Tô Huy Rứa
*
Không
bộ nào chứa là Nguyễn Thiện Nhân
Vì gái
quên thân là Nông Đức Mạnh
Thức
thời, né tránh là Nguyễn Hải Chuyền
Miệng
lưỡi dịu mềm là Vương Đình Huệ
Thiểu
năng trí tuệ là Đinh La Thăng
*
Định hướng tối tăm là Nguyễn Phú Trọng
Ghét
trung yêu nịnh là Lê Hồng Anh
Phát
biểu lăng nhăng là Phạm Vũ Luận
Quen
đánh giặc miệng là Trương Tấn Sang
Hán tặc chính danh là Hoàng Trung Hải
*
Thầy
gét bạn khinh là Hồ Đức Việt
Dối
gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Đổi
trắng thay đen là Trương Vĩnh Trọng
Triệt
suy phù thịnh là Trần Đình Hoan
Đã dốt
lại tham là Lê Thanh Hải
*
Ăn vụng
nói dại là Đinh Thế Huynh
Cạn nghĩa cạn tình chính là Tô Lâm
Juda
phản chúa là Nguyễn Đức Tri
Tình
duyên lận đận là chị Kim Ngân
Vừa béo
vừa dâm là Tòng Thị Phóng
*
Dối
gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Lên
chức nhờ cha là Nguyễn Thanh Nghị
Mặt
người dạ thú là Phạm Quý Ngọ
Tính
tình ba phải là Phạm Gia Khiêm
Chưa
từng thanh liêm là Nguyễn Thế Thảo
*
Ăn tiền
tàn bạo là Nguyễn Đức Nhanh
Chạy
trốn an toàn là Dương Chí Dũng
Nghìn
tỉ tham nhũng là Vinashin
‘Bà
con’ Thủ Tướng là Phạm Thanh Bình
Ngậm
thị ăn tiền là Vũ Huy Hoàng
*
Xôi
thịt mê gái là Trịnh Đình Dũng
Lừa
thầy phản bạn là Trương Hòa Bình
Cướp, Giết la làng là Thống đốc Bình
Ăn no
kín tiếng là Cao Đức Phát
Móc
ngoặc đi đêm là Ngô Xuân Dụ
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN
rồi mai cũng trong tay Tầu
Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự
thiêu ở Tây Tạng
|
Lửa trong Vùng đất của
Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng
|
||||
View on www.youtube.com
|
Preview by Yahoo
|
||||
Bà con hãy tìm đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi
1975 kẻo bọn Tàu cộng đến cai trị thì chạy không kịp nữa!
Một vị ni sư bị đối xử tàn nhẫn:
Coi Tây Tạng trong tay
Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...
https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kpc3wmwKit0
Chiến tranh biên giới Việt Trung
năm 1979
http://www.youtube.com/watch?v=eEBkpsCwsDY
Battlefield Vietnam -
Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
http://www.youtube.com/watch?v=eQdFGr7NQ4o&list=PLCABD020D6B200061
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P1)
https://www.youtube.com/watch?v=NTZGFJyF2pQ
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P2)
https://www.youtube.com/watch?v=LSpiyHxlK5I
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P3)
https://www.youtube.com/watch?v=P2Zbrz4iJbc
http://baomai.blogspot.com/2014/07/tham-dot-ngu-khong-loi-thoat-cua-cong.html
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ve-van-hoc-mien-nam-1954-1975.html |
Văn học và chính trị
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/van-hoc-va-chinh-tri.html
Israel: Một đất nước thần kỳ
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/israel-mot-at-nuoc-than-ky.html
Đừng sống bằng sự dối trá
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ung-song-bang-su-doi-tra.html
|
HCM chính là thiếu tá Hồ Quang thuộc QĐND Trung Cộ...
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/hcm-chinh-la-thieu-ta-ho-quang-thuoc.html
Ha ha ha !
http://lh3.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Hố hố hố !
http://lh6.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Không biết làm thịt em nào trước đây?
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
xem thêm
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Sốc - Lính Trung cộng hành hạ tra tấn tù binh VN vô cùng
tàn bạo dã man
https://www.youtube.com/watch?v=GwhBJ6Y-Aks
Nhà báo Bùi Tín phản bác luận
điệu xuyên tạc của báo QĐND ngày 26-08-2012.
https://www.youtube.com/watch?v=I2jL0S8GnoQ
SỐNG VỚI BỌN
"ĐỈNH CAO TỘI ÁC" VIỆT CỘNG, "CHÚA TRÙM THAM NHŨNG"
TỤI MÌNH CŨNG KHỐN
NẠN VỚI CHÚNG NÓ, NÓI CHI CON NGƯỜI -
|
br class="" style="">
Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản
Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|
|
|
|
|
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
__._,_.___
View attachments on the web
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.