Viễn
cảnh nào cho kinh tế Việt Nam 2014?
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-12-30
2013-12-30
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Bất động sản bị đóng băng nhiều công trường xây dựng nửa chừng
phải ngưng vì hết vốn
RFA
Với nhiều dự đoán kinh
tế Việt Nam tiếp tục sẽ “đi ngang” trong một vài năm sắp tới, liệu đâu là phao
cứu sinh và liệu đâu tiếp tục là trở ngại khi nền kinh tế hiện đang được cho sẽ
thoát đáy.
Thách thức của các ban ngành
Kinh tế Việt Nam năm 2013 khép lại với sự ổn định và ngày càng
vững chắc hơn, nhưng để duy trì được những thành quả bước đầu đó cho năm 2014
thì còn nhiều chông gai, thách thức và cần rất nhiều những nỗ lực của tất cả
các ban ngành… đây là tâm trạng chung của nhiều vị bộ trưởng bên lề Hội nghị
trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế 2014.
Nhìn chung, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tổng cầu và phục hồi
niềm tin trong kinh doanh là những mục tiêu cơ bản được Chính phủ cũng như giới
chuyên gia đánh giá là những gì Việt Nam cần đạt được trong năm 2014.
Trên lý thuyết, ổn định kinh tế vĩ mô bao trùm từ đẩy mạnh tốc
độ tăng trưởng GDP, kiềm chế lạm phát, cho tới phối hợp các chính sách tiền tệ
và tài khóa linh hoạt, nhằm có được tốc độ tăng trưởng 5,8% và CPI dao động
trên dưới 7%. Trong khi đó, khôi phục tổng cầu được nhắm tới là hồi phục thị
trường bất động sản, từ đó “tác động lan tỏa” của thị trường này sẽ là “cú
hích” làm ấm lên các thị trường khác và một chính sách chi tiêu công hợp lý.
Riêng lĩnh vực niềm tin kinh doanh, giới chuyên gia cho rằng trong ngắn hạn,
giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tạo điều kiện cho nền
kinh tế hấp thụ vốn, giải quyết hàng tồn kho của các doanh nghiệp, kích cầu
tiêu dùng của người dân … và trong dài hạn, đề án tái cơ cấu nền kinh tế sẽ
giải quyết được mọi nút thắt hiện có.
Để duy trì được những thành quả bước đầu đó cho năm 2014 thì còn
nhiều chông gai, thách thức và cần rất nhiều những nỗ lực của tất cả các ban
ngành… đây là tâm trạng chung của nhiều vị bộ trưởng
Rõ ràng với những chỉ tiêu đặt ra cho 2014, nhiệm vụ mà Chính
phủ phải theo đuổi và duy trì không hề đơn giản. Trong bài phỏng vấn mới đây
trên tờ Tuổi Trẻ, ông Trương Văn Phước, phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia cho rằng năm 2014 cần phải có một cuộc chấn hưng nền kinh tế, coi đó
là chiến dịch “Điện Biên Phủ về kinh tế.”
Một cửa hàng siêu thị ở Hà Nội (2013)VNeconomic
Chiến dịch “Điện Biên Phủ về kinh tế.”
Ông Phước cho rằng những khó khăn của nền kinh tế vẫn còn, nếu
Việt Nam khởi động một chiến dịch tổng lực “Điện Biên Phủ về kinh tế” thì
có thể tạo ra một cú hích cho đất nước vượt qua khó khăn này. Những điểm cơ bản
ông Phước phân tích là cần một chính sách cho phép người nước ngoài mua bất
động sản, phối hợp hài hòa giữa đầu tư công và tín dụng của ngân hàng để dòng
vốn chảy ra thị trường nhanh nhất, đặc biệt, là những đột phá trong chính sách
đầu tư của nhà nước sẽ góp phần tăng tổng cầu… quá trình này cần phải diễn ra
nhanh hơn, mạnh hơn để tạo ra một kỳ vọng cao hơn cho nền kinh tế.
Vậy đâu sẽ là điểm sáng cho năm 2014, có lẽ câu trả lời sẽ là
tốc độ lạm phát đã được kiềm chế, và từ đó, dư địa cho các chỉ tiêu khác dễ
dàng được thực hiện hơn. P.G.S, T.S Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội
phân tích về luận điểm này:
“Điểm sáng lớn nhất là kiểm soát được lạm phát. Trước kia là
thành công trong ngắn hạn, trong trung và dài hạn chưa có khả năng kiềm chế và
kiểm soát được, điều này được thể hiện là từ 2007 đến 2012 cứ hai năm tăng, một
năm giảm, nhưng đến nay chúng ta thấy đã khắc phục được. Khi đã kiểm soát được
lạm phát thì có một dư địa rất lớn cho các chính sách khác để có thể thực hiện
được.”
Những khó khăn của nền kinh tế vẫn còn, nếu VN khởi động một
chiến dịch tổng lực “Điện Biên Phủ về kinh tế”thì có thể tạo ra một cú hích cho
đất nước vượt qua khó khăn này....cần một chính sách cho phép người nước ngoài mua
bất động sản, phối hợp hài hòa giữa đầu tư công và tín dụng của ngân hàng để
dòng vốn chảy ra thị trường
ông Trương Văn Phước
Bên cạnh điểm sáng là tốc độ lạm phát được kiềm chế, nhiều
chuyên gia cho rằng 2014, lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ vẫn là
“phao cứu sinh” cho nền kinh tế. Theo số liệu hiện có, đến hết 11 tháng đầu năm
2013, tổng vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm lên tới hơn 20 tỷ đô la, tăng hơn
50% so với cùng kỳ năm ngoái, các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam vẫn là Nhật
Bản, Singapore và Hàn Quốc… đây sẽ vẫn là lĩnh vực đóng góp nhiều vào tốc độ
tăng trưởng toàn nền kinh tế, tạo công ăn việc làm và là nguồn thu về ngoại tệ.
Kiềm chế mức lạm phát...RFA file
Viễn cảnh khác của nền kinh tế 2014, giới chuyên gia cho rằng nợ
xấu sẽ tăng chứ không giảm, mặc dù công ty quản lý tài sản quốc gia VAMC đã
được thành lập, nhưng hoạt động vẫn chỉ dừng ở mức tạm thời là nơi nắm giữ nợ
xấu thay cho các ngân hàng, chứ cơ chế xử lý triệt để thì vẫn chưa được định
hình rõ ràng.
Đồng thời, lĩnh vực bất động sản 2014 vẫn được xem là tiếp tục
bị đóng băng, khi nguồn cung vẫn dôi dư trong khi đầu ra thì vẫn còn yếu. Nhiều
người cho rằng, có khả năng đến cuối năm 2014, thị trường sẽ khả quan hơn nhờ
hoạt động M&A (sát nhập và cạnh tranh) khởi sắc sẽ đưa thị trường bất động
sản khỏi bế tắc.
Gộp chung 2 lĩnh vực nợ xấu và bất động sản, T.S Ngô Trí Long
tiếp tục phân tích:
“Những thách thức lớn vẫn còn đặt ra phía trước, thí dụ vấn đề
nợ xấu, tuy thành lập công ty VAMC nhưng nói chung mới chỉ là mặt chuyển đổi.
Nhìn vào bảng cân đối, tạm thời không còn xấu như trước, nhưng thực chất giải
quyết nợ xấu cũng là bài toán nan giải vì thực ra đó chỉ là từ tổ chức tín dụng
chuyển lên ngân hàng Nhà nước, chuyển từ túi này bỏ sang túi khác. Còn việc
giải quyết mua bán nợ xấu như thế nào thì thực sự chưa giải quyết và chưa có
lối thoát.
Những thách thức lớn vẫn còn đặt ra phía trước, thí dụ vấn đề nợ
xấu, tuy thành lập công ty VAMC nhưng nói chung mới chỉ là mặt chuyển đổi. Nhìn
vào bảng cân đối, tạm thời không còn xấu như trước, nhưng thực chất giải quyết
nợ xấu...đó chỉ ...chuyển từ túi này bỏ sang túi khác
T.S Ngô Trí Long
Đặc biệt, thị trường bất động sản, mặc dù Nhà nước đưa ra giải
pháp thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ, với gói hỗ trợ 30 ngàn tỉ đồng,
phải nói rằng cái đó hoàn toàn chưa thành công, mà giải ngân thì còn ở mức độ
rất thấp, thị trường bất động sản chưa có lối thoát, chưa có lối ra. Nói một
cách khác, niềm tin vào thị trường vẫn chưa rõ, sức mua còn hạn chế. Năm 2014,
nền kinh tế vẫn theo hướng đi ngang, chứ chưa có khả năng vực dậy một cách mạnh
mẽ.”
Trong một bài viết gần đây của T.S Nguyễn Đức Thành, Giám đốc TT
Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, thuộc đại học Kinh tế - Đại học QG Hà Nội có
đưa ra 4 thách thức chính mà Việt Nam phải đối mặt trong năm 2014, ngoài 3 vấn
đề cơ bản như nợ xấu, bất động sản và tỉ giá, T.S Nguyễn Đức Thành còn chỉ ra
thâm hụt ngân sách của Chính phủ sẽ trở thành vấn đề quan trọng cho năm sau, lý
do cơ bản là nguồn thu giảm vì doanh nghiệp suy yếu trong khi chi tiêu của CP
lại không hề thuyên giảm, từ đó, đòi hỏi chính phủ sẽ vay nợ nhiều hơn để bù
đắp các khoản thâm hụt ngân sách, từ đó, trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến thị
trường vốn và gây ra những rủi ro tiềm tàng.
Dù có thể sẽ có cả những điểm sáng lẫn những thách thức tồn tại
song song trong năm 2014, nhưng lĩnh vực bao trùm cần giải quyết nhất sẽ vẫn là
đề án tái cơ cấu, một bài toán “nợ” và một nút thắt đã kéo dài từ nhiều năm
nay. Nhận xét về tiêu chí này, T.S Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng Viện quản
lý kinh tế phân tích:
“Cho đến nay đã có đề án tái cấu trúc nhưng chưa thực hiện được
bao nhiêu, đề án tái cấu trúc đầu tư công thì chưa được trình ra đầy đủ. Kế
hoạch 5 năm 2010-2015 cũng đề ra ba khâu đột phá quan trọng. Một là đột phá,
một nỗ lực vượt bậc trên lĩnh vực thiết lập thể chế kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai là xây dựng kết cấu hạ tầng và thứ ba là nâng
cao chất lượng của nguồn nhân lực. Cả ba khâu đột phá đó cho đến nay mới làm
được rất khiêm tốn và thể chế kinh tế thị trường thì gần đây nhiều người thấy
là Nhà nước đã can thiệp quá nhiều vào thị trường”.
Năm cũ sắp qua, năm mới chạm ngõ, hi vọng rằng những gì năm 2013
đạt được sẽ là những tiền đề quan trọng để 2014 có đà phát huy, hi vọng một
chiến dịch tổng thể “Điện Biên Phủ” sẽ đưa Việt Nam vào một vận hội mới.
Kinh tế VN 2014: 'cầm
cự là chính'
Cập nhật: 17:38 GMT - thứ hai, 30 tháng 12, 2013
Media Player
Năm 2014 sẽ là năm mà
Việt Nam có nhiều biến động về chính sách, tuy nhiên đây vẫn sẽ là một năm kinh
tế 'cầm cự là chủ yếu' và chưa có 'điểm sáng nào rõ rệt', theo đánh giá của một
nhà nghiên cứu về chính sách công từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI).
Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm 30/12/2013 từ Hà Nội, PGS. TS Phạm
Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển
thuộc MPI cho rằng sang năm mới nền kinh tế vẫn tiếp tục phải 'tái cơ cấu'
trong biên độ mà bản Hiến pháp mới thông qua đã quy định và giới hạn.
"Người ta hy vọng một cú hích... sẽ làm cho tổng cầu vốn
yếu ở năm 2013, năm 2014 có thể được tăng thêm, làm cho tổng cầu mạnh thêm và
hy vọng cái đó hỗ trợ cho tăng trưởng," ông nói.
"Kích cầu không lo lạm phát lắm, nhưng các chuyên gia cho
rằng vẫn có những nguy cơ về lạm phát, về tài chính cũng như thế."
'Vẫn xuất khẩu thuê'
"Nếu như các doanh nghiệp không phục hồi được, xuất khẩu không
đạt được những chỉ tiêu trong nhiều lĩnh vực, trong đó có các lĩnh vực nông lâm
nghiệp, thủy hải sản, mà không đạt được, thì nguồn thu sẽ khó khăn"
Ngoài ra, theo chuyên gia này, về nguồn thu ngân sách năm tới,
Việt Nam sẽ vẫn còn gặp những khó khăn.
Ông giải thích: "Bởi vì nếu như các doanh nghiệp không phục
hồi được, xuất khẩu không đạt được những chỉ tiêu trong nhiều lĩnh vực, trong
đó có các lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy hải sản, mà không đạt được, thì nguồn
thu sẽ khó khăn."
Theo nhà phân tích này, xuất khẩu năm vừa qua của Việt Nam, dù
đạt con số vài chục tỷ USD, nhưng chủ yếu vẫn là 'xuất khẩu hộ' các nước ngoài,
trong đó hàm lượng gia công vẫn là chính và hàm lượng công nghệ như một giá trị
gia tăng của Việt Nam vẫn rất thấp.
Nhà nghiên cứu chính sách cho rằng Việt Nam chủ yếu là cầm cự
trong năm tới và khuyên các doanh nghiệp tiếp tục 'kiên trì, phấn đấu.'
Mở đầu cuộc trao đổi, PGS. TS Phạm Quý Thọ tóm lược một số hướng
đánh giá về xu thế kinh tế, tài chính và thị trường của Việt Nam trong năm mới
2014 từ các luồng quan sát khác nhau.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn sợ tiến trình đa
đảng ?
Nguyên
Anh (Danlambao) - Sau khi chiếm được miền Nam thu non sông về một mối đảng csvn đã
dần hiện nguyên hình là một bè lũ của những tên cơ hội chủ nghĩa khi các quốc
sách đối ngoại hoặc điều hành quốc gia được dấu kín như bưng. Các cuộc mật nghị
hội đàm đều không được công bố cho toàn dân được biết, có thể dẫn chứng bằng
các hòa ước sau cuộc chiến Việt Trung. Công hàm Phạm văn Đồng bán đứng vùng biển
Việt Nam cho giặc đến tận ngày nay tất cả những sự việc quan trọng đều được gán
cho chữ tối mật, bí mật quốc gia và im ỉm dấu đi cho đến khi sự việc lòi ra
trước mắt bàn dân thiên hạ. Nhưng đó chỉ mới là một góc nhìn!
Ở khía cạnh khác toàn dân và ngay cả các chiến
sĩ đã hy sinh xương máu cho đảng cs có được hôm nay đều nhận thấy mình chỉ là
những con chốt thí, họ chỉ được nhắc đến trong các buổi lễ lạt, vinh danh ảo và
chấm hết, một anh hùng Bùi quang Thận cắm cờ trên dinh Độc Lập xóa bỏ một chính
thể Tự Do an phận với nghề chạy xe, có thật không?
Thật đấy nhưng không phải do anh ta an phận mà
chính là bị đảng thải ra sau khi vắt hết nước.
Các anh hùng khác cũng cùng chung số phận, và
những kẻ dại khờ bị lợi dụng cho một xã hội không tưởng: “Không còn
người bóc lột người, một thiên đường làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu đã vỡ
mộng khi nền kinh tế thị trường đa thành phần theo đường lối tư bản chủ nghĩa
ra đời, phải ra thôi chứ nếu tiếp tục kiên định thời bao cấp thì đảng đã chết
tự bao giờ.”
Nhưng sự việc không dừng ở đó, các tên cơ hội
chính trị nắm vận mệnh quốc gia từ Nguyễn Văn Linh đến Nông Đức Mạnh, Nguyễn
Phú Trọng cho đến Nguyễn Sinh Hùng, kéo xuống đến hàng thấp hơn là Nguyễn Tấn
Dũng, các quan chức chế độ đã khiến cho chủ nghĩa cs biến thái một cách dị dạng
khi dù tên gọi là một quốc gia Cộng Hòa thế nhưng họ lại điều hành đất nước
theo công thức một quốc gia quân chủ lập hiến!
Các chức vụ ngon ăn béo bở đều được chúng cha
truyền con nối giống thời phong kiến xa xưa dù bọn con em của chúng là các tên
bất tài vô tướng. Từ Nông đức Mạnh đến Nông Quốc Tuấn, Nguyễn Tấn Dũng đến
Nguyễn Thanh Phượng, Lê Thanh Hải đến Lê Trương Hải Triều đều nằm trong công
thức và vô hình chung cái chế độ này là của bọn chúng, cha truyền con nối đời đời…
Để yên tâm tiếp tục ngồi trên ngai vàng bọn
chúng nuôi sẵn một đạo quân sẵn sàng vu khống chụp mũ cho bất cứ ai chỉ trích
là phản động. Ngoài ra còn có một đội ngũ các tên ăn bám xã hội khi không phát
minh ra hay đóng góp được cái gì mà chỉ ngồi suy nghĩ tìm các ý tưởng, khẩu
hiệu như cho rằng tất cả lực lượng công an, quân đội phải trung thành với Tổ
Quốc và chúng ma giáo điếm thúi đánh đồng chung với đảng, chúng mặc định Tổ
Quốc Việt Nam chính là đảng. Đảng là tất cả và mọi người dân phải có nghĩa vụ
tuyệt đối phục tùng, sau đó chúng ung dung ăn trên ngồi trốc làm lếu làm láo
trên đầu Dân Tộc mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì chỉ vì chúng là người
của đảng.
Nhưng chúng vô cùng lo sợ một điều: “tiến
trình đa đảng phái hình thành tại Việt Nam trong đó có các đảng đối lập!”
Chúng tuyên truyền rằng tình hình Việt Nam rất
ổn định, đảng phái đối lập chỉ làm cho tình hình xấu đi, nào là biểu tình, bạo
loạn, chống đối làm cho kinh tế đình đốn, xã hội thụt lùi, chúng tung đội ngũ
dư luận viên, cảm tình viên, đảng viên xôi thịt tuyên truyền định hướng nhằm
che dấu một sự thật cái xã hội thối tha băng hoại của chúng trước mắt người
dân.
Mặt khác nhà cầm quyền cs quyết tâm tiêu diệt
bất cứ ai, đảng phái nào manh nha xuất hiện dù chỉ là trong lời nói ôn hòa như
thầy giáo Đinh đăng Định và ông Ngô Hào gặp phải. Đó là chính sách tuyên truyền
sắt máu và tính phản động của csvn!
Các chiến sĩ, đảng viên hôm nay đã thấy được cái
bộ mặt thật khốn nạn của cái chế độ cs tinh hoa ưu việt này chưa? Những hy sinh
máu xương và nước mắt của toàn dân chỉ để cho một thiểu số thoát thai từ các
tên bần cố nông có tầm nhìn hạn hẹp lên điều hành đất nước dẫn toàn Dân Tộc đến
vực thẳm đói nghèo, lạc hậu, quyền con người bị rẻ rúng xâm hại, các bất công
xã hội, khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa mà mọi lý thuyết của chủ nghĩa Mác
- Lê không thể nào lý giải.
Đội ngũ công nhân giai cấp tiên phong mới đây
được nhắc đến trong hiến pháp sửa đổi chỉ là những lao nô thế kỷ 21, công cụ
bán mồ hôi công sức cho giới chủ tư bản mà các doanh nghiệp nước ngoài FDI được
mời gọi đang tiến vào bóc lột nhằm làm cho đảng có tiền kéo dài cơn hấp hối.
Các chiến sĩ, đảng viên đã đóng góp một phần công sức của mình trong quá khứ
hãy nhìn kỹ lại cái xã hội hiện thời, đó có phải là cái lý tưởng mà quý vị đã
tin tưởng và hy sinh bất cứ giá nào không? Đó chỉ là một chế độ quái thai nữa
cs nữa tư bản chủ nghĩa không giống bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới.
Nhà cầm quyền luôn muốn duy trì chế độ độc tài
đảng trị bởi vì khi có các đảng phái đối lập xuất hiện thì với những chỉ trích
thì ngai vàng sẽ rung rinh, điều đó kéo theo các đặc quyển đặc lợi sẽ bị đe dọa
và cũng chính vì điều đó mà chúng thẳng tay đàn áp bất cứ ai trong tầm ngắm.
Nhưng ngay cả các người thân cộng vẫn cố tình không
nhìn nhận một điều: “Một chế độ đa đảng phái sẽ thúc đẩy quá trình minh
bạch hóa, một xã hội muốn tiến lên cần phải có phản biện và dù có bất đồng ôn
hòa hay gay gắt dẫn đến bạo loạn nhưng đằng sau đó là một xã hội văn minh đáng
sống, một xã hội không có chuyện cha truyền con nối, không có việc làm lếu làm
láo và ngăn cấm báo chí, không có những cái chết trong đồn công an và câu trả
lời vô lý, và tất cả mọi việc trong quốc gia đều được công khai và không ai có
quyền đứng trên luật pháp.”
Tất cả đều được khôi phục lại nếu đó là một Quốc
Gia Cộng Hòa với cơ chế điều hành Tam quyền phân lập, Lập pháp, Tư pháp và Hành
pháp. Khi đó luật pháp sẽ sờ gáy bất cứ ai dù là ở cương vị của Nguyễn phú
Trọng hiện nay.
Giới tri thức và người dân Việt Nam còn chờ đợi
đến bao giờ? Ngay năm 2014 này Việt Nam cần lắm những đảng phái đối lập đích
thực ra đời để có thể dẫn đưa Dân Tộc Việt Nam thoát khỏi cái chế độ khốn nạn
này!
VAI TRÒ CÁC CHÍNH ĐẢNG
TRONG TỔ CHỨC QUỐC GIA
Càng ngày các chính đảng càng cho thấy vai trò
quan trọng của mình, như là những tổ chức nền tảng trong các Quốc Gia Nhân Bản
và Dân Chủ.
Các chính đảng trở thành những tổ chức xã hội
trung gian thiết yếu giữa cộng đồng dân chúng trong lãnh thổ và các tổ chức cơ
chế, trong việc định hướng và thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia, nhứt
là trong phận vụ chọn lựa các đại diện trong Quốc Hôi ( Ostrogorski M.Y.,
La démocratie et l'organisation des parties politiques, Paris 1903; Borella F.
Les parties politiques dans la France d'aujourdhui, Paris 1973; Avril P.,
Saggio sui partiti ( trad. it), Utet, Torino 1990).
A - Một vài nét lịch sử.
Trong lịch sử, các
chính đảng được phát sinh trong lãnh vực định chế hiến định, nhằm đồng nhất hoá
và kết hợp các khuynh hướng chính trị khác nhau.
Nhưng rồi các nhóm khác
nhau không tạo được gì khác hơn là càng ngày càng trở thành những chủ thể mang
các khuynh hướng chính trị khác nhau đối với các khuôn mẫu được các Quốc Gia
trong quá khứ thiết định.
Trong quá khứ sự hiện
diện của các chính đảng thường là hiện diện ở Quốc Hội, nơi các phe nhóm khác
nhau tranh cải các chính hướng của vua.
Khuynh hướng đó vẫn
còn được tồn tại, sau khi các Quốc Gia biến thành Quân Chủ Đại
Nghị Chế ( Quân Chủ Lập Hiến) vào cuối thê kỷ 18 ở Anh Quốc và Cộng
Hoà Đại Nghị Chế, sau Cách Mạng Pháp Quốc 1789, ở Pháp và Âu Châu lục
địa.
Ngoài ra các nhóm được
thành lập trong Quốc Hội, ở các cộng đồng dân sự bên ngoài, khắp đó đây các Ủy
Ban Tuyển Cử cũng bắt đầu tạm thời được thành lập, trong các dịp
tranh cử để thay đổi mới nhân sự trong Quốc Hội.
Tuy nhiên từ giữa thê
kỷ 18 trở đi, các cuộc tranh đấu chính trị của các nhóm càng ngày
càng lan rộng, nhứt là với biến cố các chính đảng có khuynh hướng xã hội chủ
nghĩa được tổ chức rộng lớn và vững mạnh để chống lại giới tư sản ( cfr. DÂN
CHỦ PHÁP TRỊ) và khuynh hướng phổ thông đầu phiếu được mở rộng.
Từ đó vai trò các
chính đảng được thay đổi sâu đậm.
Các chính đảng không
còn là những tập họp tạm thời, mỗi khi có bầu cử, như đã đề cập, mà
trở thành những cấu trúc tổ chức hiệp hội bền vững,
- có
chính hướng,
-
chương trình
- và
phương thức thực hiện riêng,
nói lên lý tưởng, ước
vọng và nhu cầu của dân chúng.
Với những đồ án vừa kể
trong tay, các hiệp hội có thể tuyên truyền, ảnh hưởng, hướng dẫn ý kiến dân
chúng để thay đổi định chế và cơ chế Quốc Gia, nhờ sức mạnh đa số qua các cuộc
bầu cử, thay đổi và đáp ứng các vấn đề xã hội mà giới đương quyền không có khả
năng giải quyết.
Từ đó trở đi, các tổ
chức hiệp hội được đề cập, trở thành " chính đảng đúng nghĩa "
( đảng phái chính trị), can dự vào đường lối chính trị Quốc Gia, với ý nghĩa
đích thực của cách nói.
Các nhà lãnh
đạo ( leaders) và các chương trình của các chính đảng được suy nghĩ, lựa
chọn là để lãnh đạo quản trị Quốc Gia.
Hiểu như vậy, chúng ta
thấy được chính đảng có cấu trúc như là một hiệp hội,
- có chương trình
riêng,
- được thiết lập dựa
trên lòng tự nguyện của các thành viên cùng chí hướng,
- được tồn tại trong
thời gian nhờ các thành viên đồng thuận trợ lực,
- bảo tồn cấu trúc tổ
chức, để tiếp tục bảo tồn lý tưởng, và hoạt động phổ biến ra bên ngoài xã hội.
Trong vị thế vừa kể,
chính đảng trở thành gạch nối hay môi trường trung gian giữa
-
cộng đồng dân chúng đa diện trong lãnh thổ Quốc Gia, chưa phân định xác biệt
trong Cộng Đồng Quốc Gia
-
và tổ chức cơ chế quyền lực Quốc Gia.
Chính đảng là một
" tổ chức xã hội trung gian", nói như ngôn từ của Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc ( Điều 2 ), trung gian giữa cộng đồng dân chúng và cơ chế
quyền lực Quốc Gia:
- "
Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con
người như cá nhân hay con người như thành phần tổ chức xã hội trung gian, nơi
mỗi cá nhâ n phát triển con người của mình và đòi buộc chu toàn các bổn phận
không thể thiếu trong các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội " ( Điều
2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Với hình thức tổ chức
như vừa kể, có cấu trúc, chính hướng, cùng với chương trình thực hiện chính xác
nhằm tới của các chính đảng, thời cá nhân chủ nghĩa của các
Quốc Gia Tự Do đạp đổ quân chủ bắt đầu lu mờ, để được thay vào đó thời điểm của
các chính đảng, có cấu trúc và phận vụ như các hiệp hội ( Mortati C.,
Istituzioni di diritto pubblico, Cedam, Padova 1975, 879).
Từ nay muốn biết được
trình độ ý thức chính trị của dân chúng và phương thức tổ chức Quốc
Gia, người ta chỉ cần tìm hiểu vai trò của tổ chức chính đảng trong Quốc Gia.
-
chính đảng có vai trò giáo huấn và hướng dẫn ý thức chính trị của dân chúng,
-
nói lên ý muốn của dân chúng trong các cuộc bầu cử,
- ý
muốn của các chính đảng cũng là những gì được kết tựu, đúc kết trong Hiến Pháp:
*
sự hiện diện của các chính đảng trong Quốc Hội,
*
tương quan giữa các chính đảng được thể hiện trong các hoạt động của
Quốc Hội cũng như của Chính Quyền,
*
ảnh hưởng của các chính đảng trong cách lựa chọn xác định cơ chế Quốc Gia ( Tổng
Thống Chế, Đại Nghị Chế, Bán Tổng Thống Chế...).
Các định chế Quốc Gia
cũng dần dần có khuynh hướng biến đổi khi các chính đảng càng ngày càng được tổ
chức vững vàng hơn.
- Từ
thái độ đàn áp, vì xem chính đảng như là những tổ chức chống đối, " bọn
phản động, thế lực thù nghịch " nói như ngôn từ của Đảng và Nhà
Nước, làm cho tổ chức Quốc Gia không còn được thuần nhứt của chế độ độc
tài, độc đảng ,
- quan
niệm về Quốc Gia bước sang thời kỳ cho rằng các chính đảng là những tổ chức phù
du, chóng qua, không có gì quan trọng,
- kế đến
là thời kỳ các chính đảng được nhìn nhận và hợp thức hóa để hoạt
động như là những hội đoàn,
- và sau
cùng là chính đảng được hội nhập vào tiến trình thành lập cơ chế Quốc Gia, đại
diện của các chính đảng là những chủ thể hành xử quyền lực Quốc Gia trong Quốc
Hội và trong Chính Quyền: vai trò của các chính đảng như vậy không thể thiếu
trong các hoạt động của các cơ chế hiến định (Triepel H., Die
Staatsverfassung und die politischen Parteien, Berlin 1927).
Chỉ những thời gian
gần đây, các chính đảng mới được chấp nhận trực tiếp trong các Hiến Pháp ( Pelloux
R., Les partis politiques dans les constitutions d'après-guerre, RDPSP, 1932,
283s).
Hình thức bảo đảm quyền
tham gia chính trị của người dân được biểu thị qua sự
hiện hữu và động tác của các chính đảng:
-
" Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập chính đảng, để cùng
nhau cộng tác theo phương thức dân chủ, thiết định đường lối chính trị Quốc
Gia" ( Điều 49, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc),
-
" Các chính đảng cộng tác để thiết lập chính hướng của dân chúng. Thành
lập chính đảng là quyền tự do. Nội quy của chính đảng phải phù hợp với các
nguyên tắc căn bản dân chủ. Các chính đảng phải bạch hoá ngân khoản về nguồn
tài trợ các phương tiện tài chánh của mình" ( Điều 21, đoạn 1 Hiến Pháp
1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Ngoài ra các chính
đảng cũng được các Hiến Pháp sau đây nhìn nhận và thiết định phương thức hoạt
động:
-
điều 4, Hiến Pháp 1958 Pháp Quốc
-
điều 29, đoạn 1, Hiến Pháp 1975 Hy Lạp,
-
điều 51, Hiến Pháp 1976 Bồ Đào Nha).
-
điều 7, Hiến Pháp 1975 Thụy Điển,
-
điều 6, Hiến Pháp 1978 Tây Ban Nha.
B - Phận vụ các chính
đảng.
Các chính đảng độc lập
theo cường độ và trương độ khác nhau, tùy theo định chế của
mỗi Quốc Gia, thiết định trong mối liên hệ với các cơ chế Quốc Gia,
tuy nhiên các Hiến Pháp đều nhận biết phận vụ của các chính đảng trong
việc:
- lựa chọn các đại
diện chính trị,
- phát biểu đường lối
chính trị Quốc Gia của dân chúng,
- ảnh hưởng đến các
quyết định của Quốc Hội qua các nhóm chính đảng trong Quốc Hội,
- kiểm soát, giới hạn
cũng như trợ lực đài thọ các chi phí của chính đảng,
- lằn mức hiến định giới
hạn quyền tự lập của chính đảng.
1 ) Lựa chọn các đại
diện chính trị.
Mặc dầu các Hiến Pháp
không tuyên bố một cách rõ rệt vai trò các chính đảng lựa chọn người đại diện
vào các cơ chế quyền lực Quốc Gia, nhưng qua những câu tuyên bố tổng quát,
chúng ta có thể hiểu được vai trò quan trọng chọn
-
lựa người đại diện của mình, đại diện dân chúng để lựa chọn chính hướng, chương
trình
-
và áp dụng hành xử quyền lực Quốc Gia trong Quốc Hội cũng như trong Chính
Quyền:
- "
Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập chính đảng, để cùng nhau hợp tác theo
phương thức dân chủ, thiết định đường lối chính trị Quốc Gia" ( Điều 49,
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
- "
Các chính đảng và các nhóm chính trị gia cộng tác nói lên nguyện
vọng của cuộc bầu cử " ( Điều 4, Hiến Pháp 1958 Pháp Quốc),
- "
Bất cứ một hiệp hội hay một nhóm tập hợp cử tri nào tham dự các cuộc bầu cử
cũng là một chính đảng" ( Điều 7, Hiến Pháp 1975 Thụy Điển).
Sau đó mọi định chế
Quốc Gia đều thiết định chi tiếc
-
các thể thức bầu cử đa đảng,
-
việc tuyển chọn ứng cử viên,
-
phân chia số ghế của các đơn vị bầu cử theo thể thức đơn danh hay tỷ lệ, hay
vừa đơn danh vừa theo tỷ lệ như ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, cả với thể thức
" lá phiếu được vớt lại ".
-
các đại diện, cũng như việc quy tựu các nhóm dân biểu của các chính đảng thành
những khối dân biểu tùy theo khuynh hướng chính trị trong Quốc Hội ( cfr. LUẬT
BẦU CỬ CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC, BẤT ỔN VÀ ĐỘC TÀI LOẠI TRỪ NGAY TỪ ĐỘNG TÁC BẦU
CỬ).
2 ) Thể hiện đường lối
chính trị của dân chúng.
Ngoài ra các phận vụ
vừa kể, các chính đảng còn có vai trò nói lên tiếng nói đại diện cho dân chúng
về đường lối chính trị Quốc Gia và tiếng nói đó ảnh hưởng đến các cơ chế hiến
định trong việc lựa chọn chính hướng, chương trình, các phương tiện để thực
thi.
Điều 49 của Hiến Pháp
1947 Ý Quốc, cũng như điều 21 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức
trích dẫn ở trên nhìn nhận phận vụ vừa kể của các chính đảng.
Cùng trong một ý nghĩa
vừa kể,
-
" động tác của các chính đảng phải giúp cho việc làm của các cơ
chế dân chủ được hoạt động hiệu lực và trôi chảy" ( Điều 29, Hiến Pháp
1975 Hy Lạp),
-
" Các chính đảng tham dự vào cơ chế Quốc Gia dựa trên nền tảng của cuộc
đầu phiếu phổ quát và trực tiếp, theo tỷ lệ đại diện dân chủ " ( Điều 114,
Hiến Pháp 1976 Bồ Đào Nha),
-
" các chính đảng...góp phần thiết định ý muốn của dân chúng" ( Điều
3, đoạn 3 và điều 47, đoạn 1 , id.).
-
" các chính đảng cộng tác thiết định và thể hiện ý muốn của dân
chúng" ( Điều 6, Hiến Pháp 1978 Tây Ban Nha).
3 ) Các khối dân biểu
trong Quốc Hội.
Vai trò của các chính
đảng trong Quốc Hội được thể hiện trong nội quy Quốc Hội, được cấu trúc bằng
các khối dân biểu ( Firzmaurice J., The Party Groups in the European
Parliaments, London 1975).
Thường thường các Hiến
Pháp dành lại cho các định chế nội quy Quốc Hội thiết định điều lệ,
-
phận vụ của các khối dân biểu hiện diện trong các Ủy Ban đặc nhiệm thường trực,
-
cũng như các Ủy ban tạm thời,
-
trong các phiên họp khoáng đại của Quốc Hội, thời gian được trình
bày ý kiến trong các phiên họp,
-
cũng như số phiếu túc số để lấy quyết định về vấn đề được trình bày.
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc
chỉ nói đến sự hiện diện của các khối dân biểu vừa kể trong Quốc Hội:
-
" Nội Quy của Quốc Hội có thể xác định trong trường hợp nào và
dưới hình thức nào các dự án luật phải được cứu xét và chuẩn y được
giao cho các Ủy Ban, cả những Ủy Ban Thường Trực, được thiết lập thế nào để
phản chiếu lại tỷ lệ của các nhóm đại diện Quốc Hội..." ( Điều 72, đoạn 3
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Điều 180 Hiến
Pháp 1976 Bồ Đào Nha đề cập đến những điều khoản chi tiếc hơn phải có đối với
các Ủy Ban trong tiến trình " lập pháp", từ lúc dự án
luật được đệ trình, Ủy Ban đặc nhiệm bàn thảo, sữa đổi, quyết định, trước khi
đưa ra phiên họp khoáng đại Quốc Hội " chuẩn y hay bác bỏ",
các Ủy Ban đặc nhiệm thường trực đối nội, đối ngoại, cũng như điều tra.
4) Tiêu chuẩn về nguồn
tài chánh và lằn mức xử dụng.
Ngoài ra các Hiến Pháp
còn xác định các tiêu chuẩn về nguồn tài chánh, lằn mức tối đa được xử dụng,
bởi lẽ các phương tiện tài chánh có ảnh hưởng lớn lao trong hoạt động chính
trị, nhứt là ảnh hưởng đến cử tri qua việc xử dụng tài chánh trong các phương
tiện truyền thông trong thời gian tuyên truyền bầu cử ( Colinet F et
Devys B., Pratique du financement des campagnes élettorales, Lyon - Paris 1995).
Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức đặt trọng tâm kiểm soát xuất xứ nguồn tài chánh các chính
đảng, bởi lẽ chính đảng có thể được tài trợ bởi các thế lực thù địch với thể
chế dân chủ Quốc Gia:
-
" Các chính đảng có mục đích hay cách hành xử của các thành viên
thuộc hệ nhằm khuynh đảo hay loại trừ định chế nền tảng dân chủ tự do hay nhằm
đánh đổ cuộc hiện hữu sống còn của Cộng Hoà Liên Bang Đức, là những chính đảng
vi hiến" ( Điều 21, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Trong khi đó thì định
chế Hoa Kỳ giới hạn mức chi tiêu tối đa cho các ứng cử viên, để tránh tình
trạng " cá lớn nuốt cá bé " như vừa đề cập ( Federal
elections Campaign Act 1971, 1974 and 1976).
Giới hạn vừa kể cũng
được đề cập đến ở Anh ( Representation of People Act 1978).
Và rồi mặc dầu với
những giới hạn về việc xử dụng tài chánh vừa kể, các kết quả cũng không đem lại
lằn mức mong muốn, nhiều Quốc Gia
-
đứng ra đảm nhận chi phí đều nhau cho các ứng viên
-
hay giới hạn tư nhân không được đài thọ tuyên truyền cho các ứng viên, để bảo
đảm cho mọi chính đảng đều có cơ hội đạt được kết quả như nhau, Quốc
Gia đứng ra trang trải các chi phí tuyên truyền bầu cử ở cấp Liên Bang
( Bund) cũng như cấp Tiểu Bang ( Laender), tùy theo số
phiếu mà ứng viên thu hoạch được sau kỳ bầu cử ( Cộng Hoà Liên Bang
Đức, đạo luật 24.07.1967, tu chính 1969 ; Thụy Điển, kể từ 01.01.1969;
Phần Lan, luật 10.01.1969 ; Ý Quốc, luật 02.05. 1974, n. 175 và luật 10.12.
1993, n. 515).
Với động tác được công
qủy đài thọ như vừa kể,
-
ngoài ra mục đích loại trừ hay giới hạn cá nguồn tài trợ tư nhân, có thể tạo
nên những bất công " cá lớn nuốt cá bé " ,
-
Quốc Gia còn có quan niệm các hoạt động của chính đảng là những động
tác công cộng, hoạt động vì lợi ích chung, vì quyền lợi Quốc Gia hơn là cho
phe nhóm ( Giuseppe De Vergottini, Diritto Costituzionale Comparato, V
ed., Cedam, Padova 1999, 337-338).
5) Giới hạn đối với
các chính đảng.
Trong các Quốc Gia Dân
Chủ, mặc dầu là dân chủ đa nguyên, các chính đảng cũng có các lằn mức giới hạn
về tổ chức nội bộ và phương thức hoạt động của mình trong Cộng Đồng Quốc Gia.
Các Quốc Gia Dân Chủ
với các chính đảng trong lòng xã hội mình là các Quốc Gia Dân Chủ Đa
Nguyên.
Nhưng muốn có Quốc Gia Dân
Chủ Đa Nguyên, trước hết chúng ta phải có Quốc Gia Dân Chủ và hoạt động luôn
luôn nhằm tôn trọng nhân phẩm con người:
-
" Không thể chấp nhận bất cứ một sự sửa đỗi nào đối với Hiến Pháp
nầy có liên quan đến mối liên hệ giữa Liên Bang và các Tiểu Bang, nhứt là đến
sự tham dự của các Tiểu Bang vào tiến trình lập pháp hoặc đến các nguyên tắc đã
được tuyên bố ở điều 1 và điều 20" ( Điều 79, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức)
( Điều 1 nói lên phẩm
giá con nguời bất khả xâm phạm; điều 20 định ghĩa thể chế Cộng Hoà Liên Bang
Đức là một Quốc Gia Liên Bang, Dân Chủ và Xã Hội).
Và kế đó
chính là những gì điều 21, đoạn 2 Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức đã nêu lên,
chúng ta vừa trích dẫn ở trên, các chính đảng không thể nào trong các hoạt động
của mình có thể
-
"... nhằm khuynh đảo hay loại trừ định chế nền tảng dân chủ tự do
hay nhằm đánh đổ cuộc hiện hữu sống còn của Cộng Hoà Liên Bang Đức...".
Bởi lẽ đó là những
chính đảng bị chính Hiến Pháp đặt ra ngoài vòng pháp luật,
-
" ...là những chính đảng vi hiến" ( Điều 21, đoạn 2 Hiến Pháp
1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Cũng vậy, đối với cấu
trúc tổ chức nội bộ, dân chủ là đặc tính không thể thiếu:
-
" Các chính đảng cùng nhau cộng tác thiết định ý muốn chính trị
của dân chúng. Thành lập chính đảng là quyền tự do, nội quy của chính đảng phải
thích hợp với các nguyên tắc căn bản dân chủ" ( Điều 21, đoạn 1 Hiến Pháp
1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Đặc tính dân chủ trong
tổ chức nội bộ cũng như các hoạt động ra bên ngoài, được Hiến Pháp 1947 Ý Quốc
xác định bắt buộc như là điều kiện không thể thiếu, để chính đảng có thể được
chấp nhận có tư cách pháp nhân, đại diện cho dân chúng để tổ chức và hoạt động:
- "
Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập chính đảng, để cùng nhau cộng tác theo
phương thức dân chủ, thiết định đường lối chính trị Quốc Gia" ( Điều 49,
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Nguyên tắc nền tảng
dân chủ vừa kể trong tổ chức nội bộ, cũng như trong động tác tranh đấu, hợp tác
chính trị, chúng ta cũng tìm được ở
-
điều 10, đoạn 2 và điều 51, đoạn 1 Hiến Pháp 1976 Bồ Đào Nha,
-
" Việc thành lập các chính đảng phải được dựa trên nền tảng Hiến
Pháp và Luật Pháp. Cấu trúc nội bộ cũng như động tác của các chính đảng phải
theo phương thức dân chủ" ( Điều 6, Hiến Pháp 1978 Tây Ban Nha).
Và như chúng ta biết
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc là Hiến Pháp thoát xuất từ kinh nghiệm độc tài, đê tiện
con người của đảng Phát Xít Mussolini, bởi đó trong phần Chỉ
Thị Tạm Thời ( Disposizione Transitoria), điều XII cấm ngặc tổ chức lại
đảng Phát Xít:
- "
Cấm việc tái lập lại, dưới bất cứ hình thức nào, chính đảng Phát Xít đã bị giải
tán" ( Điều XII, đoạn 1, id.).
Kế đến đạo luật n.
645, ngày 20.06.1952, áp dụng chỉ thị của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc cũng cấm cả
việc thiết lập các chính đảng có khuynh hướng theo chủ trương Phát Xít.
Ở Hoa Kỳ chúng ta cũng
có 2 đạo luật " Internal Security Act , 23.09.1950 và Communist
Control Act, 19.08.1954 " cấm thiết lập các Hiệp Hội Cộng Sản.
Và dĩ nhiên, như chúng
ta biết, các Hiến Pháp Tây Phương không phải chỉ là những văn bản viết ra để
tuyên bố " vô thưởng vô phạt " , mà là những điều
khoản của Hiến Pháp là những đạo luật thực định ( lois positives),
bởi đó ngoài việc tuyên bố các chính đảng có tổ chức nội bộ hay phương thức
hoạt động trái với những gì Hiến Pháp bằng những xác nhận,
-
"... là những chính đảng vi hiến" ( Điều 21, đoạn 2 Hiến Pháp
1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức),
Hiến Pháp còn tiền
liệu cả cơ quan có bổn phận phán quyết, Viện Bảo Hiến, để
chuẩn định và quy trách cáo buộc trách nhiệm dân sự cũng như hình sự, kể cả
việc giải tán chính đảng:
-
" ...là những chính đảng vi hiến. Về vấn đề tính cách vi hiến,
Viện Bảo Hiến Liên Bang ( Bundesverfassungsgericht) sẽ quyết định".
-
" Các chi tiếc sẽ được luật pháp Liên Bang sắp xếp áp dụng" ( Điều
21, đoạn 2 và 3 , id.).
( Wassermann R., Sicherung oder
Aushohlung des Rechtsstaates? Zum Thema: Politischer Radicalismus und
Rechtsordnung, in Aus Politik un Zeitgeschite, 13, 1976, p. 3-20).
Chính đảng là tiếng nói, nói lên nhu cầu và
ước vọng của dân chúng đồng thuận với đường hướng của mình, cộng tác thêm sung
mãn, cũng như sửa đổi, định hướng, hảm thắng các cách suy tư và hành xử quá lố
của giời đương quyền, ở Quốc Hội hay trong Chính Quyền cũng vậy.
Nhưng muốn cộng tác xây dựng đất nước, chính
đảng không thể đi ra ngoài phương thức dân chủ và chà đạp con người, nếu không
muốn trở thành những chính đảng Đức Quốc Xã của Hitler, Phát Xít
Ýcủa Mussolini, Cộng Sản vô nhân đạo và độc tài, phi dân chủ:
- " Không thể
chấp nhận bất cứ một sự sửa đổi nào đối với Hiến Pháp nầy có liên quan đến
...các nguyên tắc đã được tuyên bố ở điều 1 và điều 20" ( Điều 79, đoạn 3
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Phải chăng đó là những gì chúng ta cũng mong
ước cho tương lai Việt Nam: chính đảng dân chủ, đại diện cho nhu cầu và ước
vọng của người dân và hành xử cũng như tổ chức nội bộ theo phương thức dân chủ
hiến định.
Quý vị có thể tìm đọc toàn bộ Tài Liệu về Hiến Pháp của Giáo Sư
Nguyễn Học Tập tại:
http://www.thegioinguoiviet. net/forumdisplay.php?f=69
http://www.thegioinguoiviet.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.