Nợ
xấu VN cao hơn số liệu NHNN 'ba lần'
Cập nhật: 12:53 GMT - thứ tư, 19 tháng 2, 2014
Theo báo cáo mới nhất
của hãng đánh giá tín dụng Moody’s, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
ước tính ở mức thấp nhất là 15% tổng tài sản. Con số này cao hơn gấp ba lần số
liệu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) công bố vào cuối năm ngoái là 4.7%.
Trao đổi với BBC từ cuối năm ngoái, Moody’s đã tỏ ý không tin
tưởng số liệu của Ngân hàng Nhà nước, nhưng phải đến bây giờ họ mới có số liệu
ước tính cụ thể.
“Vốn hiện hữu không đủ để bù các khoản lỗ có thể phát sinh từ
những yếu huyệt tràn lan trong chất lượng tài sản,” Gene Fang, Phó chủ tịch của
Moody’s và là chuyên viên nghiên cứu cao cấp cho biết.
“Thêm vào đó, trong vòng 12-18 tháng tới, sẽ không có nhiều cải
thiện đáng kể trong việc huy động để bổ sung vốn.”
Ông Fang cho rằng nhu cầu vay nợ thấp từ khách hàng đã làm giảm
mạnh tỷ suất sinh lời của các ngân hàng, khiến cho việc giải quyết những vấn đề
tồn đọng càng khó khăn hơn.
Nếu ước tính của Moody’s là chính xác, con số nợ xấu của hệ thống
ngân hàng Việt Nam gần bằng với quốc gia đang chìm trong khủng hoảng của Châu
Âu là Hy Lạp (17%), và cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Thái
Lan (2.7%), Indonesia (2.1%), hay Trung Quốc (0.9%), theo số liệu của World
Bank.
Nhiều tổ chức tài chính quốc tế khác cũng có chung nhận định với
ước tính của Moody’s. Rabobank, tập đoàn tài chính-ngân hàng của Hà Lan, cho
rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam rơi vào khoảng 8-16%.
‘Vấn đề từ gốc’
"Không thể nào lại có ngân hàng trung ương mà để xảy
ra hoạt động trong hệ thống ngân hàng thương mại mà chúng ta thấy như thế trong
cả 10 năm nay được"
Bùi Kiến Thành, Chuyên gia tài chính
Moody’s tiếp tục đưa ra những cảnh báo về tính thiếu minh bạch
trong hệ thống ngân hàng, trong khi đánh giá các chính sách đề ra là chưa hiệu
quả.
Những quyết định gần đây, ví dụ như thành lập công ty xử lý nợ
xấu VAMC, không trực tiếp giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hệ thống ngân hàng,
Moody’s cho biết.
Trong một cuộc phỏng vấn với BBC mới đây, chuyên gia tài chính
tế Bùi Kiến Thành cho rằng Ngân hàng Nhà nước đã ‘không nghiêm túc’ và ‘thiếu
trách nhiệm’ trong việc giải quyết các bất cập của hệ thống.
Bình luận sau phán quyết của tòa về qui trách nhiệm cá nhân thay
vì trách nhiệm ngân hàng với lập luận là ngân hàng “không biết” [hoạt động lừa
đảo], ông Thành nói "quản lý ngân hàng ở Việt Nam nó có vấn đề từ gốc của
nó chứ không phải là một trường hợp riêng lẻ."
“Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang hoạt động ngoài vòng
pháp luật, không tôn trọng điều khoản của luật về vấn đề lãi trần cho vay, vân
vân.
"Mọi chuyện rất đáng trách, NHNN ở đâu mà không xử lý các
việc vi phạm của cả hệ thống ngân hàng như thế? Đưa đến nợ xấu tràn lan, chiếm
tới 15%-17% tổng dư nợ là như thế nào? Đồng thời tạo điều kiện để giết chết
hàng vạn, hàng chục vạn doanh nghiệp với lãi suất độc hại hai mươi mấy phần
trăm là như thế nào?
"Tức là anh có biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của một
ngân hàng trung ương hay không? Hay là anh không biết? Không thể nào lại có
ngân hàng trung ương mà để xảy ra hoạt động trong hệ thống ngân hàng thương mại
mà chúng ta thấy như thế trong cả 10 năm nay được.
"Do vậy quản lý ngân hàng ở Việt Nam nó có vấn đề từ gốc
của nó chứ không phải là một trường hợp riêng lẻ", ông Thành nói thêm.
Trong báo cáo kể trên, Moody’s đánh giá cao sự ổn định kinh tế
vĩ mô của Việt Nam và cho rằng các biện pháp của chính phủ sẽ có tác động tích
cực trong khoảng hai đến ba năm tới. Tuy vậy, triển vọng của hãng này về hệ
thống ngân hàng vẫn ở mức tiêu cực.
Khi Trung Quốc hạ cánh
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân
Nghĩa, RFA
2014-02-19
2014-02-19
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Đường phố Bắc Kinh, tháng Giêng năm 2014
AFP
Những
dấu hiệu khó khăn của nền kinh tế Trung Quốc ngày càng rõ rệt hơn. Nhưng khi
nền kinh tế đứng hạng thứ nhì thế giới mà bị suy trầm, hoặc thậm chí hạ cánh
nặng nề thì kinh tế thế giới sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Diễn đàn Kinh tế nêu câu
hỏi với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về kịch bản này.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ đã lâu trên diễn đàn
này, ông nói đến nhiều dự báo không lạc quan về tình hình kinh tế Trung Quốc và
nhắc tới những thử thách hay cơ hội cho các nền kinh tế khác. Vừa qua, tập đoàn
ngân hàng Société Générale của Pháp lại có một báo cáo công bố tuần trước về
kịch bản hạ cánh nặng nề của Trung Quốc với hậu quả bất lợi cho kinh tế toàn
cầu, thí dụ như nếu đà tăng trưởng kinh tế xứ này từ hơn 10% mà giảm tới mức 2%
thì tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới sẽ mất 1,5 điểm bách phân. Vì sao
lại như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ điều đầu tiên mà chúng ta cần mường tượng ra về
Trung Quốc thì phải thấy được nhiều mâu thuẫn quan trọng. Trước hết, đấy là một
quốc gia lớn mà lại rất nghèo. Thứ hai, sau hơn ba chục năm tăng trưởng khá
ngoạn mục, xứ này đang phải đổi hướng vì những bất toàn trong mô hình phát
triển của họ. Thứ ba, vì hệ thống chính trị bên trong, xứ này khó chuyển hướng
êm thấm mà có thể sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí rủi ro khủng hoảng và trong
giả thuyết ấy, thế giới sẽ lại bị hiệu ứng, cũng đáng ngại như vụ khủng hoảng
tại Mỹ năm 2008 hay của khối Euro năm 2010. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về
những mâu thuẫn này.
Vũ Hoàng: Vâng thưa ông, đầu tiên thì tại sao Trung Quốc có nền kinh
tế đứng hạng nhì thế giới về sản lượng mà lại là một nước cực nghèo?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc là một nước lớn, có lãnh thổ bằng diện tích của Hoa
Kỳ mà là một lãnh thổ thiếu hai phương tiện sinh sống căn bản cho con người là
đất và nước. Diện tích khả canh của họ chỉ bằng một phần ba của trung bình toàn
cầu. Nếu tính theo đầu người của xứ này thì lượng nước ngọt, từ sông hồ đến
giếng sâu và nước mưa thì thuộc loại thấp nhất Á Châu, và Á Châu thiếu nước
nhất trong các lục địa của thế giới. về địa dư hình thể thì lãnh thổ xứ này là
một bao lơn hiểm trở khắc nghiệt vây quanh và nhìn xuống vùng đất tương đối phì
nhiêu hơn ở vùng duyên hải. Xưa nay, biển người từ bao lơn ba phía đổ xuống
vùng Trung Nguyên đã làm nên lịch sử hợp tan của Trung Quốc.
Một nông dân Trung Quốc tận dụng những mảnh đất để trồng rau, phía
sau là dự án nhà cao từng ở An Huy, Trung quốc. AFP
Với thực tế ấy, lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc có hơn 30
năm tăng trưởng từ 1979 đến 2009, trung bình là tăng 10% một năm. Từ một xứ có
một tỷ 350 triệu người, đà gia tăng ấy quả là đáng kể khiến cho xứ này có sản
lượng kinh tế thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ và trước Nhật Bản kể từ năm 2010.
Nhưng sự thật thì Trung Quốc vẫn là một nước cực nghèo. Theo thống kê của Bắc
Kinh thì chỉ có 60 triệu dân kiếm ra hơn hai vạn đô la một năm; 60 triệu người
thì đông thật, mà vẫn chỉ là thiểu số hơn 4% giữa một tỷ 350 triệu. Trong khi
ấy, có khoảng 600 triệu người không kiếm ra hai đồng một ngày để sống và có 400
triệu người giàu gấp đôi vì kiếm được từ hai đến bốn đô la một ngày. Vị chi, có
một tỷ người Tầu chưa đạt mức lợi tức là bốn đô la một ngày! Thế giới chỉ nói
đến một số đại gia tỷ phú ở chung quanh đảng mà quên cả tỷ người bần cùng ấy
của Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Mâu thuẫn thứ hai mà ông nhắc tới là những bất toàn trong mô
hình phát triển của Trung Quốc. Thưa ông, đấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc đã có 30 năm tăng trưởng ngoạn mục, chủ yếu là
nhờ sức đầu tư rất cao, có lúc lên tới phân nửa của Tổng sản lượng, còn thì
thường xuyên cao hơn 40%. Với sức đẩy lớn lao này thì quả nhiên là người ta đạt
tốc độ hơn 10%. Nhưng nếu mà xét về phẩm chất hay nội dung thật của tài nguyên
được đưa vào sản xuất thì phải nói đến hiện tượng gọi là "sản nhập"
vì nhập lượng ở đầu vào lại có giá trị cao hơn xuất lượng ở đầu ra. Lý do của
sự thể ngược ngạo ấy là người ta đếm sản lượng ở đầu ra theo trị giá hay giá cả
mà cái giá ấy không phản ảnh giá trị hay những hy sinh ở đầu vào. Đây là một
khái niệm khá rắc rối về kế toán mà những người làm công tác tuyên truyền hay
quảng cáo thường bỏ qua một bên.
Vũ Hoàng: Cũng vì khái niệm kế toán rắc rối ấy, xin ông nhắc lại hoặc đơn
cử một thí dụ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin trước tiên nhắc lại vài phạm trù kế toán với Anh
ngữ để thành phần thính giả trẻ đã có kiến thức về kế toán tài chính nắm vững
được vấn đề. Sau đó là thí dụ.
Thế giới bên ngoài Trung Quốc chỉ đếm phương tiện đưa vào sản
xuất theo mệnh giá hay face value. Người ta đã lầm trị giá (price)
với giá trị (value) của nhập lượng (input) rồi kiểm kê xuất lượng (output)
để gọi đó là sản lượng (production) mà không khấu trừ nhiều phí tổn (cost)
của nhập lượng này. Trong đó có những phí tổn ngầm mà ta phải gọi là "ẩn
phí", shadow
cost, như phí tổn về môi sinh bị hủy hoại, hoặc phí tổn về thời cơ của
tư bản làopportunity cost vì dùng tiền vào chỗ này thì không có cơ
hội dùng vào chỗ khác có giá trị hơn.
Một cửa hàng bán máy điều hòa không khí ở Thượng Hải, Trung Quốc.
AFP
Thí dụ dễ hiểu ở đây là nhà nước huy động sức tiết kiệm rất cao
của dân chúng và trả tiền lời ký thác rất thấp, gần như số âm nếu kể thêm mức lạm
phát. Đấy là một hình thái trưng thu hay bóc lột từ gốc. Nguồn tiết kiệm rẻ này
lại được hệ thống ngân hàng của nhà nước đưa vào khu vực là doanh nghiệp của
nhà nước hay công ty đầu tư của nhà nước ở cấp địa phương, để thực hiện các dự
án sau này được kể là sản lượng kinh tế. Một cây cầu hay một nhà máy thép hình
thành như vậy và được tính là sản lượng dù có giá trị kinh tế rất thấp. Cầu có
hư phải sửa lại và thép có ế mà nằm chất đống thì vẫn cứ được coi là sản xuất.
Chả ai tính ra cái mất mát của hiện tượng này.
Vũ Hoàng: Bây giờ bước qua mâu thuẫn thứ ba là vì sao Trung Quốc khó
chuyển hướng một cách êm thắm mà lại bị rủi ro hạ cánh nặng nề?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ cả chục năm nay, lãnh đạo của Trung Quốc đã thấy vấn đề này,
cụ thể nhất là thấy mức đầu tư quá cao so với sức tiêu thụ quá thấp của nền
kinh tế, vì vậy, họ đã muốn cải sửa.
Thí dụ như trong Kế hoạch Năm năm thứ 11,
từ 2006 đến 2011, lãnh đạo đảng đã đề ra yêu cầu nâng cao sức tiêu thụ nội địa,
vậy là kết quả lại trái ngược. Năm 2000 thì sức tiêu thụ của tư nhân Trung Quốc
ở mức 46% Tổng sản lượng, dù có thấp so với các nước cùng trình độ phát triển
thì cũng chưa đến nỗi nào. Nhưng kết quả thì năm 2012, sức tiêu thụ ấy lại sụt
tới mức 36% của Tổng sản lượng. sau Đại hội 18 vào cuối năm 2012, việc chuyển
hướng lại được Hội nghị kỳ ba nêu ra vào cuối năm ngoái mà chưa biết là có thực
hiện được hay chăng?
Vũ Hoàng: Thưa ông, đâu là những lý do cản trở việc cải cách này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một thí dụ khác liên hệ đến chuyện tiêu thụ
lẫn hậu quả cho quốc tế là tỷ giá đồng Nguyên mà họ gọi là Nhân dân tệ
Renminbi.
Trung Quốc đầu tư mạnh, sản xuất nhiều và phải xuất khẩu sản
phẩm đó cho thế giới. Chế độ duy trì hệ thống ngoại hối có kiểm soát, là ghìm
giá đồng bạc thật thấp nếu so với các ngoại tệ mạnh của thế giới như Mỹ kim hay
Euro chẳng hạn. Họ muốn là nhờ tỷ giá thấp mà hàng rẻ và dễ bán hơn. Khi bán
hàng rồi thì nhà nước thu về ngoại tệ, thí dụ như đồng đô la, và lập được một
kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, nay lên tới con số tương đương là ba
ngàn 800 tỷ đô la.
Bối cảnh ấy che giấu sự thật là đồng Nguyên được định giá
thấp hơn thực tế, hãy tạm lấy một mức thấp là bằng 10%. Nếu muốn chuyển hướng
thì một trong các biện pháp họ nên áp dụng chính là nâng hối suất đồng bạc thêm
10% so với Mỹ kim chẳng hạn. Hậu quả sẽ ra sao?
Công nhân Trung Quốc trong một công xưởng sản xuất máy lạnh.
Hậu quả là công nhân và doanh nghiệp mà góp phần xuất khẩu được
một đô la thì sẽ có lợi tức gia tăng được 10% và nhờ đó nâng cao được sức tiêu
thụ. Đấy là cái "được" của thành phần sản xuất và sẽ tiếp tay điều
chỉnh cơ chế kinh tế lệch lạc hiện nay. Nhưng cái "mất" của biện pháp
này là nhà nước bị mất 10% nguồn thu từ ngoại tệ đem về. Thí dụ cho dễ nhớ là
mất 10% của khối dự trữ ngoại tệ 3.800 tỷ đô la, tức là mất 380 tỷ đô la. Sự
thật thì khi duy trì tỷ giá thấp, Trung Quốc đã mất hàng ngày vì những chênh lệch
về xuất nhập khẩu mà chưa bút ghi khoản mất đó. Bây giờ, với biện pháp điều
chính tỷ giá thì người dân được 10%, nhà nước hợp thức hoá khoản mất đó. Dù thế
giới đã khuyến cáo, lãnh đạo Bắc Kinh vẫn không muốn như vậy nên người dân
không được khoản 10% này và việc điều chỉnh vẫn chưa tiến hành. Lý do ở đây là
nhà nước sợ mất tiền bạc và thế lực của mình, dù rằng cái mất đó lại là cái
được của người dân.
Vũ Hoàng: Đây mới chỉ là một thí dụ cụ thể về lý do cản trở việc
chuyển hướng, hẳn là ông còn thấy nhiều lý do khác nữa chứ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Một thí dụ khác là Hội nghị Trung ương kỳ ba vào Tháng 11
năm ngoái có để ra việc chuyển 20% dân số từ thôn quê ra các tỉnh thành trong
kế hoạch đô thị hóa. Sự chuyển dịch ấy có nghĩa là lương bổng và phúc lợi của
người dân từ quê ra tỉnh sẽ được cải tiến và lợi tức gia tăng sẽ nâng mức tiêu
thụ của tư nhân trong thị trường nội địa. Nhưng chính quyền tại các thành phố ở
địa phương lại không muốn gánh chịu khoản tốn kém ấy mà còn lo gia tăng nguồn
thu về thuế khóa nên dồn phương tiện cho các dự án đầu cơ địa ốc. Họ vừa lấy
đất của dân vừa lập công ty đầu tư tài chính để vay tiền làm ăn. Khi bị hạn chế
và kiểm soát thì họ vay ngoại ngạch, ngoài ngân hàng, trong hệ thống tài chính
chui có mức rủi ro rất cao.
Vũ Hoàng: Như vậy, vì rất nhiều nguyên do phức tạp trong nội bộ, Trung
Quốc sẽ khó chuyển hướng và nguy cơ hạ cánh nặng nề mới khiến thế giới quan
tâm. Khi đó, ta mới tìm hiểu về hiệu ứng Trung Quốc khi nền kinh tế này bị suy
thoái trong những năm tới.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc là một thị trường nhập khẩu lớn của thế giới,
trị giá đến 30% của Tổng sản lượng với rất nhiều nguyên nhiên vật liệu nuôi
sống các nước xuất khẩu. Khi kinh tế xứ này bị trì trệ, với tốc độ tăng trưởng
dưới 7%, hoặc suy trầm hay suy thoái mạnh, thì lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm
mạnh và gây thiệt hại cho các nước bán thương phẩm, từ Úc đến Indonesia hay
Malaysia và các nước Trung Đông bán dầu khí. Đấy là một lẽ. Nhưng giá thương
phẩm sút giảm lại là điều có lợi cho xứ khác vì sẽ giảm phí tổn sản xuất.
Song song, có một khía cạnh còn đáng ngại hơn vậy là Trung Quốc
đang có một núi nợ rất lớn và dễ sụp đổ sau khi đã ào ạt bơm tín dụng để kích
thích kinh tế. Núi nợ lên tới mười mấy ngàn tỷ dô la, trong đó có nhiều khoản
khó đòi và sẽ mất khi sản xuất bị đình trệ. Nếu mà núi nợ này sụp đổ thì nhiều
ngân hàng vỡ nợ dây chuyền và hậu quả toàn cầu sẽ còn kinh hoàng hơn những gì
đã thấy sau vụ khủng hoảng tại Hoa Kỳ năm 2008 hay tại Âu Châu năm 2010. Người
ta nói rằng đây là "đợt sóng thần thứ ba" có thể xảy ra trong những
năm tới. Qua một kỳ khác, ta sẽ tìm hiểu thêm về đợt sóng này.
Vũ
Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và hẹn lại một kỳ
sau.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.