Thứ
hai 23 Tháng Chín 2013
Hiệp ước Hàng hải Đông Nam
Á: Giải pháp cho tranh chấp Biển Đông ?
DR
Trong hai ngày
19-20/09/2013, một cuộc hội thảo khu vực về Biển Đông đã diễn ra tại Phnom Penh
với chủ đề « ASEAN và Biển Đông : Những thành tựu, các thách thức và hướng đi
tương lai (ASEAN and the South China Sea : Achievement, Challenges and Future
Direction) ». Hội thảo do Viện Cam Bốt vì Hòa bình và Phát triển CICP
(Cambodian Institute for Cooperation and Peace) tổ chức, đã quy tụ một số
chuyên gia đến từ các nước ASEAN cũng như từ Trung Quốc, Canada và Úc.
Đáng chú ý tại cuộc hội
thảo này, có tham luận của giáo sư Carlyle A.Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng
Úc : « Kết hợp một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông COC vào Cộng đồng Chính trị an
ninh của ASEAN: Con đường trước mặt (Incorporating a Code of Conduct for the
South China Sea into ASEAN’s Political-Security Community: The Road Ahead) ».
Điểm nổi bật trong tham luận là đề nghị theo đó khối ASEAN nên sớm đúc kết một
« Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á », một văn kiện có khả năng trở thành phương
tiện tốt góp phần mang lại ổn định cho vùng Biển Đông.
Trong tạp chí hôm nay,
RFI sẽ giới thiệu một số nét chính trong đề nghị về Hiệp ước Hàng hải Đông Nam
Á đã được Giáo sư Thayer nêu lên trong tham luận trình bày tại Phnom Penh, một
ý kiến mà chính ông cũng thừa nhận là còn được tiếp nhận một cách thận trọng.
Trả lời phỏng vấn nhanh
của RFI hôm 20/09 sau khi báo cáo của ông được trình bày tại cuộc hội thảo ở
thủ đô Cam Bốt, Giáo sư Thayer cho biết :
« Trong phiên họp cuối
cùng Đại sứ Pou Sothirak (Giám đốc Điều hành Viện Cam Bốt vì Hòa bình và Phát
triển) đã gián tiếp nói rằng đề nghị của tôi quá chung chung và không thể đạt
được. Nên tập trung vào đề nghị của Việt Nam về việc không sử dụng vũ lực trước
tiên.
Việt Nam đã đề nghị là
ASEAN và Trung Quốc cùng đồng ý rằng không ai trong số họ sẽ là bên đầu tiên sử
dụng vũ lực trong tranh chấp Biển Đông. Đây sẽ là một cam kết của tất cả các
bên theo đó, khi xảy ra sự cố, họ sẽ tự kiềm chế và không dùng đến vũ lực. Đấy
sẽ là một biện pháp xây dựng lòng tin quan trọng. »
Xin nhắc lại là ý tưởng
về một thỏa thuận « không sử dụng vũ lực trước tiên » giữa Hiệp hội Đông Nam Á
và Trung Quốc đã được Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đề xuất
tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN ngày 07/05/2013 ở Brunei. Sau đó ít
lâu, ý kiến này đã được Bộ trưởng Quốc phòng Singapore tỏ ý ủng hộ tại Hội nghị
An ninh châu Á – tức Đối thoại Shangri-La - ngày 02/06/2013.
Đối với Giáo sư Thayer,
nếu Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á trở thành hiện thực, Việt Nam sẽ tránh được
tình trạng khối ASEAN mất đoàn kết trên vấn đề Biển Đông như đã từng xẩy ra
trong quá khứ, có hại cho đối sách của Việt Nam nhằm chống lại tham vọng chủ
quyền của Bắc Kinh. Tuy nhiên, về phần mình, Việt Nam cũng phải điều chỉnh một
số yêu cầu. Giáo sư Thayer giải thích :
« Hiệp ước sẽ gắn kết
toàn bộ các nước ASEAN vào vấn đề an ninh trên biển. Việt Nam sẽ được độc lập
nhiều hơn (không bị lệ thuộc) vào vấn đề quan điểm thống nhất của ASEAN. Thế
nhhưng Việt Nam sẽ phải điều chỉnh lại đường cơ sở của mình ở khu vực đông nam
cho phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng như làm rõ các đòi hỏi chủ quyền của
mình, bao gồm cả việc phân biệt rõ ràng các thực thể địa lý như bãi đá, độ cao
thủy triều lúc xuống thấp, hải đảo.
Khi nhìn vào bản đồ vùng
đặc quyền kinh tế EEZ của Việt Nam, có một chỗ phình ra trông thấy - hoặc là
phần mở rộng được gọi nôm na là ‘người phụ nữ mang bầu’ – tại vùng bờ biển phía
đông nam, để bao gồm cả khu vực bãi Tư Chính ( hoặc Vạn An Bắc theo phía Trung
Quốc). Đây là một yêu cầu quá mức. Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cần được
quy định theo đường cơ sở vẽ thẳng từ bờ biển.
Khi dự thảo Luật Biển
của Việt Nam được chuyển lên Bộ Chính trị, giới chuyên gia về biển đã đề nghị
làm cho các tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam phù hợp với luật
pháp quốc tế. Đề nghị này đã bị từ chối với lý do là Việt Nam sẽ phải đàm phán
với Trung Quốc vào một thời điểm nào đó trong tương lai và yêu sách quá mức về
vùng đặc quyền kinh tế đó là điểm khởi đầu cho cuộc đàm phán. »
Dẫu sao thì công việc
hình thành một Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á không thể được thực hiện trong một
sớm một chiều, đặc biệt trong bối cảnh giữa một số nước ASEAN, các tranh chấp
biển đảo đã có từ rất lâu. Trên các khó khăn này, Giáo sư Thayer ghi nhận :
« Đây là một dự án phải
mất ít ra là 10 năm mới thực hiện được, nhưng nó có thể là đầu mối để xây dựng
một Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN.
(Cái khó là) có một số
tranh chấp hàng hải nhất định đã tồn tại từ lâu đời và một số nước Đông Nam Á
cảm thấy nên duy trì nguyên trạng, vì hướng tới một hiệp ước sẽ khơi lại những
vết thương cũ. »
Cần tiến tới Hiệp
ước Hàng hải vì COC bị Trung Quốc trì hoãn
Trong bản báo cáo khoa
học của mình, Giáo sư Thayer đã nêu bật nguyên do chính thúc đẩy ông nghĩ đến
giải pháp « Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á ». Đó là triển vọng được ông cho là
còn rất xa vời của Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc,
chủ yếu xuất phát từ thái độ trì hoãn của Bắc Kinh.
Trong phần đề cập đến
cách thức đạt được COC, ông ghi nhận là từ trung tuần tháng Chín 2013, quan
chức cao cấp ASEAN và Trung Quốc đã bắt đầu mở tham vấn về COC. Tuy nhiên, đối
với với Giáo sư Thayer, ngay từ khởi điểm, Bắc Kinh đã đặt ra một số điều kiện
làm cho khó có thể tiến nhanh đến một bộ Quy tắc Ứng xử. Ông giải thích :
« Trung Quốc nhấn mạnh
rằng hai tiến trình (thực hiện) bản Tuyên bố Ứng xử DOC và (xây dựng) bộ Quy
tắc Ứng xử COC tương quan chặt chẽ với nhau, và chỉ có thể được thúc đẩy, một
khi đạt được tiến bộ trong việc tiến hành các hoạt động hợp tác được liệt kê
trong bản Tuyên bố DOC. Tuy nhiên, cùng một lúc, Trung Quốc lại xác định rằng
thỏa thuận nhanh chóng trên bộ Quy tắc COC là điều không thực tế.
Để có thể đạt được một
bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông, ASEAN cần phải tách biệt các cuộc thảo luận về
DOC ra khỏi thảo luận về COC. Vào tháng 08/2013, tại cuộc họp đặc biệt Trung
Quốc – ASEAN, Ngoại trưởng Malaysia Datuk Seri Anifah Aman đã cho rằng ‘công
việc tham vấn về COC phải được bắt đầu càng sớm càng tốt và không nên gắn liền
với việc thực thi DOC, cả hai tiến trình nên được thực hiện song song với
nhau’.
Để cho các cuộc đàm phán
về việc thực thi bản Tuyên bố DOC có thể bắt đầu, thì Trung Quốc phải làm rõ
các đòi hỏi chủ quyền của mình tại Biển Đông như là một điều kiện tiên quyết
cho việc khởi sự các hoạt động hợp tác ở Biển Đông. »
Đồng thuận khó
khăn về COC vì bị Bắc Kinh phá quấy
Một khó khăn khác trong
việc tiến tới bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông là tìm được sự đồng thuận ngay
trong nội bộ khối ASEAN về bản dự thảo COC của riêng mình để có thể trình bày
với phía Trung Quốc. Công việc tìm kiếm đồng thuận này lại càng khó khăn hơn
trong bối cảnh Trung Quốc không ngần ngại gây chia rẽ giữa các nước ASEAN.
« Tiến trình tham
vấn/đàm phán ASEAN - Trung Quốc về DOC/COC là cần thiết nhưng chưa đủ để có
được một Bộ Quy tắc Ứng xử mang tính ràng buộc.
ASEAN bám sát trọng tâm
đàm phán về COC với Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng cho dù đây là một mục tiêu an
ninh quan trọng, về cơ bản đó là một ưu tiên không đúng chỗ. Các cuộc đàm phán
giữa Trung Quốc và ASEAN về COC đã làm cho ASEAN bị chia thành hai nhóm - có
tranh chấp và không tranh chấp - làm cho việc thông qua một chính sách chung vô
cùng khó khăn.
Cách tiếp cận đó cũng
cho phép Trung Quốc khai thác sự khác biệt giữa các thành viên ASEAN và trì
hoãn không chỉ thảo luận về các biện pháp hợp tác trong khuôn khổ bản Tuyên bố
DOC nhưng trên cả việc xây dựng COC. Điều đó cung cấp cho Trung Quốc thời gian
để củng cố sự hiện diện của họ, tức là quyền kiểm soát trên vùng biển đảo tại
Biển Đông. »
COC còn bị giới
hạn về phạm vi áp dụng
Riêng về bộ Quy tắc Ứng
xử COC, Giáo sư Thayer cho rằng phạm vi áp dụng của văn kiện này còn quá hạn
chế về mặt địa lý, không bao trùm toàn bộ các vùng biển Đông Nam Á.
« Thảo luận ASEAN-Trung
Quốc về bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông COC không bao gồm các vùng biển Đông
Nam Á bên ngoài Biển Đông. Trong thực tế, như các khó khăn nẩy sinh trong việc
đàm phán với các cường quốc hạt nhân để họ gia nhập Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á
không có vũ khí hạt nhân từng cho thấy, không hề có thoả thuận về những gì tạo
thành khu vực địa lý được gọi là Biển Đông.
Lĩnh vực hàng hải của
Đông Nam Á bao gồm không chỉ Biển Đông và Vịnh Thái Lan mà còn là các vùng biển
xung quanh các quốc gia ven biển và quần đảo. Khu vực rộng lớn bao trùm các
vùng đặc quyền kinh tế của toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á (gồm cả Đông Timor)…
Vùng biển Đông Nam Á rất
thiết yếu cho giao thông vận tải, và giao dịch thương mại của các nước trong
khu vực cũng như các cường quốc bên ngoài. Tóm lại, vùng biển Đông Nam Á quan
trọng đối với con người, lương thực và an ninh năng lượng. Những vấn đề đó liên
quan chặt chẽ với nhau.
Các quốc gia ven biển
trong ASEAN đang gặp phải khó khăn trong việc phát triển các nguồn tài nguyên
nằm trong vùng EEZ của họ do việc yêu sách chủ quyền nằm trong bản đồ đường
chín đoạn của Trung Quốc bao trùm khoảng 80% Biển Đông. Cạnh tranh chiến lược
Trung-Mỹ có thể làm khu vực bất ổn thêm, trong lúc việc khai thác tài nguyên
Biển Đông thêm khó khăn. »
Theo giáo sư Thayer, vì
tất cả các lý do kể trên, do nguy cơ thảo luận ASEAN - Trung Quốc về COC rất có
thể sẽ kéo dài vô tận, ASEAN cần phải có phương án giải quyết riêng. Đó là vừa
đàm phán với Trung Quốc về việc tách hai cuộc thương thuyết về DOC và COC thành
hai tiến trình riêng biệt, vừa yêu cầu Bắc Kinh làm rõ chính sách về các hoạt
động hợp tác trong khuôn khổ DOC.
Trong nội bộ, ASEAN phải
bắt đầu đàm phán giữa các thành viên về một Hiệp ước Hòa bình, Hợp tác và Phát
triển vùng biển khu vực Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á).
Theo giáo sư Thayer, Hiệp ước này dựa trên hai tiền đề :
« Trước hết, sự an toàn
của vùng biển toàn Đông Nam Á là một thể thống nhất đối với tất cả các thành
viên ASEAN, cho dù đó là nước thuộc khối ven biển hoặc trên lục địa. Hiệp ước
sẽ làm cho tất cả các thành viên ASEAN có liên can như nhau với vấn đề biển.
Điều này sẽ khắc phục tình trạng phân cách hiện nay giữa các nước ASEAN có
tranh chấp và không có tranh chấp tại Biển Đông.
Thứ hai, luật pháp quốc
tế, bao gồm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, được áp dụng đồng đều trên
toàn vùng biển Đông Nam Á và không đơn thuần là Biển Đôn, và được áp dụng cho
tất cả các nước. Việc thông qua Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á sẽ củng cố bản
chất tập thể và pháp lý của ASEAN và tăng cường khả năng đối phó của khối với
các cường quốc bên ngoài. Nó sẽ cung cấp cho ASEAN một đòn bẩy cần thiết trong
đối sách với Trung Quốc. »
Giải quyết tốt
tranh chấp trong nội bộ ASEAN để tôn cao vai trò khu vực
Theo Giáo sư Thayer,
Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á phải là một phần không thể tách rời của Cộng đồng
Chính trị- An ninh ASEAN. Văn kiện pháp lý này cần được thiết kế để giải quyết
rất nhiều vấn đề biên giới trên biển và tranh chấp lãnh thổ trên biển chưa được
giải quyết giữa các nước Đông Nam Á, từ đó lôi kéo toàn bộ các tác nhân khác
cùng tham gia kết ước.
« Tranh chấp trên biển
trong khu vực liên quan đến cả vấn đề đòi chủ quyền đối với các đảo và các thực
thể địa lý, cũng như quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên ở vùng biển
và thềm lục địa. Mục đích của Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á là giải quyết các
tranh chấp một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Nói cách khác, ASEAN có
thể khẳng định tốt vị trí của mình bằng cách dọn dẹp ngôi nhà riêng của mình
trong địa hạt tranh chấp lãnh hải giữa các thành viên. Điều đó sẽ tăng cường
đoàn kết và sự gắn kết của ASEAN và giúp toàn khối phát huy quyền tự chủ và vai
trò trung tâm của ASEAN trong vấn đề an ninh khu vực. »
Vấn đề then chốt, theo
Giáo sư Thayer, là toàn thể các thành viên ASEAN có mặt tiền nhìn ra biển phải
phân định rõ cái gì là của mình.
« Tất cả các nước ASEAN
cần điều chỉnh đòi hỏi chủ quyền trên biển của mình sao cho phù hợp với luật
pháp quốc tế, đặc biệt chú ý đến việc từ bỏ các đường cơ sở quá mức. Các quốc
gia sau đó phải phân định lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Các quốc gia cần phân biệt rõ ràng đảo với đá để phân định hải
phận cho đúng…
Các quốc gia cần chỉ rõ
những vùng lãnh thổ và thực thể địa lý khác mà họ đòi chủ quyền ở ngoài biển…
Một khi tiến trình đó
hoàn tất, tất cả các nước nên tiến hành đàm phán để giải quyết các tranh chấp
nổi bật nơi các vùng biển chồng lấn, hoặc tại nơi có tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ. Các quốc gia cần đồng ý trên một thời hạn (đàm phán) để cho sau đó, nếu
tranh chấp chưa được giải quyết, thì các nước chấp thuận quyền tài phán của Hội
đồng Tối cao ASEAN, hay trong khuôn khổ các quy định của Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển UNCLOS (Tòa án Quốc tế về Luật Biển hoặc Tòa án Công lý Quốc tế),
hoặc theo thủ tục khác đã được thoả thuận.
Tất cả các bên tham gia
Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á cần cam kết phi quân sự hóa các đảo, đá mà họ đang
chiếm đóng, trong đó có việc cấm triển khai một số loại vũ khí cụ thể, chẳng
hạn như tên lửa chống hạm bắn đi từ đất liền… »
Mở rộng Hiệp ước
đón các đối tác đối thoại
Nội dung Hiệp ước Hàng
hải Đông Nam Á do Giáo sư Thayer đề nghị còn bao gồm nhiều yếu tố khác, nhưng ý
tưởng quan trọng chính là phạm vi áp dụng cũng như tính chất mở của Hiệp định
này.
Theo ông Thayer, Hiệp
ước phải bao trùm toàn bộ vùng biển trong khu vực Đông Nam Á – chứ không chỉ
Biển Đông mà thôi - tương tự như phạm vi của Khu vực Tự do Hòa bình và Trung
lập (1971), Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (1976) và Hiệp ước Khu vực Đông Nam
Á không có vũ khí hạt nhân (1995). Bên cạnh đó, ngoài mười thành viên ASEAN
hiện hữu và thành viên tương lai như Đông Timor, Hiệp ước cần phải được mở rộng
cho các đối tác đối thoại của ASEAN và các cường quốc hàng hải khác tham gia.
Theo giáo sư Thayer
trước thái độ trì hoãn cũng như các động thái chia rẽ ASEAN của Trung Quốc nhằm
củng cố sự hiện diện của họ tại Biển Đông, ASEAN cần trang bị cho mình những
công cụ hữu hiệu hơn để đối phó. Điều đó có thể được thực hiện bằng cách hình
thành một Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.