TOÀN CẢNH BỨC TRANH VỀ
BÔ XIT TÂY NGUYÊN
TS
Tô Văn Trường
Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu khoa học KC08/11-15 Bộ KHCN
Khai thác tài nguyên trong nước và hy sinh môi trường là những
điều các nước phát triển đều tránh. Chúng ta cũng đã phải trả giá trong chủ trương
tự túc lương thực tại chỗ khi đánh đổi cả 1 ha rừng nguyên sinh lấy mấy tấn
sắn, hay chủ trương chuyển “rừng nghèo” sang trồng cao su lập tức bị lạm dụng
phá rừng già.
Những bài học đó làm cho dư luận rất quan ngại với dự án bauxite
Tân Rai và Nhân Cơ mà ngay cả hiệu quả kinh tế cũng chưa tính hết lỗ hay lãi.
Sự khác biệt trong cách nhìn nhận 3 mặt bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường)
của dự án này chỉ có thể giải quyết nếu các số liệu được công khai minh bạch và
có phản biện độc lập.
Điều kiện để sản xuất nhôm
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã tổng kết kinh nghiệm việc
quyết định có sản xuất nhôm (aluminum) hay không, cần đáp ứng thỏa đáng các điều kiện như có nguồn điện, nguồn nước dồi
dào, nơi khai thác có vị trí và địa thế hoang vắng thuận lợi cho giải quyết
thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ), có khả năng giảm
xuống mức thấp nhất chi phí vận tải, có trữ lượng bauxite dồi dào với hàm lượng
cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm,
nếu không giá thành sẽ quá đắt) và có nguồn lao động rẻ.
Việt Nam là một nước đất chật người đông, tài nguyên khoáng sản đa
dạng nhưng trữ lượng và khả năng về khoa học công nghệ còn hạn chế, nếu chỉ
nghĩ đến việc “đào đất” đem bán không những hiệu quả về kinh tế thấp mà còn tác
hại lớn đến môi trường. Tây Nguyên đang thiếu
điện, thiếu nước, mật độ dân số ngày càng đông, cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai
thác bauxite nhất là về giao thông rất yếu kém. Hơn nữa, Tây Nguyên còn là vị trí
rất quan trọng về an ninh quốc phòng, không phải ngẫu nhiên mà ngay từ năm 2008, nhiều nhà khoa học,
kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần kiến nghị với Trung ương xem xét
lại chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên.
Nhiều ý kiến của người dân cho rằng con đường đi lên của nước ta
là tìm cách phát huy con người Việt Nam tự chủ, có ý chí nhẫn nại làm giầu bền
vững, lâu dài trên từng thước vuông đất của Tổ quốc chúng ta bằng trí tuệ và
lao động cần cù sáng tạo, đặc biệt ở Tây Nguyên là lựa chọn ưu tiên hướng phát
triển xanh chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản đem đi bán bằng bất cứ
giá nào.
Quá trình hình thành dự án bô xit Tân Rai và Nhân Cơ
Trong giai đoạn
2000-2004, Việt Nam đề nghị công ty Péchiney của Pháp (nay đã sát nhập vào
Alcan của Canada) làm Pre-FS với công suất 300.000 tấn alumina/năm. Péchiney
áp dụng công nghệ hòa tách ở áp suất khí quyển và nhiệt độ 105-107o C
với nồng độ kiềm cao 200-210 g/l (công nghệ này cũng là một dẫn suất từ công
nghệ Bayer).
Quá trình diễn ra khá lâu vì vốn đầu tư không có, và cũng có một
số ý kiến nghi ngờ công nghệ này và hiệu quả (vì thế giới chỉ có hai nhà máy
Fria ở Guinea và Nalco ở Ấn Độ áp dụng công nghệ này của Péchiney), công suất
nhà máy quá nhỏ. Lúc đó, nếu có tiền chắc đã đầu tư dự án này rồi, còn Péchiney
chỉ thiết kế và chuyển giao công nghệ, chứ họ không đầu tư và thu xếp vốn.
Thực ra trong năm 1988, UNIDO cũng đã lập luận chứng “Opportunity Study”
để xây dựng nhà máy alumina có công suất 600 nghìn tấn/năm, nhưng không có đối
tác, vốn đầu tư lớn đối với Việt Nam.
Khối SEV (thực chất là Liên Xô) cũng có ý định đầu tư vào mỏ
“1/5”, nhưng lực bất tòng tâm nên không thực hiện được, đương nhiên khi đó, họ cũng
có lời khuyên là nếu khai thác sẽ tác động đến môi trường. Trong 1996, Daewoo
đã được giao làm nghiên cứu phát triển mỏ “1/5”, nhưng Daewoo không thực hiện
được vì khủng hoảng kinh tế.
Từ 1998, BHP Billiton, Alcoa, Toshiba Chemical, Essar từ Ấn Độ,
MCC, NFC và Chalco của Trung Quốc nhẩy vào. Nhưng Việt Nam lại giao cho Chalco
miếng ngon nhất là mỏ “1/5”, còn BHP và Alcoa các vùng mỏ mới chưa được điều
tra kỹ lưỡng như Quang Sơn, Đăk Song, Tuy Đức. Tuy nhiên, Việt Nam yêu cầu phía
Việt Nam có cổ phần 60 % (lại còn yêu cầu đối tác giúp vay vốn này) trong liên
doanh. Việt Nam vận hành nhà máy, xây dựng nhà máy alumina gần mỏ, phía đối tác
nước ngoài lo bao tiêu sản phẩm và xây dựng đường sắt. Vì những yêu cầu này,
các đối tác nước ngoài ngãng ra.
Từ 2004 bắt đầu nghĩ đến xây dựng nhà máy alumina có công suất lớn
hơn 300 nghìn tấn, cụ thể là 650-700 nghìn tấn/ năm với tài nguyên bauxite Tân
Rai, và giao cho Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (TKV) thực hiện
từ 2006. Nhưng không có chủ trương liên doanh, yêu cầu công ty tham gia thầu
làm thiết kế xây dựng và giúp giải quyết vốn. Đối với các nước phương Tây thì
họ không có “văn hóa” kiểu này và khi họ biết có Trung Quốc tham gia thì họ
cũng ngãng ra, chỉ còn lại Trung Quốc. Ngay trong các công ty Trung Quốc
cũng được chính phủ của họ hướng dẫn để cho Chalco thắng thầu. Trung Quốc trúng
thầu thì hứa cung cấp vốn từ Eximbank và cung cấp luôn thiết bị, lao động “kỹ
thuật” cũng là Trung Quốc!?.
Sau khi Chalco (Chalieco) trúng thầu rồi, lại giao luôn cho
Chalieco làm luôn dự án Nhân Cơ với tài nguyên bauxite bóc ra ở đây để làm khu công
nghiệp Nhân Cơ, với thành tích “tận dụng tài nguyên”. Tuy không tiếp tục làm
“1/5” nữa, nhưng Trung Quốc vẫn dình dập bauxite Việt Nam vì nhiều, rất gần và
còn mang ý nghĩa địa chính trị nữa. Vì thế, họ tìm mọi cách để tham gia dự án
Tân Rai và Nhân Cơ.
Lúc đó, có những người tâm huyết, trình độ, biết nhìn xa trông
rộng nêu ý kiến nếu đã làm thử nghiệm thì nên chọn đối tác phương Tây để học hỏi.
Nếu đã cho Trung Quốc làm thì chỉ ở Tân Rai thôi và còn muốn làm thử nghiệm
tiếp ở Nhân Cơ thì nên chọn đối tác khác. Nhưng tiếc thay chẳng ai nghe.
Về công nghệ
Ngày nay, Vinacomin và Bộ Công thương luôn nói họ áp dụng công
nghệ Bayer thủy luyện hiện đại mà khắp thế giới đang sử dụng, không phải là của
Trung Quốc. Nhưng họ sai cơ bản khi nói “công nghệ Bayer là của Châu Mỹ”. Những
người am hiểu công nghệ đều biết công nghệ Bayer được sáng tạo ra ở Châu Âu
(phát triển ở Áo năm 1887) từ thế kỉ thứ XIX và cho đến nay, nếu có gì thay đổi
cũng chỉ là cải tiến và kết hợp, còn nguyên lí thì vẫn như cũ. Chỉ có một công
nghệ sản xuất alumine khác là phương pháp hỏa luyện “thiêu kết” vôi-soda
caustic, không có hiệu quả bằng công nghệ Bayer truyền thống, và chỉ dùng khi
trong quặng có hàm lượng silic cao thì không dùng công nghệ Bayer được.
Đúng là công nghệ Bayer cơ bản đã được sử dụng 100 năm rồi, nhưng động
cơ đốt trong hai thì cũng có lịch sử hơn trăm năm, nhưng các thông số kỹ thuật
của Mỹ, Anh, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar khác nhau về tiêu hao nhiên liệu,
về khí thải ra môi trường, độ bền vv…
Trên nguyên lý của công nghệ Bayer, Trung Quốc đã xây dựng công
nghệ này cho Việt Nam ở dự án bauxite Tây Nguyên. Xin lưu ý là Trung Quốc chỉ có
quặng bauxite diaspore, nên Trung Quốc có thể nắm vững công nghệ Bayer cho
quặng diaspore này (hòa tách ở nhiệt độ cao từ 240 đến 250o C). Còn quặng
bauxite gibbsite như ở Việt Nam thì theo tôi hiểu đây là lần đầu tiên Trung
Quốc phát triển và ứng dụng. Vì thế, đây cũng là dịp để Trung Quốc thử nghiệm
công nghệ của họ trên đất nước ta. Đương nhiên, Trung Quốc cũng nhập khẩu quặng
gibbsite từ Indonesia, nhưng nhà máy luyện ở Sơn Đông là do phương Tây thiết kế
cho Trung Quốc.
Hiện tại quá trình lắng trong hòa tách chưa thật ổn, phải sử dụng nhiều
chất trợ lắng vì goethite cao trong quặng. Đây là minh chứng không thể chối cãi
về trình độ công nghệ hay kinh nghiệm của Trung Quốc còn rất hạn chế.
Goethite
là một khoáng chất chứa sắt FeO(OH) hay Fe2O3(H2O)
có thể tồn tại tự nhiên trong quặng bauxite và đặc biệt là hình thành nhiều khi
hòa tan bauxit bằng kiềm để sản xuất alumina. Khi hàm lượng goethite nhiều thì
nảy sinh 2 khó khăn:
1) khó tách alumina ra khỏi các chất không hòa tan trong
kiềm;
2) khó lắng bùn đỏ. Vì vậy để giải quyết 2 khó khăn này có một vài phương
án, trong đó có thể có phương án phải sử dụng chất trợ lắng.
Tôi không rõ Tân
Rai đang dùng loại chất trợ lắng gì. Về nguyên tắc thì đây là chất hóa học, mà
dùng nhiều các chất hóa học thì chắc chắn sẽ có tác động đến môi trường nếu
không xử lý. Tuy nhiên, chất trợ lắng có nguồn gốc thiên nhiên (như tinh bột
hoặc cellulose chẳng hạn) thì sẽ dễ phân hủy tự nhiên hơn, và do đó ít tác hại
hơn, nhưng lại đòi hỏi có giá thành cao hơn (lại bài toán kinh tế!)!?
Nhà máy Tân Rai có hai tổ máy phát điện bằng than (2 x 15 MW) cung
cấp điện cho nhà máy và hơi nóng cho công đoạn hòa tách và một xưởng khí hóa
than (để nung dung dịch hydrat nhôm ra thành alumina). Ở Trung Quốc người
ta đã cấm xây dựng nhà máy điện than có công suất dưới 50 MW, vậy tại sao lại
đem công nghệ lạc hậu này sang Việt Nam?
Vinacomin nói đã thuê Tư vấn đánh giá hiệu quả kinh tế của Dự án
Tân Rai và Nhân Cơ, đi đến kết luận là “hiệu quả” và thu hồi vốn trong 12-13 năm.
Tư vấn đây là “tư vấn nội bộ”, tức là một công ty tư vấn khoáng sản của Vinacomin
có nghĩa là vừa đá bóng , vừa thổi còi. Để khách quan và khoa học cần mời
Tư vấn độc lập của phương Tây để họ đánh giá toàn bộ, giúp hoàn chỉnh lại công
nghệ và thiết bị để đạt các thông số kỹ thuật (công suất), kể cả vận hành và
quản lý.
Không thể lập lờ thải ướt và thải khô
Nước trong hồ chứa bùn đỏ.
Thực chất thải bùn đỏ ở Tân Rai hiện nay và Nhân Cơ sắp tới là
thải ướt, mới đạt độ cứng 40%. Đã có lần nhà thầu Chalieco (Trung Quốc) và
cả Hội Mỏ Việt Nam báo cáo rằng họ áp dụng công nghệ “Drystacking”, nay Vinacomin
nói là “thải khô tự nhiên” là ngụy biện.
Công nghệ thải hiện nay vẫn là ướt, chứa xút nên chiếm diện tích
đất gấp 3 lần so với thải khô. Mới chỉ sau 2 năm vận hành,
Vinacomin đã phải chuẩn bị làm khoang thứ 3. Đúng đây là thải ướt, bùn đỏ được
bơm trực tiếp từ máy rửa cuối cùng ra bãi thải. Thải ướt chiếm nhiều diện tích.
Nguyên tắc phân nhiều lô, lô này đầy thì chuyển sang lô khác. Lô tiếp theo bao
giờ cũng phải sẵn sàng, để chứa bùn đỏ khi bãi trước đầy, chứa nước tràn từ bãi
thải đã đầy, và đề phòng đê ngăn vỡ. Đáng tiếc là Hội Mỏ Việt Nam lại nói đây
là thải khô nhiều lớp (dry-stacking) trong Kiến nghị gửi các vị lãnh đạo mới
đây, nhiều tài liệu của Vinacomin cũng nói như vậy!?.
Thải ướt, không chỉ làm gia tăng độ rủi ro khi chờ tuần hoàn mà
còn làm gia tăng áp lực thủy tĩnh của hồ chứa. Bộ Công thương và
Vinacomin cần rút bài hoc kinh nghiệm của Hunggary là khi vỡ hồ bùn đỏ, họ đã
cải tiến công nghệ thải bùn đỏ từ dạng ướt sang dạng khô có nghĩa là tỷ lệ rắn/lỏng
> 60% vừa an toàn hơn, vừa chiếm ít diện tích khoang chứa chất thải.
Hiện nay, thế giới áp dụng nhiều công nghệ dry-stacking. Bùn đỏ
được ép để khử nước nhiễm kiềm trong bùn đỏ và tạo ra bùn đỏ đặc, rồi thải trải
nhiều lớp trên bề mặt nghiêng, để khử nước nhiễm kiềm bằng tháo khô và bùn đỏ
sẽ khô dần dưới ánh nắng mặt trời, độ cứng có thể đạt tới 72 %. Áp dụng công
nghệ này, tiết kiệm diện tích tới 2,5 lần so với thải ướt thông thường, nhưng
chi phí lại cao hơn 30%. Ở Việt Nam áp dụng công nghệ này hơi khó vì mùa mưa
kéo dài cả tháng.
Tốt nhất cho các dự án ở Tây Nguyên là ép bùn đỏ trước khi thải,
hoặc sử dụng công nghệ Hyper-Baric (HI-BAR) để đạt độ cứng tới 75-77 %. Công nghệ
Hi-Bar được coi là công nghệ xử lý bùn đỏ tốt nhất hiện nay. Sản phẩm của công
nghệ này là bùn đỏ có thể được vận chuyển dễ dàng vì độ ẩm của bùn đỏ này chỉ 23
%, còn bùn đỏ có độ ẩm trên 28 % vận chuyển khó khăn vì nó mang tính giáp
tuyến, dưới tác động cơ học nó chuyển sang thể ướt xệt, có thể lưu giữ
lâu dài và dễ chế biến cho tái sử dụng.
Độ an toàn của hồ bùn đỏ
Nhìn bằng mắt thường hồ bùn đỏ được xây dựng khá vững trãi nhưng quan ngại nhất đối với hồ bùn đỏ ở Tân Rai và
Nhân Cơ là rò rỉ kiềm vào nước ngầm và nước mưa tràn. Màng (tấm) chống thấm được sử dụng rộng
rãi để lót đáy và thành vành. Cho tới nay chủ yếu màng địa kỹ thuật được dùng là
màng lót chống thấm kênh dẫn nước, lót ao hồ. Một trong những áp dụng nhiều
nhất hiện nay là để chống thấm các bãi rác độc hại, rác thải của thành phố, rác
thải công nghiệp, nước rửa rác thải. Từ cuối thế kỷ qua người ta cũng sử dụng
để chống thấm chất thải phóng xạ. Cũng có chuyên gia khuyên không nên dùng màng
này đối với môi trường kiềm hoặc chỉ sử dụng trong thời gian ngắn. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy màng này chỉ thích hợp chống thấm có hóa chất trong thời
gian ngắn-chỉ trong vòng 50 đến 100 năm, kinh nghiệm chống thấm bãi thải khoáng
sản chưa có nhiều.
Nếu thời gian tương tác của môi trường kiềm với màng địa kỹ thuật
kéo dài, thì màng này có thể bị phá hủy do bị ăn mòn hóa học, sức chịu kéo của
màng chỉ còn 60 % sau một năm tương tác với NaOH. Màng HDPE có độ đề kháng hóa
chất rất tốt, nhưng tính uốn lượn kém và bị nứt nếu chịu áp lực môi trường và
nhiệt. Tân Rai sử dụng loại màng này.
Bãi thải bùn đỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ có lắp đặt hệ thống ống bê
tông, có các lỗ trên thành ống. Nguyên tắc cơ bản: Các ống này nằm trên các lớp
sét (dày tới 600 mm) chống thấm ở đáy và lớp cát dày, rồi phủ cát lên. Nước
thấm đáy nhiễm kiềm chảy qua các lỗ ống qua trọng lực để tới chỗ thu gom, rồi
được bơm trở lại nhà máy để giữ cho áp lực thủy tĩnh lên lớp chống thấm đáy,
như thế giảm được tiềm năng thấm vào mạch nước ngầm. Vấn đề ở đây là sau thời
gian các lỗ này bị bịt kín lại, phải xử lý thông và kiểm tra nguồn nước ở
thượng nguồn, hạ nguồn gần bãi thải xem hoạt động có đạt yêu cầu không?
Các tấm lót đáy hồ dễ bị thủng và thẩm thấu qua đất vào nước ngầm.
Điều tra gần đây cho thấy qua nhiều thập kỷ, kiềm trong pha lỏng của bùn đỏ đã
phản ứng với đất sét, sodium-aluminium-hydrosilicate và zeolite trong một cơ
chế phản ứng phức hợp. Phản ứng này tương tự như phản ứng của khoáng sản sét
trong dung dịch Bayer, nhưng chậm hơn rất nhiều. Thay đổi này làm tăng tức thì
tính thấm nước của lớp đáy bằng đất sét, tạo ra sự rủi ro là làm ô nhiễm hệ
thống nước ngầm sau nhiều thập kỷ đã xẩy ra ở một nhà máy của Alcoa ở Tây
Australia.
Hồ chứa quặng đuôi Tân Rai đã từng bị vỡ
Người dân không quên sự cố hồ chứa quặng đuôi bauxite của Tân Rai
đã bị vỡ ngày 8/10/2014. Nước tuần hoàn mới sử dụng được 20%, trong khi nước để
rửa quặng rất lớn, cần diện tích lớn để chứa quặng đuôi này.
Các sản phẩm sau đây (tuy không chứa kiềm) từ nhà máy tuyển được
thải ra hồ. Quặng có kích thước nhỏ hơn 1 mm, bùn tràn phân cấp và nước từ sang
rung khử nước. Nước thải này là nước huyền phù, nếu tràn ra ao hồ thì cá, vi
sinh vật chết, nếu ra ruộng thì rau cỏ cũng chết. Nếu mà vỡ hồ bùn đỏ thì tác
hại còn khủng khiếp hơn rất nhiều so với hồ chứa quặng.
Về tách sắt ra khỏi bùn đỏ
Các nhà khoa học đã làm nhiều, trong đó có thiêu kết như Viện Hóa
học Việt Nam đang làm, nhưng họ đều kết luận: Hiện tại chưa thể triển khai qui
mô công nghiệp, trong đó cần năng lượng nhiều cho thiêu kết trong lúc thế giới
thiếu năng lượng. Các nhà khoa học còn kết luận là việc tách kim loại có hiệu
quả nhất vẫn là từ khai thác quặng tự nhiên để luyện.
Trên thế giới mới tái sử dụng khoảng 5 % lượng bùn đỏ, chủ yếu để
làm vật liệu xây dựng. Các nước đã nghiên cứu thành công tái sử dụng bùn đỏ vào
nhiều mục đích rồi, nhưng không thể triển khai ở qui mô công nghiệp vì giá
thành quá cao. Ngay đến làm gạch, vật liệu làm đường cũng không dễ tiêu thụ, vì
người dân ám ảnh đây là chất thải có kiềm, có phóng xạ. Vì thế EU ban hành qui
định sử dụng bùn đỏ làm vật liệu xây dựng rất nghiêm ngặt. Xin đừng ảo tưởng
việc thương mại hóa bùn đỏ thành sắt ở Tây Nguyên.
Hiệu quả của dự án
Mặc dù lâu nay, nhiều nhà khoa học yêu cầu nhưng Tập đoàn Công
nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn chưa công bố công khai và minh
bạch về giá thành để có đủ cơ sở phản biện khoa học. Những người am hiểu,
đều ngạc nhiên khi Vinacomin tuyên bố nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ vẫn có lãi và
sẽ thu hồi vốn.!?. Giá bình quân cả năm 2014 đạt 326,5 USD/tấn cao hơn so
với tính toán của dự án trước đây là là 325 USD/tấn. Đây chỉ là nhất thời bởi
vì sản xuất alumina của Trung Quốc giảm do nguồn bauxite diaspore trong nước
khan hiếm, nhập từ Việt nam còn rẻ hơn là từ Châu Mỹ latinh.
Tra cứu số liệu trên tạp chí khoa học Mining Bulletin về bauxite,
giá thế giới trong tháng 2 năm 2015 như sau: Bauxite của Úc (AL 48-50 %, Si 6-7%),
giá trung bình: $USD 60-61/tấn. Bauxite của Ấn Độ (Al 48-50%, Si 6-7 %), $US
61-62/tấn, bauxite của Indonesia (Al 48-50 %, Si 6-7 %), $US 60-61/tấn
(CIFChina). Đầu vào cho sản xuất alumina ở Việt Nam là bauxite tại chỗ, không
rõ giá cả thế nào?
Về giá thành, nếu minh bạch thì Vinacomin phải công bố cả lượng
nhập khẩu lớn về xút và chất trợ lắng. Than từ Quảng Ninh cũng cần nhiều cho phát
điện và khí hóa than (cứ 01 tấn alumina cần khoảng 01 tấn than). Như vậy chi
phí vận tải (biển, ô tô) rất lớn. Sản phẩm alumina cũng phải được vận chuyển
bằng ô tô ra cảng để xuất khẩu.
Theo tôi biết vì trên thực tế thì dự án chưa được quyết toán vốn
đầu tư chưa bàn giao nên chưa có khấu hao. Trong giá thành 2013 thì chắc chắn
không có khấu hao (khoảng 350 US/tấn) còn giá thành 2014 thì chưa công bố kiểm
toán nên chưa biết khấu hao là bao nhiêu?. Nếu có thì phải 50-75 triệu
US/năm và nếu bổ theo sản lượng thì phải khoảng 75-100US/tấn nữa (tuỳ thuộc vào
công suất thực tế hàng năm). Đấy là minh chứng về dự án bô xit Tây Nguyên
lỗ to là phải (chưa kể những ưu đãi khác mà ngân sách phải gánh chịu) vv….
“Khoác áo” sở hữu toàn dân
Về bản chất vấn đề tài nguyên khoáng sản là của toàn dân, vậy xuất
thì ta thu về được cái gì cho dân? Vinacomin lập luận mặt hàng ô xít nhôm
(alumina) có mã số hàng hóa (mã HS) là 2818.20.00, với mức thuế suất (thuế xuất
khẩu) là 0%, mức thuế này tương đương với mức thuế 0% của các nước xuất khẩu
chính alumina như: Brazil, Ấn độ, Australia vv…
So sánh như thế tưởng rằng khôn nhưng “không ngoan” bởi
vì các công ty ở các nước đó để có quyền khai thác bauxite họ phải tham gia
cạnh tranh đấu thầu hay nói cách khác phải mua tài nguyên của nhà nước
qua phí đấu thầu. Còn ở Việt Nam, mỏ bauxite Tây Nguyên hầu như cho không Vinacomin
để khai thác. Đừng quên rằng Alumina vẫn là quặng đã chế biến (nguyên liệu đầu
vào cho ngành khác, có nghĩa là bán thành phẩm). Vấn đề gốc rễ ở đây là sở hữu
toàn dân biến thành sở hữu của nhóm lợi ích.
Lời kết
Thông tin về hiệu quả dự
án bauxite trên một số tờ báo vừa qua chỉ có tính chất PR khỏa lấp cho sai lầm
đã chót cưỡi trên lưng cọp! Không ai biết sự thật bằng những người trong cuộc. Ông
Nguyễn Chân cựu Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than có lần chất vấn một vị lãnh đạo của Tập
đoàn Than và khoáng sản Việt Nam về dự án bô xít Tây Nguyên thì nhận được
câu trả lời rất thật : ”Em
không làm thì người khác cũng làm vì đã có chủ trương vv…”. Vâng,
người dân hiểu ngày nay trên công luận nếu có các tuyên bố này khác về hiệu quả
bô xít Tây Nguyên cũng chỉ để “rửa mặt” vì trong thâm tâm, không hẳn họ đã nghĩ
như thế!
Điều quan trọng ở đây là các báo cáo của Vinacomin chưa cho biết nhiều
số liệu của đầu vào, nhiều thông số kỹ thuật của vận hành nhà máy không đạt như
thiết kế (gây lãng phí tài nguyên, nước và năng lượng), đã có những hỏng hóc
đáng ngại phải có đầu tư bổ sung để khắc phục, còn nhiều khoản chi phí bỏ ngoài
giá thành, và vấn đề giao thông vẫn hoàn toàn bế tắc vv…
Sắt cho sản xuất thép từ thiêu kết bùn đỏ là chuyện rất viển vông
vì chỉ tồn tại được trong phòng thí nghiệm, quá đắt trong sản xuất ở quy mô kinh
tế, thế giới đã bỏ chuyện này từ lâu rồi. Hơn nữa sản lượng thép trên thế giới
đang dư thừa lớn và tình hình này còn kéo dài một vài thập kỷ nữa, chẳng ai ngu
gì đi làm như thế! Nước ta đang khan hiếm không gian sinh sống (vì mật độ dân
số rất cao, vào loại nhất Châu Á, hơn cả Trung Quốc) và rất thiếu năng lượng,
sắp tới càng khan hiếm hơn nữa.
Nhà nước đã sử dụng vốn vay khoảng 1,5 tỷ đô la, chỉ tính riêng Vinacomin
đầu tư 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ là hơn 7000 tỷ đồng (lấy vốn từ than), mỗi
năm lỗ khoảng 1000 tỷ đồng. Cần phải minh bạch các con số tính toán giá thành
sản xuất và giá bán, và những người có trách nhiệm biết lắng nghe phản biện xã
hội để tìm ra lối thoát hợp lý nhất dù phải trả giá đắt chứ không phải tìm cách
an dân bằng loại thuốc an thần! Chúng ta bị “chẩy máu trong” nhiều quá, và thật
đáng buồn, các thầy thuốc lại bị ngăn cản không được cấp cứu con bệnh là người
thân thương của mình.
T.V.T
Tác giả gửi BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.