From: dienbienhoabinh@ymail.com
Date: Fri, 13 Sep 2013 16:59:23 -0700
Subject: Người ta nói “dzậy” mà không phải “dzậy”!
Date: Fri, 13 Sep 2013 16:59:23 -0700
Subject: Người ta nói “dzậy” mà không phải “dzậy”!
Người ta
nói “dzậy” mà không phải “dzậy”!
Hàn Vĩnh Diệp (CLB
Phan Tây Hồ)
Bài viết thứ hai của Hàn Vĩnh Diệp (tức Diệp Đình Huyên) mà
chúng tôi giới thiệu đến quý độc giả là một bài được công bố vào năm 2006. Hiện
nay, các trang mạng đăng bài này đều bị đánh phá ác liệt, kể cả trang Thông Luận
cũ. Vì vậy, chúng tôi công bố lại bài viết để độc giả tiện theo dõi. Bài viết
được giữ nguyên văn, chỉ có một dòng chú thích nhỏ về chuyện “cột mốc 53” để
cập nhật hóa với các tài liệu mới thu thập.
Đây là một bài có nhan đề khá hài hước. Những ai đã từng quen
biết ông Diệp Đình Huyên đều biết rõ tính cách của ông : rất nghiêm túc, ít khi
khôi hài. Chính vì vậy mà một khi ông đã bắt đầu khôi hài thì cái cười của ông
chắc hẳn phải là một cái cười mang chút gì hơi cay đắng, một thứ “bi hài” chứ
không phải chỉ là cái cười thuần túy.
Bài này chủ yếu nói về cách hành xử của ông bạn “4 tốt, 16 chữ
vàng”, nhưng có một chi tiết liên quan đến nước ta. Đó là việc “bà con nhân dân
địa phương, các cấp lãnh đạo huyện, tỉnh đều tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nguyên
trạng dòng thác Bản Giốc như đã có từ trong lịch sử”. Nếu quả thật như thế thì
điều mà người ta thường nói lâu nay (đã có ý kiến thống nhất từ trung ương đến
địa phương) có lẽ chỉ là thành quả của “tuyên truyền”.
Cán bộ, đảng viên và nhân dân Cao Bằng “nhất trí cao” với chủ
trương phân chia Thác Bản Giốc? Nói “dzậy” mà không phải “dzậy”!
MAI
THÁI LĨNH
“…
thấy những điều mà các nhà lãnh đạo của họ nói về tình hữu nghị thân thiết giữa
hai đảng, hai nhà nước là hoàn toàn trái ngược. Họ nói đỏ nhưng làm đen, đúng
như dân Nam ta vẫn nói về sự lèo lái: “nói dzậy mà không phải dzậy”! …”
Trước
đại hội 10, liên tiếp các nguyên thủ Đảng và nhà nước, quốc hội nước bạn vĩ đại
sang thăm hữu nghị nước ta. Đây là thời kỳ các cuộc thăm viếng khá dồn dập. So
với số lần triều kiến của các nguyên thủ quốc gia ta thì không nhiều bằng,
nhưng dù sao đó cũng là một sự tiến bộ vượt bậc. Sau lần hai nước lập lại quan
hệ ngoại giao, trong 15 năm, cũng đã có hai lần nguyên thủ Đảng và quốc gia
nước bạn sang thăm. Thời kỳ “môi hở răng lạnh” hai mươi lăm năm (tính từ ngày
hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức – 1950 đến lúc quan hệ đôi bên
bắt đầu rạn nứt – 1976), chỉ có các nhân vật cao cấp đảng, nhà nước hạng hai
của họ sang thăm ta chứ nguyên thủ đảng – quốc gia chưa bao giờ hạ cố. Một tiến
bộ khác trong chuyến thăm trước ĐH 10 này là các nguyên thủ phát biểu những lời
lẽ đậm đà tình đồng chí anh em. (Đừng quên, khi tái lập quan hệ ngoại giao, họ
tuyên bố thắng thừng: chỉ có quan hệ lân bang láng giềng chứ không có quan
hệ đồng chí, đồng minh như giai đoạn trước). Và, họ hứa sẽ giúp đỡ hết mình
trong phạm vi khả năng cho phép, sẽ tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
ta v.v. Nghe họ nói mà nhiều người trong chúng ta cảm thấy hởi lòng hởi dạ! Có
người còn lạc quan cho rằng: thời kỳ băng giá giữa quan hệ hai nước đã không
còn!…
Nhưng…
Nếu ai đã có dịp thâm nhập thực tế miền biên ải phía bắc nước ta, ắt sẽ thấy thực chất của những lời hoa mỹ ấy.
Nếu ai đã có dịp thâm nhập thực tế miền biên ải phía bắc nước ta, ắt sẽ thấy thực chất của những lời hoa mỹ ấy.
Giúp
đỡ ư? Quan hệ bình đẳng, hữu nghị sao họ lại tuồn các thiết bị cũ kỹ: nhà máy
đường, xi măng lò đứng, lò gang thép… sang ta, làm nước ta thiệt hại hàng nghìn
nghìn tỉ đồng. Tất nhiên việc này không thể đổ lỗi tất cả cho họ. Đây là quan
hệ mua bán “thuận mua vừa bán”, không phải là của viện trợ không hoàn lại, ta
không mua họ cũng không thể ép. Điều đáng nói ở đây
là họ đã mua chuộc những cán bộ lãnh đạo, quản lý thoái hóa, biến chất của ta
để đồng lõa với họ gây hại cho dân, cho nước ta.
Buôn
bán sòng phẳng, hữu nghị ư? Hàng hóa của ta xuất sang họ phần lớn là hàng tươi
sống (hoa quả, thủy hải sản…). Thỉnh thoảng, thủ tục nhập hàng của các cửa khẩu
lại trục trặc, hàng hóa của ta hư hại phải đổ bỏ hoặc bán rẻ! Còn hàng hóa của
họ sang ta thì giá rẻ một cách hết sức khó hiểu. Hàng hóa các nước công nghiệp
giá thấp hơn ta là điều tất yếu, nhưng họ đang là nước chậm phát triển so với
Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc… tại sao giá cả hàng hóa vào ta lại rẻ
hơn các nước này? Trong khi, những ai đã có dịp sang bên ấy, người dân nước họ
đâu có được hưởng giá cả rẻ như vây? Đó là chưa nói đến các thủ đoạn mua bán không
minh bạch, chính đáng khác, như: đặt giá cao mua nguyên liệu quặng sắt, crôm,
thiếc… để khuyến khích người dân một số vùng biên giới khai thác bừa bãi tài
nguyên nước ta để bán cho họ. Ở một tỉnh biên giới phía bắc, bà con ta bảo: đây
là cách họ di chuyển các mỏ quý bên ta sang đất họ! Hoặc mua cây thuốc
quý cả cành lá lẫn gốc… Những quan hệ không đẹp trong quan hệ giao thương giữa
hai nước ấy lẽ nào là chủ trương, chính sách của các địa phương mà đảng – nhà
nước Trung ương không hề biết! Thời kỳ “Môi hở răng lạnh”, được biết, trong
việc viện trợ, giúp đỡ ta, Trung ương họ cũng giao cho các tỉnh sát biên giới
nước ta phụ trách việc cung ứng hàng hóa, vật tư, thiết bị cho ta. Đại bộ phận
hàng hóa ấy – nhất là vũ khí, trang thiết bị quân sự, đều là loại tốt. Đâu phải
như bây giờ, bán lấy tiền đáng hoàng lại lừa bán hàng kém phẩm chất, lạc hậu;
mua lại tìm mua “hàng độc” làm chảy máu đối phương!
Tôn
trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ư? Trước và sau ĐH 10, chúng tôi có dịp về
thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc. Ở Cao Bằng, chúng tôi theo tour du lịch
các chương trình tham quan thắng cảnh (Cao Bang Sightseeing Tours) dọc theo
biên giới Việt-Trung từ Pắc Pó qua Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Long, Phục
Hòa. Ở Lạng Sơn cũng dọc theo biên giới Việt – Trung từ Thất Khê, Thoát Lãng,
Cao Lộc đến Cửa Khẩu Chi Ma – Lộc Bình. Một thực tế mà bất cứ ai chịu khó để ý
một chút đều thấy phần lớn cột mốc biên giới vốn dĩ trước đây được đặt trên
đỉnh núi (theo hiệp ước biên giới Pháp – Thanh) đều chạy xuống dưới chân núi về
phía bên ta. Đó là chưa kể các điểm nóng họ lấn chiếm như Phai Can – Nà Roỏng (Trà
Lĩnh), Bản Giốc (Trùng Khánh) ở Cao Bằng, Nam Quan ở Lạng Sơn v.v… Gặp một sĩ
quan biên phòng ở thị trấn Trùng Khánh, chúng tôi có đem nhận xét này trao đổi
với anh. Và anh đã thận trọng xác nhận: “các nơi khác tôi không rõ, nhưng suốt
dọc biên giới Cao Bằng, chỉ trừ những cột mốc có lịch sử, vị trí địa lý rõ ràng
như cột mốc 108 ở Pắc Pó, cột mốc ở đầu cầu Tà Lùng v.v… hoặc những cột mốc
được tạc vào núi đá, còn hầu hết là bị di dịch về phía ta!” Trong chương
trình cắm mốc xác định ranh giới theo hiệp định biên giới (trên bộ) giữa 2 nước
được ký kết, những cột mốc đã được hai bên xác định chính là tại các địa điểm mới
này; bởi, theo quy định của hiệp định là “cắm mốc theo hiện trạng”! Một
người bạn trong đoàn nói giỡn “cũng may họ mới ôm xuống đến chân núi, chứ họ ôm
cột mốc chạy sâu vào nội địa như ở Phai Can, Nam Quan… cứ theo hiện trạng, chắc
ta mất gần hết các tỉnh biên giới?!” Chuyện tưởng đùa mà thật.
Thác
Bản Giốc nhìn từ phía Việt Nam
Ngay
tại thắng cảnh nổi tiếng nhất nước ta: thác Bản Giốc. Cột mốc ở đây họ
đã di từ đỉnh núi xuống giữa dòng sông Quây Sơn[1], trên đầu thác, chiếm trọn
phần thác đẹp nhất – thác ba tầng; nhưng họ vẫn chưa thỏa mãn, muốn chiếm trọn
cả thác, có nghĩa là cả dòng sông đều thuộc về họ. Cho nên ở đây hàng ngày ta
phải cử một tiểu đội dân quân cơ động luân phiên bảo vệ cột mốc hiện trạng, đề
phòng họ di cột mốc sang bờ sông phía ta. Sự canh phòng ấy không phải là thừa.
Bà con kể: Khi trạm bộ đội biên phòng của ta xây dựng lại, trạm ở cạnh đường
quốc lộ, cách bờ sông Quây Sơn gần 300 mét, bên họ phản đối kịch liệt. Họ phái
hơn 20 thanh niên lực lưỡng trang bị gậy gộc cuốc xẻng xông sang phá nền nhà
mới xây. Bị đánh trả tơi tả, họ không dám quấy phá nữa. Bờ sông phía dưới thác
bên ta, ta xây kè đá để bảo vệ bờ, vì bên họ xây kè – đập lững lái dòng sông
chảy xói về phía ta, họ cũng phản đối. Rút bài học ở trạm biên phòng, họ không
dám quấy quả khi ta xây kè. Để có thể chống chọi được với sức xâm xói của dòng
chảy, kè bên ta phải xây dày gấp đôi kè của họ. Không biết, về sau, đảng và nhà
nước ta có vì tình hữu nghị cao cả mà nhường cả thác Bản Giốc cho họ hay không?
Một điều chúng tôi rất tâm đắc là bà con nhân dân địa phương, các cấp lãnh đạo huyện,
tỉnh đều tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nguyên trạng dòng thác Bản Giốc như đã có từ
trong lịch sử. Các tài liệu chính thức của Tỉnh ủy – UBND – HĐND tỉnh đều khẳng
định chủ quyền toàn bộ dòng thác Bản Giốc. Địa chí Cao Bằng (nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia – Hà Nội 2000) viết: “Thác Bản Giốc thuộc xã Đàm Thủy,
huyện Trùng Khánh, dòng sông hiền hòa lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi
nghiêng mình chảy qua cánh đồng Đàm Thủy băng qua bãi ngô rộng lớn trước làng
Bản Giốc. Đến đây dòng sông được tách ra thành nhiều nhánh rồi đột ngột hạ
thấp khoảng 35m tạo thành thác, đó là thác Bản Giốc. Thác xếp thành ba tầng với
những ngọn thác lớn nhỏ khác nhau với những tên gọi khác nhau là Đuây Bắc, Lầy
Sản, Ngà Moong, Ngà Chang, Ngà Vài, Ngà Rằng, Thoong Áng… Quang cảnh ở đây
đẹp nên thơ, mây mù chen lẫn với cảnh làng quê của đồng bào các dân tộc miền
núi. Phía bờ sông bên kia là cột mốc 53 biên giới Việt – Trung ...” Sách
hướng dẫn du lịch của công ty du lịch Cao Bằng, tài liệu địa lý địa phương sử
dụng trong các trường phổ thông – chuyên nghiệp của sở giáo dục – đào tạo v.v…
đều thể hiện rõ quan điểm đúng đắn trên. Chúng tôi có hỏi một lãnh đạo ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy: “Những điều các ông nói trái với quan điểm của Trung Ương
(là theo hiện trạng, phần thác ba tầng là của Trung Quốc, cột mốc 53 ở giữa
dòng sông). Các ông không sợ Trung Ương phê bình?” Ông ấy đáp : “Cả Tỉnh ủy,
HĐND đều nhất trí như vậy. Đó là lịch sử, không dễ gì thay đổi được!”
Thực
tiễn cuộc sống đã cho ta thấy những điều mà các nhà lãnh đạo của họ nói về tình
hữu nghị thân thiết giữa hai đảng, hai nhà nước là hoàn toàn trái ngược. Họ nói
đỏ nhưng làm đen, đúng như dân Nam ta vẫn nói về sự lèo lái: “nói
dzậy mà không phải dzậy”!
Có
người nói : đó là do địa phương của họ làm sai quan điểm, chủ trương của Trung
Ương…! Có thật như vậy không? Một vài hành động lẻ tẻ, cá biệt có thể là do
người thừa hành ở thôn, xã gây ra; đằng này hàng loạt hành động có tổ chức thể
hiện rõ ràng một quyết sách, một chủ trương, sao bảo là do địa phương cơ sở
làm? Thời phong kiến, trong quan hệ với các nước lân bang, các triều đại của họ
cũng rất trịch thượng, kẻ cả; nhưng, như sử sách đã ghi, nhiều vị hoàng đế
Trung hoa đã khiển trách các quan binh địa phương gây khó dễ việc buôn bán, qua
lại biên giới; xâm phạm đất đai, tài sản của dân biên ải nước người… Ngày nay, chẳng
lẽ những người lãnh đạo, với đầy đủ các phương tiện thông tin hiện đại, lại
không nhanh nhậy bằng các hoàng đế cổ xưa? Một đất nước được nhiều người nước
ngoài khen ngợi là có bộ máy hành chánh rất thống nhất, kỷ cương, kỷ luật rất
nghiêm minh thì không thể có chuyện “trên bảo dưới không nghe”.
Tất
cả chỉ có thể hiểu: hãy nhìn vào việc họ làm, đừng quá tin vào lời họ nói, bởi
họ “nói dzậy mà không phải dzậy!”
9-2006
H.V.D.
Bài
do ông Mai Thái Lĩnh trực tiếp gửi cho BVN
[1] Thật ra, Trung Quốc đã dời cột
mốc 53 từ bờ bắc sang một vị trí khác phía trên đầu thác, nhưng không hẳn là
“từ trên đỉnh núi xuống”, vì cột mốc này nằm ở vị trí thấp, không phải trên
cao. (Chú thích của MTL)
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.