Gừng
càng già càng cay!
Tô Văn Trường
Đang đọc để viết bình
luận cho cuốn sách của PGS.TS Vũ Trọng Khải chủ đề “Phát triển nông nghiệp & nông
thôn Việt Nam hiện nay –Những bức xúc và trăn trở”, tôi nhận được
thông tin trên báo chính thống của nhà nước cho biết trong khi
người dân nước mình loay hoay chưa biết trồng cây gì, nuôi con gì thì ngay tại
cao nguyên Đà Lạt, các doanh nghiệp Nhật Bản đã bỏ vốn đầu tư thành công với
các mô hình rau sạch công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thế giới.
Chỉ trong thời gian ngắn, những thành công lớn của họ đã mở ra nhiều cơ hội và
những dự định táo bạo biến Việt Nam trở thành một “vựa rau an toàn Châu Á”.
Nhìn vào thành công của
người Nhật, một đất nước rất nghèo nàn về tài nguyên, mới càng rõ thêm thất bại
của Việt Nam trong nông nghiệp – vốn là sở trường hay điều kiện Cần mà ta rất
sẵn. Thể chế hay cơ chế – điều kiện Đủ là cái đang rất có vấn đề, càng làm nhức
nhối những người quan tâm đến sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn nước
ta.
Ở
Đà Lạt, Lâm Đồng, cách đây khoảng chục năm, người Việt đã mang giống oải hương
(lavender) – loài hoa cho thứ tinh dầu đứng đầu bảng trong danh mục hương trị
liệu [aromatherapy]) của Âu châu, dưỡng não (neurophysiology) về để trồng thử
hàng hec ta và cũng… lặng lẽ biệt tăm hơi!
Cái căn bệnh “hữu sinh vô dưỡng” đã và
đang tràn lan khắp các ngành, chẳng riêng gì nông nghiệp – một thứ “virus”
cực kỳ nguy hại, không ký sinh trên cây trồng vật nuôi – mà ký sinh … trong đầu
con người! Đà Lạt có một thế mạnh vô song là khí hậu và thời tiết. Miền đất
này, đã từng được người trong và ngoài nước tặng cho nhiều mỹ danh: thành phố
ngàn thông, thành phố sương mù, tiểu Paris, v.v. nhưng xem ra cái tên mỹ miều
và chính xác nhất mà người Đức đã trao tặng thành phố của mùa xuân vĩnh cửu (“Stadt
des ewigen Frühlings”) .
Quả thật, khí hậu Đà Lạt nó kỳ diệu đến mức tới cả
cây cối mà còn… “mắc lừa” . Rất nhiều loài tra trong các sách khảo về
sinh trưởng đều ghi rất rõ chỉ trổ hoa vào mùa xuân nhưng về Đà Lạt chúng nở
quanh năm tưng bừng. Ở bất kỳ nước nào mà muốn tạo được mội trường mô phỏng như
Đà Lạt thì phải chi hàng ngàn đô la cho một mét vuông – của “trời cho”
là vậy, đã có “bột” là vậy mà
không gột nên “hồ” thì đau lòng và hổ thẹn biết chừng nào!
Lãnh đạo nước ta lâu nay
vẫn cứ loay hoay với bài toán tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân) kể
cả sử dụng nhiều nguồn vốn ODA, và tận dụng triệt để nguồn tài nguyên đất và
nước nhưng ngành vẫn không phát triển, cuộc sống của người nông dân (cống hiến nhiều
nhất, thiệt thòi nhiều nhất) vẫn kham khổ nhất, chẳng khác gì như vướng mắc khi
giải bài toán NP-hard.
Mọi chủ trương, chính
sách cứ sửa lỗi này lại phát sinh lỗi khác có khi còn trầm trọng hơn.
Hơn một nửa thế kỷ từ khi đất nước độc lập chúng ta đã đào tạo ra hàng ngàn
chuyên gia về các lĩnh vực nông nghiệp, có nhiều người tham gia và rất có uy
tín trong các chương trình quốc tế về nông nghiệp, nông thôn. Vậy mà tại sao
những ý tưởng, giải pháp, kinh nghiệm của họ ít được phổ biến, sử dụng?
Căn bệnh của ngành nông
nghiệp, tôi đã phân tích trong bài: “Toàn cảnh bức tranh màu xám của ngành nông
nghiệp” tiềm ẩn từ lục phủ, ngũ tạng mà không chịu chữa, chỉ loay hoay trị
những triệu chứng nhỡn tiền ngoài da thì hết chỗ này tới chỗ khác “được mùa,
mất giá”, hết việc này tới việc khác sẽ … lần lượt theo hiệu ứng đô-mi-nô mà sập
xuống. Con đô-mi-nô đầu dãy (đầu têu) là cái đầu, nó lật là cả chuỗi sập theo!
Nhiều nhà quản lý giáo
dục thiếu ý thức phát triển tư duy phán xét hiện tượng, quy luật khách quan,
học lý thuyết thụ động, thực hành có lý luận quá ít. Người ta kêu chúng ta
nhiều thầy hơn thợ… nhưng éo le thay, thợ của chúng ta cũng chưa đủ kiến thức
và kỹ năng thực hành với quy trình thực tế cụ thể.
Trong toán học, để đánh
giá độ khó (độ phức tạp) của các bài toán, người ta chia các bài toán làm hai
loại: Loại thứ nhất gồm những bài toán mà người ta có thể tìm ra thuật toán
giải với thời gian giải tăng tương đối chậm theo kích cỡ (size) của bài toán,
nôm na kích cỡ bài toán là số biến của nó, cụ thể nếu kích cỡ là n thì thời
gian tính chỉ là một đa thức nào đó theo n (chẳng hạn n bình phương, n lập phương,
v.v.). Loại thứ hai gồm những bài toán chỉ có thể giải được với thuật toán mà
thời gian giải tăng theo hàm mũ của kích cỡ n (chẳng hạn 2 mũ n). Loại sau này
gọi là NP-hard. Vì tăng theo hàm mũ là tăng cực nhanh như 2 mũ 64 đã là con số
cực kỳ lớn, lớn hơn rất nhiều so với 64 bình phương, cho nên nói nôm na NP-hard
có thể hiểu là cực khó.
Cuốn sách ”Phát triển nông nghiệp & nông thôn
Việt Nam hiện nay – Những bức xúc và trăn trở” của PGS.TS Vũ Trọng Khải
thuộc típ “gừng càng già, càng cay” góp phần chỉ ra hướng giải cho bài toán NP
hard nói trên. Nội dung cuốn sách là tập hợp các bài viết của tác giả xuyên
suốt trong quá trình dài nghiên cứu và giảng dậy về “tam nông”. Lời văn, nhiều
chỗ tự sự, càng làm nổi bật sự trăn trở, bức xúc với những thực trạng ngang
trái quan sát được trên thực tế cuộc sống và luôn suy nghĩ để đề xuất những
giải pháp trí tuệ với mong muốn cho cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn của nhà khoa
học tâm huyết trong lĩnh vực quản lý nông nghiệp, nông thôn ở một giai đoạn dài
của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp trong thời kỳ đi theo con đường của chủ
nghĩa xã hội.
Các bài viết dẫn chứng
những sự kiện trong quá khứ và gần đây mà tác giả đã phát hiện các nguyên nhân
bất cập, thẳng thắn phân tích đánh giá và đưa ra giải pháp trước mắt và lâu
dài, kể cả biện pháp “đột phá” đến nay có thể nói đã được kiểm chứng thể hiện
sự quan sát tinh tế, tầm nhìn và tư duy có tính hệ thống rất sâu sắc của tác giả.
Tiếc thay, những ý tưởng và kết quả nghiên cứu đó ít được tiếp thu và phổ biến
áp dụng.
Theo tôi biết, anh Khải
là người ham mê đọc sách, nghiền ngẫm liên hệ với thực tế, để vắt óc ra từng
con chữ đắt giá của riêng mình. Anh viết được nhiều bài hay, sâu sắc là nhờ ý
thức trách nhiệm của một công dân – nhà chuyên môn, ngay ở hoàn cảnh khi đó chỉ
qua nghiên cứu thông tin còn ít ỏi, anh đã thấu hiểu ở Hungary, các nhà khoa
học nông nghiệp nước này không theo học thuyết của Lyshenco, mà lại nghỉên cứu
cái mà ở Liên xô cũ người ta coi là phản động, là học thuyết Mendel-Morgan, kết
quả là nông nghiệp nước Hung phát triển mạnh… nhưng về sau sự trì trệ lại có
nguyên nhân khác, thuộc về phạm trù quản lý hơn là khoa học thuần tuý.
Vũ Trọng Khải là con
trai út của Cụ Vũ Trọng Khánh, một trí thức danh tiếng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đầu tiên trong Chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh. Anh đã tiếp thu được nhiều
nét giáo dục văn minh từ truyền thống gia đình, nhưng cuộc sống là bất phương
trình chứ không phải phương trình. Sự nghiệp của anh Khải có những éo le, phải chịu
thiệt thòi nhưng cũng là hoàn cảnh chung, do ảnh hưởng ý thức hệ của hầu hết
những người trưởng thành ở giai đoạn này, nhưng những đóng góp cống hiến của anh
cho xã hội, rất đáng ghi nhận.
Nếu anh Khải may mắn
hơn, theo nguyện vọng thời đó, được đi tu nghiệp ở các nước XHCN (Liên Xô,
Trung Quốc…) cũng khó bổ túc được gì tốt hơn, bởi vì giai đoạn đó các đường lối
quản lý nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước XHCN cũng đang tù
mù, bế tắc. Ngay cả khoa học công nghệ trong nông nghiệp (một phần của công
nghệ sinh học) họ chỉ tôn sùng học thuyết “làm vườn” của Lyshenko và Michurin,
tổ chức nông trang cũng không khác gì Hợp tác xã ở Việt Nam, có hơn chỉ là quy
mô và cơ giới hóa nhưng vẫn không cung cấp đủ lương thực và thực phẩm cho nước
họ.
Trong cái rủi, có cái
may, chính nhờ thử thách, “lửa thử vàng” trong môi trường khắc nghiệt và thực
tế ở Việt Nam, bằng sở trường ham học, trí tuệ, và bản lĩnh “con nhà tông không
giống lông cũng giống cánh”, Vũ Trọng Khải đã trở thành một trong các nhà khoa
học đầu ngành có danh tiếng về nông nghiệp của Việt Nam.
Những kinh nghiệm và
trải nghiệm, phương pháp luận khoa học của anh Khải thật đáng quý, nếu được
nghiên cứu bổ sung thêm nâng lên thành lý luận (tiếp thu những thành tựu tổng
kết ở các nước phát triển) đề ra những giải pháp cho hoàn cảnh mới hiện nay
(những bất cập của Hiến pháp và Luật sửa đổi đất đai) sẽ rất có giá trị khoa
học để giải quyết các vấn đề đang còn nhiều nguy cơ, thách thức lớn trong vấn đề
đất đai, nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Nhìn tấm hình của tác
giả ở trang cuối (417) thật ấn tượng với mái đầu tuy đã bạc “lứa tuổi xưa nay
hiếm” nhưng nụ cười và ánh mắt vẫn tinh anh, kèm theo câu nói thẳng thắn như
xoáy vào tâm can những người đang chịu trách nhiệm về quản lý và điều hành
ngành nông nghiệp nước nhà:
“Một nền nông nghiệp đầu độc
cả dân tộc một cách hợp pháp thì không có nước nào dám mua sản phẩm của nền
nông nghiệp ấy…Hám lợi chụp giật, thì chỉ có thể bán cho Trung Quốc…”
Vì sao, một nhà khoa học
gạo cội như Vũ Trọng Khải, đang ở giai đoạn “gừng càng già, càng cay” lại chán
nản, rửa tay, gác kiếm, cưa được nickname là “Hèn đại nhân”?! Mới thấm thía tư
tưởng của nhà văn Nam Cao thể hiện trong tác phẩm Sống mòn rằng làm
người tử tế trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương cũng rất khó. Chẳng lẽ bây giờ vẫn
khó sao? Phản biện xã hội, đóng góp trí tuệ, tri thức cho xã hội là một việc
thiện rất cần thiết, chân cứng đá mềm, không ngừng nghỉ, vì sao lại nghĩ đến
kết thúc… Anh Khải ơi!
T. V. T.
Tác giả gửi BVN.
*******************
Chào 2014: Cấu
trúc lại hay xây dựng lại nền nông nghiệp – Những cơ sở khoa học của nó
PGS. TS. Vũ Trọng Khải
Chuyên gia độc lập về Kinh tế nông nghiệp và
PTNT
Bài viết mang tính chiến
lược về kinh tế nông nghiệp, một yếu tố hết sức quyết định thành – bại của toàn
bộ nỗ lực thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, của một trong những
chuyên gia hàng đầu, đã bị cắt xén tùy tiện đến mức không còn nhận ra trên vài
tờ báo gần đây như Tuổi Trẻ, Nông
nghiệp VN. Báo Tuổi Trẻ còn hết sức tự nhiên tự cho mình cái quyền
biến một bài lai cảo nghiêm chỉnh của nhà khoa học thành một mẩu “ý kiến bạn đọc”!!! .
Có lẽ trên thế
giới ngày nay, chỉ có báo chí Việt Nam mới coi rẻ người viết thế này.Chẳng hiểu
vì sao?
Hay có gì “nhạy cảm”, “chính chị chính em” trong đó? Cùng với những
thông tin mới nhất về việc ngăn cấm xuất bảnvà thu hồi mấy cuốn sách, người dân
không thể không đặt câu hỏi: Phải chăng Thông điệp “Dân chủ” đầu năm của người
đứng đầu chính phủ đã bị phản pháo ngay ở lĩnh vực tiên phong của nền dân chủ
là quyền Tự do ngôn luận?
BVN
xin trân trọng giới thiệu toàn vẹn bài viết quan trọng của PGS TS Vũ Trọng
Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý nông nghiệp & Phát triển
Nông thôn II tại TPHCM (thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn).
BVN
Năm 2014 đã tới. Năm
2013 qua đi và đã chứng kiến nền kinh tế Việt Nam nói chung gặp những khó khăn,
thách thức lớn lao. Trong bối cảnh đó, nhiều người cho rằng: nền nông nghiệp
nước ta vẫn tăng trưởng, trở thành “trụ đỡ”, là “bình phong trú ẩn chắc chắn”
cho cả nền kinh tế đang gặp “cơn bão” suy thoái trầm trọng. Tôi nghi ngờ nhận
định này.
Sản xuất nông nghiệp
không đủ sống, nông dân bỏ ruộng, ra thành phố làm bất cứ việc gì cần ít hay
thậm chí không cần đến kỹ năng, mà chỉ cần cơ bắp, vẫn có thu nhập cao hơn, mặc
dù rất bấp bênh, khiến họ phải sống dưới mức nghèo khổ theo tiêu chuẩn quốc tế.
Họ trở thành công dân hạng 2, sống trong các khu nhà ổ chuột,làm việc trong môi
trường ô nhiễm nặng, không được hưởng các phúc lợi và tiện ích công cộng, dù
với mức tối thiểu, về giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thụ hưởng văn hóa, cung cấp điện
sinh hoạt và nước sạch… so với cư dân thành thị. Khi “cơn bão kinh tế” ập
đến,hàng ngàn doanh nghiệp ngưng kinh doanh, họ mất việc làm, đành trở về quê
hương bản quán với hy vọng tìm được nơi trú ẩn tạm bợ.Nông thôn vốn đã thiếu
việc làm, nay lại càng thiếu việc làm trầm trọng hơn. Người vô cảm, theo kiểu
“điều gì không thấy tức là không có”, cho rằng nhờ vậy mà tỷ lệ người thất
nghiệp giảm đi.
Mức sống thấp, khiến họ không dám và không có tiền chi tiêu cho
những nhu cầu dưới mức tối thiểu để tồn tại, làm cho chỉ số giá cả (CPI) gia
tăng thấp (trên 6% trong năm 2013). Thế là người ta xướng lên thành tích đã
kiềm chế được lạm phát! Thống kê nhà nước nói chỉ số giá cả tăng thấp, nhưng
các bà nội trợ lại kêu giá cả tăng cao thường xuyên, liên tục, làm teo tóp túi tiền
vốn đã eo hẹp của họ. Như vậy, nông nghiệp chỉ là “trụ đỡ” cho những thành tích
ảo, là “bức bình phong” che khuất những nỗi cơ cực của người nông dân trước con
mắt của những người vô cảm, thích tự sướng!
Nhưng mặt khác, người ta
vẫn hô hào phải tái cơ cấu nông nghiệp, từ bỏ mô hình tăng trưởng nhờ
tăng đầu tư, khai thác kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, sử dụng sức lao động
giá rẻ, xuất khẩu nông sản thô với giá trị gia tăng thấp, chuyển sang mô hình
tăng trưởng dựavào đầu tư theo chiều sâu, áp dụng công nghệ mới, làm gia tăng
giá trị nông sản, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao năng suất và
chất lượng nông phẩm, sản xuất thân thiện với môi trường…
Vì vậy, trước khi bàn
đến giải pháp cụ thể, cần có sự đồng thuận, nhất quán về những khái niệm và quan
điểm khoa học cơ bản để xây dựng lại nông nghiệp.
1.
Xây dựng lại (Reengineering, Perestroika) và cấu trúc (hay cơ cấu)lại
(Restructuring)?
1.1.
Cấu trúc(hay cơ cấu) lại chỉ là sự sắp xếp lại một cách hợp lý hơn những
yếu tố cấu thành vốn có, đang tồn tại của một chỉnh thể (ở đây là nền nông
nghiệp) theomột kiểu nào đó để đạt được những mục tiêu cao hơn hiện tại. Vì
thế, nó không làm thay đổi về chất của thực thể nền nông nghiệp đang hiện hữu. Cho
nên, nền nông nghiệp nước ta hiện nay đã gần như hết “dư địa” để tăng trưởng và
phát triển, càng không còn “dư địa” để phát triển bền vững và toàn diện, khắc
phục triệt để và căn bản những yếu kém của nó trong thời gian qua.
1.2.
Xây dựng lại là tạo ra những yếu tố mới và kết hợp chúng lại với nhau
theo một kiểu cấu trúc nào đó trong một chỉnh thể mới, được vận hành theo một
cơ chế quản lý phù hợp với cấu trúc của nó, để tạo ra những thuộc tính khác hẳn
về chất, vốn không tìm thấy ở chỉnh thể cũ, cũng như trong mỗi yếu tố cấu thành
nên chỉnh thể mới. Chất lượng của chỉnh thể mới sau khi được xây dựng lại, được
thể hiện bằng những tiêu chí phản ánh mục tiêu của nó. Đó chính là tiêu chí
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân cả về vật chất và văn hóa, bảo đảm công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn.
2.
Những khái niệm và quan điểm khoa học cơ bản với tư cách là cơ sở của việc
hoạch định các giải phápxây dựnglại nền nông nghiệp.
2.1.
Việc xây dựng lại nền nông nghiệp phải được coi là một bộ phận căn bản của sự
nghiệp phát triển nông thôn, hay là xây dựng nông thôn mới, theo cách thường
gọi. Phát triển nông thôn mới lại là nội dung cơ bản của cả quá trình phát
triển kinh tế – xã hội Việt Nam một cách toàn diện và bền vững, hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng. Như vậy, xây dựng lại nền nông nghiệp cũng như phát
triển nông thôn mới là một quá trình dài, cần đầu tư lớn về “chất xám” và tiền
vốn, không thể nóng vội, chạy theo thành tích để đạt các danh hiệu thi đua, như
chúng ta đã thấy trong thời gian qua.
2.2.
Thực chất của việc xây dựng nông thôn mới là một quá trình phát triển bền vững
và toàn diện cả kinh tế, xã hội và môi trường, để nâng cao chất lượng đời sống
của người dân. Do vậy, nội dung phát triển nông thôn mới bao gồm 4 quá trình:
–
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn để tăng năng
suất và chất lượng sản phẩm, vừa giảm bớt sức lao động trong nông nghiệp, vừa
gia tăng khả năng thu hút, sử dụng sức lao động dôi dư từ nông nghiệp để phát
triển kinh tế – xã hội nông thôn.
–
Đô thị hóa nông thôn, tạo ra những đô thị nhỏ văn minh, bố trí rộng khắp ở các
vùng nông nghiệp sinh thái, vừa để tạo ra các cơ sở kinh tế, phục vụ cho việc
phát triển nông nghiệp, thu hút sử dụng sức lao động nông nghiệp dôi dư nhờ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất, vừa du nhập lối sống văn minh đô thị
vào nông thôn. Nhờ đó, người ta có thể hạn chế tối đa quá trình tự phát tạo ra
các siêu đô thị cực lớn với đầy rẫy những vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường,
khó khắc phục, như hiện nay.
–
Kiểm soát dân số cả về số lượng lẫn chất lượng, cũng như quá trình di dân phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của cả nước và mỗi vùng.
–
Bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn trong sản xuất và đời sống.
2.3.
Xây dựng lại ngành nông nghiệp.
2.3.1. Chiến lược và qui
hoạch phát triển:
–
Phải xây dựng lại chiến lược sản phẩm trên phạm vi quốc gia, từng vùng, tiểu
vùng nông nghiệp sinh thái,căn cứ vào dự báo thị trường trong và ngoài nước,
dựa vào lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của quốc gia và của mỗi vùng,
không theo đơn vị hành chính tỉnh (thành phố), huyện, xã.
–
Trên cơ sở đó, xây dựng lại quyhoạch và kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, từ
thủy lợi, giao thông, bến cảng, kho bãi, các cơ sở logistic (hậu cần)… trên
phạm vi cả nước và mỗi vùng, tiểu vùng nông nghiệp sinh thái, để phục vụ việc
thực hiện chiến lược sản phẩm nói trên.
–
Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển các khu đô thị nhỏ ở các vùng và tiểu
vùng nông nghiệp sinh thái để tạo ra các cơ sở dịch vụ đầu vào – đầu ra cho sản
xuất nông nghiệp.
–
Thiết lập chiến lược phát triển khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
để thực hiện chiến lược phát triển sản phẩm và xây dựng kết cấu hạ tầng, đô thị
nông thôn theo quy hoạch.
2.3.2. Xây
dựng nền nông nghiệp thể chế
– Áp dụng phổ biến mô
hình quản lý theo chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, từ trang trại đến bàn ăn
hay xuất khẩu đến mạn tàu, tổ chức lại nền sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng
(Contract farming) ở mỗi vùng và tiểu vùng nông nghiệp sinh thái. Trong đó,
doanh nghiệp cung ứng đầu vào – đầu ra cho sản xuất nông nghiệp và các trang
trại sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn cùng với các hợp tác xã đích thực
của họ là những chủ thể quan trọng nhất trong chuỗi giá trị ngành hàng và mối
liên kết sản xuất nông sản. Doanh nghiệp phải là “nhạc trưởng”trong việc tổ chức
lại sản xuất theo hợp đồng, quản lý chuỗi giá trị ngành hàng và cùng với các
trang trại và các hợp tác xã của họ thiết lập cơ chế phân chia trách nhiệm và
lợi ích hợp lý giữa các chủ thể tham gia chuỗi giá trị ngành hàng. Đó chính là
cơ sở kinh tế tạo ra tính bền vững của mối liên kết này.
-Trang trại là một tổ
chức kinh doanh nông sản tự chủ, thực hiện các khâu sản xuất mang tính sinh
học,trong nền kinh tế thị trường. Do đó, luật pháp phải thừa nhận trang trại
cũng tồn tại theo các hình thức tổ chức kinh doanh theo luật doanh nghiệp. Nhưng
do sản xuất nông nghiệp mang tính sinh học, loại hình trang trại tồn tại phổ
biến, là lực lượng sản xuất nông sản hàng hóa chủ yếu, ngay cả ở những nước
phát triển nhất, là trang trại gia đình (kinh tế nông hộ – farmhouse) và trang
trại cá nhân không có cấp quản lý trung gian (doanh nghiệp cá nhân trong nông
nghiệp, luật Việt Nam gọi nhầm là doanh nghiệp tư nhân). Quy mô kinh doanh của
chúng ngày càng mở rộng nhờ cơ giới hóa, hiện đại hóa, tin học hóa, chứ không
phải nhờ gia tăng sức lao động trong mỗi trang trại đến mức phải thiết lập cấp
quản lý trung gian như các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
– Hợp tác xã đích thực
theo luật hợp tác xã 2012 chỉ được hình thành và phát triển bền vững, đạt hiệu
quả cao, khi các thành viên chủ yếu của nó là các chủ trang trại sản xuất hàng
hóa quy mô lớn, theo GAP. Trong chuỗi giá trị ngành hàng, hợp tác xã vừa là chủ
thể tham gia hợp tác với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đầu vào – đầu ra cho
nông nghiệp, vừa là đối trọng cạnh tranh của các doanh nghiệp ấy. Trong giai
đoạn phát triển cao, nhiều hợp tác xã sẽ trở thành “nhạc trưởng” của chuỗi giá
trị ngành hàng, cạnh tranh với các doanh nghiệp này.
– Các doanh nghiệp nông,
lâm,ngưnghiệp nhà nước, đang được gọi với các tên khác nhau, cần được đổi mới
theo hướng sau:
+ Cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước này thành các công ty cổ phần, chuyên thực hiện dịch vụ đầu
vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp của các hộ công nhân nhận khoán và các
trang trại khác trên địa bàn, thực hiện ngay việc quản lý theo chuỗi giá trị
ngành hàng, áp dụng công nghệ cao, thực hiện GAPtrên diện tích đất nông nghiệp
và chuồng trại, ao nuôi của mình. Tuyệt đối không chia nhỏ diện tíchđất nông
nghiệp, ao nuôi của các doanh nghiệp này để biến công nhân nông nghiệp thành
nông dân sản xuất quy mô nhỏ.
+ Các hộ công nhân nhận
khoán của các doanh nghiệp này trở thành chủ thểcủa các trang trại dự phần
(affiliated farm) hay công ty dự phần (affiliated company) trong nông
nghiệp,chuyên thực hiện các khâu nông nghiệp mang tính sinh học,theo GAP,dưới
sự chỉ đạo của doanh nghiệp, đồng thời có thể là cổ đông của công ty cổ phần
nói trên.
Như vậy,về mặt pháp lý,
doanh nghiệp là một pháp nhân kinh doanh trong nền kinh tế thị trườngthực hiện
quản lý toàn bộ chuỗi giá trị ngành hàng diễn ra trên diện tích đất nông
nghiệp, ao nuôi, được nhà nước giao quyền sử dụng. Nhưng trên từng thửa ruộng,
vườn cây, chuồng trại, ao nuôi được giao khoán cho hộ công nhân, doanh nghiệp
có vai trò cung ứng dịch vụ đầu vào – đầu ra, buộc họ thực hiện sản xuất theo
GAP; còn hộ công nhân nhận khoán có toàn quyền chủ động, kể cả đầu tư thêm vật
tư và lao động ngoài mức nhận khoán để thực hiện các khâu sản xuất mang tính
sinh học trong khuôn khổ hợp đồng liên kết với doanh nghiệp.
Do đó, họ trở
thành chủ thể dự phần trong các khâu sản xuất này của chuỗi giá trị ngành
hàng.Quan hệ giữa các hộ nhận khoán – chủ trang trại dự phầnvới doanh nghiệp là
quan hệ thị trường, bình đẳng trong giao dịch mua bán dịch vụ đầu vào – đầu
ra.Nói cách khác, hình thức khoán hộ này, về bản chất là tái lập trang trại gia
đình trong lòng các doanh nghiệp nông nghiệp có qui mô lớn.Mô hình này đã được
thực tiễn chứng minh hiệu quả cao qua các điển hình nông trường Sông Hậu trước
đây và công ty Giống bò sữa Mộc Châu hiện nay.
– Nhà nước phải xóa bỏ
các tổ chức kinh doanh không theo luật doanh nghiệp hiện hành.
+ Tổng công ty và các
công ty thành viên của nó hiện đều được coi là doanh nghiệp, nên đã tạo ra cơ
cấu doanh nghiệp cấp trên, doanh nghiệp cấp dưới theo kiểu hành chính, làm
triệt tiêu tính tự chủ kinh doanh vốn có khách quan của doanh nghiệp. Ví dụ như
Tổng công ty Lương thực Miền Nam (Vinafood 2), bao gồm hàng chục công ty thành
viên, trong đótổng công ty hay công ty thành viên, tổ chức nào có đầy đủ quyền
tự chủ kinh doanh mới được luật pháp thừa nhân là doanh nghiệp. Mặt khác, cần
xóa bỏ các hình thức tổ chức có những tên gọi bất bình thường như “công ty cổ phầnhay
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – tổng công ty X” (ví dụ: Công ty cổ
phần – Tổng công ty xây dựngThủy lợi 4).
+ Tập đoànlà một thực
thể kinh tế không có tư cách pháp nhân, nhưng hiện nay lại tồn tại với tư các
là cấp trên của các doanh nghiệp thành viên. Do đó, cần xóa bỏ các tổ chức có
tên gọi bất bình thường,như công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên – tập đoàn Y (ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành
viên – Tập đoàn công nghiệpCao su Việt Nam).
+ Công ty mẹ – công ty
con là một cơ cấu được hình thành theo quan hệ sở hữu vốn, không theo cơ cấu
hành chính cấp trên – cấp dưới. Công ty mẹphải là công ty tài chính hay ngân
hàng thương mại, đầu tư vốn của mình để tạo ra các doanh nghiệp con với các
hình thức khác nhau,theo luật doanh nghiệp. Nếu ngược lại như tình trạng hiện
nay, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa vật phẩm và hàng hóa dịch vụ lại lập ra
các công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là công ty con, để
huy động vốn nhàn rỗi trong nềnkinh tế, rồi cho công ty mẹ vay lại. Điều đó đã
tạo ra khả năng tài chính để các doanh nghiệpnày (công ty mẹ) đầu tư ngoài
ngành, không thuộc lợi thế của mình, nên đã gây ra khối nợ xấu khổng lồ và bong
bóng bất động sản cực lớn trong nên kinh tế quốc dân.
+ Xóa bỏ các loại hiệp
hội doanh nghiệp đang tồn tại như là cánh tay nối dài của các cơ quan quản lý
nhà nước, ví dụ như hiệp hội lương thực Việt Nam VFA.
– Chính sách ưu đãi
khuyến khích phát triển của nhà nước chỉ theo ngành hàng và vùng sinh thái,
tuyệt đối không theo chủ thể kinh doanh. Các tổ chức kinh doanh dù là doanh
nghiệp nhà nước hay tư nhân, hợp tác xã và trang trại, đều được bình đẳng trong
kinh doanh, cùng hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước, nếu kinh doanh cùng
ngành hàng trong cùng một vùng nông nghiệp sinh thái. Phải kiên quyết xóa bỏ sự
độc quyền kinh doanh và các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nướchiện
nay.
– Để tạo khung pháp lý
bảo đảm việc cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp theo
chiến lược và quy hoạch của nhà nước, cần có những chính sách như sau:
+ Xây dựng khung pháp lý
để thị trường mua bán quyền sử dụng đất diễn ra lành mạnh, tạo ra những trang
trại sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, theo GAP, áp dụng công nghệ cao, cơ
giới hóa và hiện đại hóa sản xuất, làm giảm sức lao động trong nông nghiệp, chứ
không phải chỉ làm giảm số công đầu tư cho sản xuất, tính trên một đơn vị đất
nông nghiệp hay đầu gia súc, gia cầm, tạo ra nông sản có năng suất, chất lượng
cao, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
+ Nhà nước cần đầu tư
đào tạo miễn phí để tạo ra một đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có kiến thức và
kỹ năng phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp.
+ Nhà nước cần có chính
sách ưu đãi về tài chính (đầu tư, tín dụng, thuế…) đối với các doanh nghiệp,
các trang trại và hợp tác xã, tham gia chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, thực
hiện sản xuất nông nghiệp theo GAP ở các vùng nông nghiệp sinh thái, theo chiến
lược và quy hoạch phát triển của nhà nước.
+ Nhà nước cần gia tăng
đầu tư cho khoa học công nghệ để có nền nông nghiệp công nghệ cao,chứ không
phải chỉ tạo ra nhữngkhu nông nghiệpcông nghệ cao như hiện nay, gia tăng hàm
lượng chất xám trong giá trị sản phẩm của chuỗi giá trị ngành hàng nông sản.
Các khái niệm và quan
điểm khoa học cơ bản nêu trên phải là cơ sở đề ra các giải pháp xây dựng lạinền
nông nghiệp ngay trong năm 2014 và trong suốtquá trình phát triển của nó,thì
mới có thể đạt được hiệu quả mong muốn về kinh tế, xã hội cũng như môi trường
sinh thái tự nhiên và nhân văn.
V.T.K.
Tác giả gửi trực tiếp
cho BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.