Xung
đột về đất đai và sở hữu toàn dân
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-05-05
2014-05-05
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của
Bạn
- Email
Căn nhà của gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng bị đập phá trong ngày chính quyền tiến hành lệnh cưỡng chế 10/2/2012. Ông Đoàn Văn Vươn hiện đang bị tù.
AFP photo
Cuối tháng tư, gần đến ngày mà lý thuyết cộng sản trên thực tế phủ lên trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, thì tại một làng quê không
xa thủ đô Hà Nội, gần 1000 người của lực lượng công quyền dẹp tan sự kháng cự cuối cùng của vài gia đình
nông dân, và thế là hoàn tất việc trưng thu đất đai mà nhà nước cho là để phục vụ các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Làng quê đó tên là Dương Nội, cũng như nhiều làng quê khác từ bắc chí Nam, trong những năm qua đã chứng kiến những xung đột giữa nông dân và chính quyền trong chuyện đất đai. Xung đột đó đôi khi dẫn đến đổ máu như ở Tiên lãng Hải phòng cách đây
vài năm, hay vụ Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình hồi năm ngoái.
Danh sách các làng quê đó ngày càng dài, hai làng mới nhất mà người ta ghi nhận sự hiện diện của bạo lực, là Bắc Sơn tại tỉnh Hà Tĩnh, và Sơn Hải tại tỉnh Ninh Thuận. Tại Bắc Sơn, dân làng chống việc lấy đất “của họ” làm nghĩa trang
cao cấp. Tại Sơn Hải, dân làng chống việc lấy đất “của họ” để khai thác khoáng
sản, tàn phá môi trường trong lành.
Điều trớ trêu là về nguyên tắc những người nông dân được hình ảnh một lưỡi liềm vàng rất đẹp đại diện cho họ trên lá cờ của đảng cộng sản. Nay những đội quân đứng dưới lá cờ này lại kéo nhau đến những làng quê ấy lấy đi những miếng đất mà người nông dân cho là “của họ.”
Nguyên nhân của sự trớ trêu đó chính là
nguyên tắc công hữu về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa cộng sản, mà trong trường hợp những người nông dân, chính là đất đai. Đất đai ấy thuộc về toàn dân chứ không phải là “của họ.”
Tuy nhiên trên thực tế người nông dân vẫn xem những miếng đất mà họ cày cấy nhiều thế hệ là “của họ” và họ sẽ để lại cho con cháu, và
đó cũng là những mảnh tài sản đất đai mà tổ tiên để lại cho họ. Một người dân ở Sơn Hải, Ninh Thuận nói về những mảnh đất “của họ” bị lấy để khai thác quặng titan:
“Nói chung đất đó là của tổ tiên ông bà, nhưng mà người ta về người ta khai thác quặng titan. Họ cứ làm cái công ty
khai thác cát đen, vô trong xã làm giấy tờ với xã vậy thôi à.”
Sở hữu toàn dân về đất đai ở Sơn Hải như vậy được ủy ban xã Sơn Hải đại diện. Và kết cục là khu nhà của công ty khai
thác quặng bị đốt cháy, vài trăm người dân xuống đường bạo động, vài người bị cầm giữ vì tội gây rối trật tự công cộng.
Đương nhiên gây rối trật tự công cộng thì phải bị trừng phạt, nhưng phải chăng là phải tìm cho được nguyên nhân nào
dẫn đến chuyện liên tục dân chúng gây rối trật tự công cộng đến nỗi bị cầm tù.
Khát khao có quyền sở hữu
Nông dân Dương Nội trong một lần lên thành phố Hà Nội khiếu kiện về đất đai. AFP photo
Một làng quê khác là Trịnh Nguyễn tại tỉnh Bắc Ninh cũng chứng kiến sự xung đột giữa cơ quan công quyền và những người nông dân giữ đất. Nỗ lực giữ đất cuối cùng đã bị dẹp tan vào tháng 10
năm 2013. Nhiều nông dân cũng bị bỏ tù. Người ở tù lâu nhất là ba tháng trao
đổi với chúng tôi về quyền sở hữu ruộng đất sau khi ông ra
tù:
“Dân mất đất rồi, hết đất rồi. Đúng ra nếu nói cái quan điểm trong vấn đề làm chủ ruộng đất, thì khi người ta làm chủ ruộng đất thì đó là cái sự sinh nhai, là quyền lợi sống. Người nông dân chỉ có ít đất để sống thôi. Thế thì cái quyền lợi đấy người dân phải được.”
Sự khát khao ấy về quyền sở hữu trên chính mảnh đất nuôi sống bao thế hệ nông dân đã một lần nữa bị phủ nhận bằng Hiến pháp 2013. Hiến pháp này không công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Người nông dân làng Trịnh Nguyễn nói tiếp với chúng tôi về cái ông cảm nhận được từ pháp luật và Hiến pháp:
“Nhân dân
làm chủ thì cái góc độ nhân dân và nhà nước nó giới hạn như thế nào. Làm chủ mà có giới hạn, người ta không có quyền gì so với thực tế. Thế cho nên tôi mới thấy là không có sự logic trong cái
Hiến pháp để mà hai bên thỏa thuận, hai bên rõ
ràng, vì thế nên mới sinh ra đụng độ.”
Khi bản Hiến pháp 2013 được ra đời, Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình nói với đài RFA về mối nguy hại khi quyền sở hữu tư nhân về đất đai không được công nhận:
“Ở nông thôn chúng tôi gọi là vấn đề dân cày cách nay
hàng mấy chục năm đã được xới lên và vẫn chưa kết thúc. Còn ở thành thị, không phải là ruộng cày nhưng miếng đất để cư trú, đồng thời cũng là tài sản lớn nhất và liên quan đến quyền sở hữu của người dân thì chính là khâu tôi nghĩ rằng là 1 bài toán
đang rất bức xúc, đòi hỏi phải có lời giải”.
Một trớ trêu nữa của lịch sử chiến tranh và cách mạng ở Việt Nam là những người nông dân đã từng ủng hộ đảng cộng sản trong quá khứ chính vì khẩu hiệu ruộng đất cho dân cày. Ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên kỳ cựu cho chúng tôi biết như thế lúc còn sinh thời.
Nữ nghệ sĩ Kim Chi, người có mặt tại thủ đô Hoa Kỳ vào
tháng tư năm nay để vận động cho nhân quyền và tự do báo chí nói với chúng tôi về quyền sở hữu đất đai cho người nông dân trong một cuộc phỏng vấn:
“Người ta phải dùng cả mạng sống của mình để đòi lại đất đai các thứ. Và tôi thấy rằng là một chế độ gì mà kỳ như vậy, người nông dân người ta phải có cái sở hữu. Chính cái hình ảnh đó ghim vào đầu tôi làm tôi đau lắm. Hay như hàng ngày tôi đi
qua con đường Thanh Niên tôi thấy dân oan đeo cái biển Trả đất cho tôi. Ai đẩy họ ra đường như vậy? ”
Và bà cũng cho rằng quyền sở hữu đó là quyền tự nhiên của mọi người.
Một quốc gia thất bại là thế nào?
Một gia đình nông dân Hmong ăn trưa trên cánh đồng. AFP photo
Tháng năm 2013, Nhà xuất bản Trẻ tại TP HCM xuất bản quyển sách mang tựa đề Tại sao các quốc gia thất bại (Why Nations Fail?) của hai tác giả là Daron Acemoglu
và James Robinson từ đại học MIT hàng đầu của Hoa kỳ. Trong
quyển sách này các tác giả cho rằng các quốc gia nghèo khó,
kém phát triển vì mô hình kinh tế xã hội của họ theo kiểu khai thác cạn kiệt, loại trừ mọi sáng kiến (Extractive). Một điểm chung của nhiều quốc theo mô hình
này là không có quyền sở hữu tư nhân, trong đó
có các quốc gia cộng sản.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một trong những người thành lập tổ chức tư vấn độc lập đầu tiên tại Việt Nam, là tác giả của một trong số các bản dịch của quyển sách này. Ông
nói rõ hơn về hai mô hình kinh tế xã hội được nêu:
“Một thể chế gọi là bao hàm, dung
nạp, coi trọng người dân, làm cái gì cũng kéo người dân vào, và phục vụ cho người dân. Nói chung
đó là thể chế của những nền dân chủ hiện đại, có một nền pháp trị nghiêm minh. Còn chế độ kia gọi là khai thác,
khai thác tất cả các tài nguyên. Ví dụ như kiểu chế độ Liên xô trước đây chẳng hạn.
Hai tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử cả trăm, thậm chí cả ngàn năm để cho thấy các quốc gia giàu có là theo chế độ dung nạp, còn chế độ khai thác thì làm
cho quốc gia nghèo khó. Nó cũng có thể phát triển trong một lúc nào đó nhưng không thể bền vững được.”
Quyền định đoạt là động lực của phát triển
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng giải thích thêm về sự quan trọng của quyền sở hữu, và tại sao quyền sở hữu lại được xem là thành phần quan trọng của các thể chế làm cho các quốc gia trở nên giàu có.
“Quan trọng của vấn đề sở hữu, mà nói toạc ra là sở hữu tư nhân về tài sản, về tư liệu sản xuất, về đất đai, về máy móc, về nhà máy. Những thể chế có tính năng ấy thì chưa chắc đã làm cho chế độ trở nên dung nạp, nhưng mà nếu không có thì chắc chắn là không.
Sở dĩ vấn đề sở hữu nó quan trọng là vì trong bất kể nền kinh tế nào, dù người kinh doanh là
cá nhân, là gia đình, hay là một công ty thì nếu cái sở hữu tư nhân của người ta được tôn trọng thì người ta được khuyến khích, được một động lực rất là lớn, làm cho tài sản sinh sôi nảy nở ra. Còn ở các chế độ không coi trọng quyền sở hữu thì nó sẽ không khuyến khích những người làm kinh tế, vì người ta không có
quyền định đoạt dù người ta làm vất vả.”
Giải thích của Tiến Sĩ Nguyễn Quang A về quyền định đoạt thực sự giống với lời nói của người nông dân làng Trịnh Nguyễn sau khi được trả tự do vì xung đột đất đai.
Tuy nhiên cho đến nay, chính phủ Việt Nam vẫn thường xuyên nêu cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước làm chủ đạo, và thế là sự can thiệp của nhà nước là rất lớn trong định chế kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhưng mặt khác, chính phủ Việt Nam thường lên tiếng với các quốc gia đối tác quan trọng như Hoa Kỳ, yêu cầu sự công nhận của họ rằng Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Điều này thể hiện rõ qua câu khẩu hiệu khó hiểu: Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một chuyên gia kinh tế từ Hà Nội là Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong dường như cố gắng giải thích câu khẩu hiệu đó khi ông cho rằng “kinh tế nhà nước gồm cả những phần tài sản liên quan tới tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tài nguyên
trên trời cũng như dưới lòng lãnh hải của Việt Nam”
Điều ông Nguyễn Như Phong phát biểu hòan toàn đúng
theo Hiến pháp 2013, nói rằng đất đai là sở hữu toàn dân.
Lịch sử quyền tư hữu ở Việt Nam và tương lai
Một nông dân ở Hà Nội. AFP photo
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng trong quá khứ người nông dân Việt Nam cũng đã từng có quyền sở hữu đất đai của mình.
“Chúng ta
xem xét luật Hồng Đức (đời nhà Hậu Lê) chẳng hạn thì có sự quy định rất chi tiết. Có đất gọi là đất công, của nhà nước hay là của Vua. Có đất thuộc cộng đồng tức là thuộc làng, thuộc dòng họ. Và có đất tư nhân. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam thời quân chủ không có sở hữu đất tư nhân thì không
đúng.”
Không hoàn toàn đồng ý với ý kiến này về lịch sử của quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam, ông Dương Trung Quốc, hiện là đại biểu quốc hội tỉnh Đồng Nai nói:
“Tôi nghĩ rằng trong chế độ phong kiến thì các cơ cấu xã hội chủ yếu nằm ở làng xã. Về mặt nguyên lý thì đất là của Vua. Người ta phải giải quyết quan hệ đất công tư trong các làng
xã. Nó không giải quyết được mối quan hệ đó cho nên nó mới thực hiện chế độ quân điền. Tức là khi sở hữu tư nhân phát triển đến mức độ nào đó tạo nên mâu thuẫn xã hội đụng đến lợi ích quốc gia nên phải có chuyện điều chỉnh lại trong các làng xã. Vì thế qui định của luật Hồng Đức cũng chỉ là nguyên tắc thôi.”
Điều ông Dương Trung Quốc đưa ra về sở hữu ruộng đất dưới chế độ phong kiến như vậy cũng giống nhận định của hai tác giả quyển sách Tại sao các dân tộc thất bại? khi hai ông dẫn chứng về các chế độ chuyên chế phương Đông. Và đó
cũng là các chế độ đi đến ngõ cụt, không phát triển được như lịch sử đã chứng minh về sự gục ngã của đế chế Trung Hoa.
Điều đáng nói là sở hữu của nhà nước hay của Vua ấy được lập lại trong Hiến pháp 2013 khi
qui định đất đai sở hữu toàn dân. Hơn nữa còn lại ghi thêm rằng nhà nước có quyền thu hồi vì những dự án phát triển kinh tế xã hội. Ông Dương Trung Quốc nói:
“Trong luật còn qui định nhà nước có quyền thu hồi đất cho lợi ích công cộng, thế nhưng lợi ích kinh tế phát triển là như thế nào thì mỗi người giải thích một cách khác nhau,
nó đụng chạm đến lợi ích của những người đang sử dụng mảnh đất ấy.”
Thực tế các vụ xung đột về đất đai chính là do
cái gọi là lợi ích kinh tế phát triển ấy. Tại làng Trịnh Nguyễn là nhà máy xử lý nước thải trong khu dân cư, tại Dương Nội là khu đô thị mới, tại Sơn Hải là lợi nhuận khai thác quặng titan,…tất cả đều được mang cái áo
khoác phát triển kinh tế xã hội.
Nếu thực sự sở hữu đất đai của người nông dân Việt Nam trong quá khứ là đúng như ông Quốc nói thì sẽ càng dễ giải thích hơn nữa sự khát khao về sở hữu tư nhân của họ hiện nay. Ông Dương Trung Quốc nói tiếp:
“Tôi cho đó
là điều dễ hiểu vì bên cạnh sự phát triển tự thân của quốc gia thì còn có sự hội nhập vào các mô hình
các giá trị của thế giới nữa.
Các quốc gia có mô hình sở hữu tư nhân về đất đai người ta vẫn tìm ra cách để giải quyết mâu thuẫn giữa sở hữu tư nhân và lợi ích công để mà phát triển.”
Trong tình hình Việt Nam hiện tại, nhà nước là sở hữu của toàn bộ đất đai, người quyết định thế nào là lợi ích kinh tế xã hội cũng là nhà nước, xử lý những xung đột đất đai lại là bộ phận tư pháp hoàn toàn không độc lập trong nhà nước ấy.
Xung đột đất đai và hình ảnh dân oan mất đất có lẽ sẽ không biết mất trong thời gian gần.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.