TPP
Và Yếu Tố Mỹ Trong Nền Chính Trị Việt
Nam
Nguyễn Cao Quyền
Từ sau Chiến Tranh Lạnh vấn đề đấu tranh cho dân
chủ và nhân quyền tại Việt Nam do Mỹ đạo diễn và triển khai đã mang một nội
dung khác với ý muốn của người Việt hải ngoại. Trong ba bốn chục năm qua,
chúng ta đã thiếu linh động để chuyển biến thuận lợi với tình hình quốc tế và
hơi thiếu sáng kiến để nâng cao hiệu quả của sứ mạng đang theo đuổi.
Yếu tố Mỹ, mặc dầu với một số thành kiến bất thuận lợi kể từ ngày chế độ cộng
hoà Việt Nam rơi và tay cộng sản, vẫn là yếu tố chính để chúng ta khai
thác nhằm hỗ trợ cho nỗ lực đấu tranh chuyển thể chính trị tại quê hương.
Những đoạn viết tiếp theo xin phép được nêu lên một số yếu tố Mỹ trong nền
chính trị Việt Nam. Mục tiêu tối hậu vẫn là để phục vụ quyền lợi dân tộc
và tổ quốc,
Nền Ngoại Giao
Thương Ước của Hoa Kỳ
Khi bước vào tòa Bạch Ốc
trong nhiệm kỳ đầu tiên với chủ trương tập trung mọi nỗ lực vào các vấn đề quốc
nội, tổng thống Clinton không có một sách lược tổng quát để quản lý các vấn đề
của thế giới. Hậu quả là khi phải giải quyết những vấn đề của các địa
phương như cứu đói ở Somalia, tranh chấp chủng tộc ở Bosnia, tái lập dân chủ ở
Haiti .. ông đã hành động tùy tiện
Sự tùy tiện đó đã tạo cho người Mỹ một cảm giác thiếu an ninh vì họ đã quen
sống với các chính sách ngoại giao lớn như Chiến Lược Be Bờ dưới thởi TT
Truman, thuyết Domino dưới thời TT Eisenhower, thuyết Sống Chung Hòa Bình dưới
thời TT Kennedy hoặc thuyết Chiếh Tranh Tinh Cầu dưới thời TT Reagan. Do
đó, nhiều chỉ trích nặng nề đã nổi lên từ tứ phía.
Nhờ làn sóng chỉ trích này mà TT Clinton đã nhận thức được rằng một vị tổng
thống Hoa Kỳ không thể không có một chính sách ngoại giao lớn để điều hành công
việc của thế giới. Rất may ông đã tìm thấy lời giải đáp cho bài toán đó
nhân khi đọc nhận xét sau đây của Henry Nau trong cuốn sách “Trade
and Security” viết năm 1955.
Trong tác phẩm này Henry Nau viết “ Chính sách ngoại thương không
những là chìa khóa cho khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ và cho nền an ninh quốc
gia trong thời kỳ hậu Chiến Tranh Lạnh mà còn là lợi khí sắc bén để thực hiện
các cải cách kinh tế trong nước và thúc đẩy những thay đổi trong lãnh vực kỹ
thuật, giáo dục và hạ tầng cơ sở công cộng”.
Từ đoạn văn giá trị
trên, TT Clinton nhận ra rằng bên cạnh những phương thức đấu tranh
lỗi thời bằng bạo lực cách mạng để đi đến bầu cử tự do người ta cũng có thể đi
đến cùng một kết quả bằnh cách phát triển thương mại để mang vào và phổ
biến tại các quốc gia chậm phát triển, đang còn bị nạn độc tài nhự trị,
những mẫu hình sinh hoạt dân chủ của các công ty và doanh nhân ngoại quốc.
Đó là cách tấn công dân chủ tốt nhất và hữu hiệu nhất trong thời đại ngày nay.
Chính nhờ một sự ngẫu nhiên như vừa mô tả mà chính sách “Nới Rộng
Dân Chủ” đã ra đời và TT Clinton đã thay thế
nền ngoại giao pháo hạm bằng nền ngoại giao thương ước.
Nền ngoại gaio thương ước đã nâng con số các quốc ga dân chủ trên thế giới từ
39 (1974) lên đến 117 vào cuối nhiệm kỳ thứ nhất của ông.
Chiều
sâu của Thương Ước Mỹ – Việt năm 2000.
Đối với Việt Nam kể từ
1994, Hoa Kỳ đã dọn đường cho thương ước thanh hình. Tháng 2 năm 1994 TT
Clinton bãi bỏ cấm vận. Các văn phòng liên lạc khởi sự hoạt động từ tháng
giêng năm 1995 và sự bình thường hóa quan hệ ngoại giao gữa hai nước được thực
hiện 6 tháng tiếp theo. Sau 3 năm làm việc với Hoa Thịnh Đốn, lẽ ra
thương ước Mỹ-Việt đã hoàn thành năm 1999 nhưng Hà-Nội tự ý đình hoãn tới tháng
7 năm 2000 vì không dám qua mặt Bắc Kinh.
Vào thời gian đó, tất cả các hành động nói trên của hành pháp Clinton đã tạo
nhiều bất mãn trong các cộng đồng người Việt tự do trên toàn thế giới. Dư
luận chung nghĩ rằng Hoa Kỳ vì tham lợi nhuận nên đã quên hận thù và đang tạo
điều kiên thuận lợi cho CSVN ngồi lại chính quyền một cách bất hợp pháp.
Thật ra nếu phân tích dưới lăng kính chính trị thì thương mại không chỉ phục vụ
về mặt lợi nhuận mà còn có triển vọng vượt xa mục đích kiếm lời. Ta thấy
rồi đây, khi các công ty Hoa Kỳ ồ ạt đầu tư tại Việt Nam thì sự kiện này chính
là động lực thúc đẩy tiến trình chuyển thể chính trị tại nược ta.
Từ thời triết gia Aristotle, nhiều học thuyết kinh tế đã chứng minh là thể chế
dân chủ chỉ có thể tạo lập trong một nước có mức độ phát triển kinh tế khả
quan.Ngày nay các kinh tế gia hiện đại cũng chấp nhận thực tế này như một điều
kiện tiên quyết của chế độ dân chủ.
Động lực chuyển thể chính trị cũng còn xuất phát từ cung cách làm ăn hiện đại
của công ty Hoa Kỳ. Cung cách này tôn trọng một số nguyên tắc căn bản.
Thứ nhất, là nguyên tắc tuyển lựa công nhân dựa trên khả năng nghề
nghiệp. Thứ hai, là nguyên tắc làm việc tập thể (team work) và
chia sẻ tin tức. Thứ ba, là nguyên tắc sinh hoạt dân chủ trong xí
nghiệp để tạo dựng môi trường và điều kiện thuận lợi cho sáng tạo phát sinh và
nảy nở. Tât cả những nguyên tắc này dẫn đến dân chủ vì nó là nguồn gốc
của các “tác dụng phụ về nhân quyền” ( human rights
spin off )
Dần dà các công ty Hoa Kỳ sẽ tạo nên một số công nhân trẻ trung, hãnh diện,
hiên ngang và tự tin vào tài năng và óc sáng tạo của mình. Vì là những
con người độc lập và tôn trọng tự do, đương nhiên gới công nhân trẻ này sẽ đứng
ở thế đối lập với chính quyền là gia nhập Tổ Chứcđộc đoán và với nhóm
người bất tài trong khu vực quốc doanh. Và tất nhiên họ sẽ không thể nào
chấp nhận cách đối xử hiếp đáp và tùy tiện của nhà nước cộng sản đối với cuộc
sống mà họ hoàn toàn làm chủ. Thực tế này sẽ nhanh chóng bóp chết con
quái vật cộng sản tác yêu tác quái từ hơn nửa thế kỳ nay trên một nước Việt Nam
điêu đứng vì chiến tranh và ngu dốt.
Không khí làm ăn dân chủ này sẽ thay đổi những quan niệm lỗi thời về
tương quan chủ-thợ, để từ đó, nới rộng ra về tương quan giữa người cai trị và
người bị trị. Các công nhân và trí thức trẻ sẽ ý thức sâu sắc về những
giá trị của nhân loại. Ý thức này sẽ lan nhanh, lan rộng, để trở thành
thái độ chính trị của toàn dân và đẩy lui cộng sản vào bóng tối.
WTO và hậu WTO
Kể từ năm 1986
CSVN đã bắt buộc phải ly khai với kinh tế hoạch định và ôm chân kinh tế thị
trường để tìm con đường sống. Do ôm chân tư bản nên Hà Nội đã được chính
thức chấp nhận là hội viên thứ 150 của Tổ chức Mậu Dịch Thế Giớl (WTO)
vào ngày 11 tháng Giêng năm 2007. Đây không phải là một tin buồn mà
trái lại là một tin mừng cho phe Dân Chủ Việt Nam. Quan điểm này
xin được khai triển tộng rãi như sau.
Trong đấu tranh dân chủ cho Việt Nam hiện nay, yếu tố chính trị hàng đầu mà
chúng ta cần lưu tâm là việc Hà Nội bắt buộc phải hội nhập vào trào lưu
toàn cầu hóa. Cụ thể là gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO).
Họ bắt buộc phải quyết định như vậy vì, ngày nay, bất cứ một quốc gia nào muốn
phát triển cũng phải chen chân vào thị trường thế giới để tìm cách tối đa hóa
phần chia của mình trên thị trường đó.
Nhưng gia nhập WTO là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Khác với GATT (General
Agreement On Tariff And Trade) ngày xưa chỉ có vai trò cảnh sát, WTO ngày nay
là một quan tòa đầy quyền lực. WTO là định chế thế giới đầu tiên có
thẩm quyền cưỡng chế. Nếu thành viên nào vi phạm
luật chơi, thành viên đó sẽ bị loại ra ngoài ngay thức khắc. Hậu quả là
sẽ lãnh đủ những thiệt hại về các cơ hội phát triển. Với trình độ
phát triển hiện nay, Việt Nam không đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn này.
Vậy thì việc gì sẽ xảy ra ?
Việc xảy ra là nông dân và công nhân sẽ phải gánh chịu hậu qủa nặng nề của tiến
trình hội nhập. Công nhân và nông dân sẽ thi nhau xuống đường vì bị bóc
lột mà không có công đoàn độc lập nào bảo vệ. Hàng ngũ biểu tình mỗi ngày
một phình lớn. Tin tức biểu tình lan nhanh tới những vùng xa xôi hẻo
lánh. Cả nước xuống đường, xã hội bị hoàn toàn tê liệt. Công an và
quân đội không còn tinh thần đàn áp. Một chính quyền bị bao vây không thề
nào sống sót. Bài học Đông Âu năm 1989 hãy còn nguyên vẹn
trong tâm trí mọi người.
TPP
: Việt Nam phải thỏa mãn
Luật Công Đoàn Độc Lập
Ngày 5/11/2015 vờa qua,
toàn bộ nội dung của hiệp ước thương mại Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP :
Trans-Pacific Partnership ) đã được tòa Bạch Ốc phổ biến trên mạng thông tin
đại chúng Medium và gửi đến địa chỉ điện thư của nhiều công dân.
Hiệp ước TPP gồm 30 chương và một số thỏa hiệp bên lề quy định trao đổi thương
mại giữa 12 quốc gia trong vùng Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam nhưng
không có Trung Quốc. Đây là một thỏa hiệp lớn nhất từ trước tới nay.
Tổng sản phẩm nội địa của 12 nước này chiếm khoảng 40% nền kinh tế thế
giới. Hiệp ước TPP sẽ loại bỏ hầu hết những thuế nhập cảng và những hàng
rào thương mại đối với những hàng hóa trao đổi giữa 12 nước hội viên.
TPP có riêng một chương về lao động theo đó, tất cả mọi thành viên phải cho
phép công nhân thành lập công đoàn lao động. Phải cho phép công nhân
quyền thương lượng tập thể, không được cưỡng chế lao động, không được sử dụng
lao động trẻ em và phân biệt đối xử trong việc làm. Những vi phạm sẽ phải
chịu trừng phạt thương mai.
Ông Manilowski, phụ tá bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách Dân Chủ, Nhân
Quyền và Lao Động tuyên bố nghiêm túc rằng, phần lớn những hiệp định
thương mại chỉ là những hứa hẹn, nhưng lần này Việt Nam có những cam kết rất cụ
thể để thay đổi luật lệ. Thoả hiệp đòi hỏi Việt Nam phải cho phép công
nhân thành lập công đoàn độc lập, có quyền đình công không những về lương bổng,
về giờ làm việc mà cả về điều liện và quyền làm việc.
Những công đoàn độc lập không bắt buộc phải tham gia vào liên đoàn lao động của
chính quyền nhưng có thể liên kết với nhau hoặc tìm trợ giứp của bất cứ tổ chức
lao động quốc tế nào khác, chẳng hạn như AFL-CIO của Mỹ. Một ủy ban độc
lập gồm ba chuyên viên lao động của Việt Nam, cùa Hoa Kỳ và của Tổ Chức Lao
Động Quốc Tế sẽ theo dõi sự tuân thủ của Việt Nam đối với những đòi hỏi nói
trên. Ủy ban sẽ thực hiện những cuộc duyệt xét khi cần thiết. Việt
Nam có 5 năm để thi hành những giao ước về lao động. Nếu những giao ước không
được thỏa mãn trong thời gian ấn định, Hoa Kỳ sẽ từ chối những quyền lợi thương
mại của Việt nam.
Quyết ̣định gia nhập TPP là một quyết định hoàn toàn hợp lý của Việt Nam.
Cải tổ luật lao động là bước đầu để có thể “thoát Trung” và hội nhập vào thế
giới văn minh.
Điều mà chúng ta cần theo dõi
Điều mà chúng ta cần
theo dõi từ nhiểu năm nay là Hoa Kỳ đã đầu tư một cách rất khéo léo và tế nhị
để dân chủ hóa Việt Nam. Qua ngả ngoại thương họ đã thực hiện được một số
kỳ tích mà chúng ta ghi nhận như sau.
Bằng ngoại thương họ đã họ đã tạo được một
thế đứng trong lòng xã hội Việt Nam để từ thế đứng này nhận xét, theo dõi và
hành động cho hữu hiệu. Bằng ngoại thương họ đang giúp cho Việt Nam
phát triển về kinh tế để nâng cao trình độ nhận thức dân chủ của người dân.
Bằng ngoại thương họ đang du nhập vào Việt Nam nền văn hóa và các tư tưởng Âu
Mỹ để tạo nên một lớp người ly khai với các giáo điều cộng sản lỗi thời. Bằng
ngoại thương họ đã giúp cho Việt Nam gia nhập WTO và TPP đề thuần thục
hóa nước này với những luật chơi dân chủ của cộng đồng nhân loại văn minh.
Bằng viện trợ kinh tế và nhân đạo, họ đang ra
sức xây dựng một hệ thống xã hội dân sự tại Việt Nam, như là căn bản cho một
nền dân chủ tương lai sắp xuất hiện. Bằng hợp tác giáo dục họ đang huấn
luyện lớp lãnh đạo nối tiếp gồm những thành phần có thể hiểu được thế nào là
dân chủ tự do. Bằng liên minh quân sự họ nghĩ rằng quân đội Việt Nam có
thể cùng Hoa Kỳ thay đổi bàn cờ chính trị địa phương khi cần đến. Bằng
các định chế quốc tế (World Bank, IMF) họ dùng tiền viện trợ để thay đổi thái
độ cũa nhóm lãnh đạo đương thời tại Việt Nam trong những quyết định dân chủ và
trong việc thiết lập các định chế tiến bộ,
*
Trên đây là một nhận định thô sơ về một số
“yếu tố Mỹ trong nền chính trị Việt Nam”. Họ đã thành công hay thất bại
thì việc đó đã có thể cảm nhận được khi quan sát thực tế của đất nước chúng ta
hôm nay.
Dù thế nào đi nữa thì những người dân chủ hải
ngoại cũng cần rút ra được một bài học đấu tranh mềm dẻo hơn, khôn
ngoan hơn và hữu hiệu hơn để thâu ngắn đoan đường chông gai trước mắt./.
_
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.