Kinh tế Việt
Nam: Làm sao để giảm lệ thuộc vào Trung Quốc?
Hàng trăm công nhân Trung Quốc đánh hội đồng
dân Việt Nam tại Thanh Hóa
Nguyễn Quốc Khải (Danlambao) - Là một nước nhỏ về cả dân số lẫn diện tích và ở
sát cạnh Trung Quốc, Việt Nam không thoát khỏi phụ thuộc vào nước láng giềng
khổng lồ tham lam và xảo quyệt. Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc quá nhiều về
chính trị và cả về kinh tế. Bài phân tách này trước hết sẽ trình bầy về quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc về phương diện kinh tế. Tiếp theo sẽ là phần nhận
xét lợi hại của quan hệ này. Sau cùng là một vài đề nghị để kinh tế Việt Nam
giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.
Quan hệ kinh tế giữa
Việt Nam và Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ
ngoại giao vào cuối năm 1991. Kể từ đó buôn bán giữa hai nước đã phát triển
nhanh chóng. Trị giá tổng số hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đối
với Trung Quốc tăng từ 692 triệu Mỹ kim vào năm 1995 đến 50.2 tỉ Mỹ kim vào năm
2013. Theo một dự đoán, trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước có thể lên tới
60 tỉ Mỹ kim vào 2015. (1)
Trong vài năm đầu, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa
sang Trung Quốc nhiều hơn nhập cảng từ quốc gia này ở mức độ khiêm nhường với
trung bình hàng năm vào khoảng 41 triệu Mỹ kim. Nhưng kề từ 2001 đến nay, cán
cân thương mại (trade balance) ngày càng bất lợi cho Việt Nam. Nhập siêu (trade
deficit) tăng từ 189 triệu Mỹ kim lên đến 23.7 tỉ Mỹ kim. Đấy là chưa kể số
hàng nhập lậu đáng kể qua biên giới ở những nơi như Mống Cái và Lạng Sơn.
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều nguyên
phụ liệu, thành phẩm hóa chất, và máy móc dùng cho việc sản xuất. Riêng về
ngành dệt may, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 50-60% nguyên phụ liệu từ Trung
Quốc như da làm giầy dép, vải và lụa để làm quần áo. Hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu sang Trung Quốc bao gồm khoáng sản thô như than, quặng sắt. dầu thô, nông
lâm sản, thủy sản và đồ thủ công. Khoảng 80% cao su, 40% gạo, 70% thanh long
xuất khẩu của Việt Nam bán cho Trung Quốc.
Kinh tế Việt Nam lệ
thuộc đáng kể vào Trung Quốc
Bức tranh mô tả cán cân thương mại giữa Việt Nam
và Trung Quốc trên đây cho thấy sự phụ thuộc của Việt Nam vào nước láng giềng
phương bắc quả thật là rất đáng e ngại. Nhưng phân tách sự kiện này một cách
quy mô hơn, chúng ta thấy tình trạng này chưa đến nỗi vô vọng.
Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam so với
trị giá tổng số thương vụ vào năm 2013 của Việt Nam với thế giới 264.3 tỉ Mỹ
kim, phần của Trung Quốc tuy dẫn đầu nhưng chỉ chiếm khoảng 19%, so với con số
của Hoa Kỳ là 11%, Hàn Quốc 10.3%, Nhật 9.6%, Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á
(ASEAN) 15.1%, Liên Hiệp Âu Châu (EU) 12.7%, và các nước còn lại 32.6%.
Một cách khách quan, những con số trên đây cho
thấy phần đóng góp của Trung Quốc trong lãnh vực ngoại thương tương đối đáng kể
nhưng không có tính cách ngự trị. Sở dĩ Việt Nam buôn bán nhiều với Trung Quốc
một phần vì hai nước sát vách nhau và hàng của Trung Quốc mặc dù chất lượng
thấp nhưng rẻ và hợp với túi tiền của đa số người Việt Nam.
Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tích
lũy tính đến 31-12-2012 là 210.5 tỉ Mỹ kim. Phần của Nhật đứng đầu với 28.7 tỉ
Mỹ kim (13.6%), tiếp theo là Đài Loan (12.9%), Singapore (11.8%), và Hàn Quốc
(11.8%). Trong khi đó đầu tư của Hoa Kỳ và Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khiêm
nhường lần lượt là 5% và 2.2%.
Số dự án đầu tư của Trung Quốc tính đến cuối năm
2012 là 893, chiếm 6.1% tổng số dự án đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi dự án
trị giá 5.3 triệu Mỹ kim. Trong khi đó, Hàn Quốc có 3,197 dự án ở Việt Nam,
chiếm 22% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá
7.8 triệu Mỹ kim và Đài Loan với 2,234 dự án, chiếm 15.4% của tổng số dự án đầu
tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá 12.1 triệu Mỹ kim. Tiếp theo là
Nhật với 1,849 dự án và Singapore với 1,119 dự án. Như vậy trong lãnh vực đầu
tư, vai trò của Trung Quốc khá khiêm nhường.
Tiếp theo, chúng ta phân tách tình trạng Việt
Nam nợ nước ngoài trong đó có Trung Quốc. Trước hết là số nợ trong Chương Trình
Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance gọi tắt là ODA).
Đây là một chương trình tài trợ quan trọng vì ODA có những ưu điểm là cho vay
với lãi suất thấp (dưới 2%), dài hạn (25-40 năm), và một phần trong nguồn vốn
là tiền viện trợ không phải hoàn trả.
Theo thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển
Kinh Tế (Organization for Economic Co-operation and Development viết tắt là
OECD), gồm 34 quốc gia hội viên có nền kinh tế tiên tiến nhất, trong thời gian
2000-2012 ODA đã giải ngân cho Việt Nam 31.2 tỉ Mỹ kim từ nhiều nước phát triển
trong đó có Nhật (đứng đầu với 10 tỉ Mỹ kim), Hàn Quốc, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan
mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ. Các tổ chức tài trợ đa phương như
Ngân Hàng Thế Giới qua chương trình Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế (International
Development Association - IDA) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian
Development Bank viết tắt là ADB) qua Quỹ Đặc Biệt (Special Funds) đã cho Việt
Nam vay 11.3 tỉ Mỹ kim dưới hình thức ODA cùng trong thời gian kể trên. Trong
khi đó, OECD không báo cáo món nợ ODA nào từ Trung Quốc.
Về những khoản nợ nước ngoài khác, theo báo cáo
gần đây của Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh với Quốc Hội Việt Nam, “Việt
Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó,
đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0.33% quy mô giá trị
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu
tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là
những nhà đầu tư dài hạn.” (2)
Rất tiếc rằng Ông Dũng từ chối không cho biết
những con số cụ thể về các khoản nợ Trung Quốc vì tính chất nhậy cảm của vấn đề
này.
Tham gia vào những hiệp
ước thương mại quốc tế
Một trong những cách hiệu quả nhất để giảm phụ
thuộc kinh tế vào Trung Quốc là tham gia vào những hiệp định thương mại quốc
tế. Việt Nam đã ký kết hai hiệp định thương mại quan trọng trong quá khứ là
Hiệp Định Song Phương với Hoa Kỳ vào năm 2001 và sau đó là gia nhập vào Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization viết tắt là WTO) vào năm 2007.
Việt Nam đang thương thuyết sáu hiệp ước thương mại tự do (free trade agreement
- FTA) khác là Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Partnership - TPP) với 11 quốc gia khác không có Trung Quốc, FTA với Liên Hiệp
Âu Châu, FTA với Hàn Quốc, FTA với Na Uy - Thụy Sỹ - Iceland - Liechtenstein, FTA
với Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan, và Hiệp định Đối Tác Kinh Tế
Toàn Diện giữa các nước ASEAN.
TPP, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, và FTA với Hàn
Quốc trong những hiệp định vừa kể trên là ba hiệp ước sẽ có ảnh hưởng tích cực
và mạnh mẽ nhất đến kinh tế Việt Nam và sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào
Trung Quốc.
Mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những
hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ
hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800
triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa (GDP) là khoảng 28 ngàn
tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp
vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của Việt
Nam mà không bị Trung Quốc cạnh tranh. Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm
nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc
nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm
2012.”(3)
Theo Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng
Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam, tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam có thể tăng
trên 15%, tiền lương thực tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng
12%, tiền lương thực tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá
trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35% sau khi Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam ký
kết FTA.
Hàn Quốc đầu tư rất nhiều vào lãnh vực sản xuất
điện tử tại Việt Nam với những dự án quy mô lớn như của Samsung hay LG, nhưng
các công ty này vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc. Thí dụ như Samsung
Vietnam xuất khẩu điện thoại di động thông minh Galaxy trị giá 23.3 tỉ Mỹ kim,
nhưng đã phải nhập khẩu vi mạch và linh kiện từ Samsung China trị giá 21.3 tỉ
Mỹ kim. Khi FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc được ký kết, Việt Nam sẽ không phải
nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc nữa vì các công ty Hàn Quốc sẽ đến xây dựng
nhà máy tại Việt Nam để được hưởng quy chế thuế thấp do hiệp định thương mại
này quy định. Điều đó sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào hàng nhập khẩu từ
Trung Quốc. (4)
Tương tự như trong lãnh vực điện tử, một khi
Việt Nam gia nhập TPP, các nhà máy làm vải, lụa, khuy áo và chế tạo da sẽ được
xây cất tại Việt Nam để được hưởng thuế ưu đãi đối với hàng dệt may và giầy
dép. Như vậy số lượng nguyên liệu nhập cảng từ Trung Quốc sẽ tự động giảm
xuống.
Nói tóm lại, tham gia vào những thương ước đa
phương vừa kể trên là một cách giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và
nguồn cung cấp nguyên liệu, vốn, kỹ thuật và ngay cả nhân lực. Do đó, kinh tế
Việt Nam sẽ bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Chấm dứt những mãnh lới
buôn bán bất chính của thương gia Trung Quốc
Ngoài việc tiến dần đến độc quyền nguy hiểm về
xuất nhập khẩu trong một số lãnh vực, thương gia Trung Quốc còn có những thủ
đoạn buôn bán bất chính gây thiệt hại cho những nhà sản xuất Việt Nam. Một số
bài tường thuật trên báo mạng cho thấy rằng thương gia Trung Quốc đi đến từng
ruộng vườn để thu mua các cây con, rễ tiêu, lá điều và ngọn cây làm hư hại mùa
màng hay thu mua đỉa mang tính cách phá hoại nông nghiệp. Thương gia Trung Quốc
còn nâng giá giả tạo một số nông sản như khoai lang và dưa hấu làm cho nông dân
Việt Nam ham lợi tăng gia sản xuất. Vài mùa sau, khi thương gia Trung Quốc
không trở lại thu mua nữa, các loại nông sản trở thành ế ẩm khiến cho nông dân
Việt Nam buộc phải hạ giá. (5) Trước 1975 cũng đã xẩy ra những vụ tương tự tại
miền Nam Việt Nam như vụ thu mua chim cút, khiến nhiều công chức quân nhân đã
nghèo lại còn nghèo thêm.
Trung Quốc còn gây khó khăn cho các nông sản
xuất khẩu của Việt Nam bằng cách thường xuyên trì hoãn các xe chuyên chở ở biên
giới. Chủ nhân của hàng ngàn xe dưa hấu, vải, và rau tươi của Việt Nam mắc kẹt
tại đây, nhiều khi buộc phải hạ giá để giảm bớt một phần nào lỗ lã. (6)
Việt Nam cần phải chấm dứt những mánh lời buôn
bán bất chính này của Trung Quốc để bảo vệ nông dân và nông phẩm của Việt Nam,
chống lại sự lũng đoạn thị trường Việt Nam của Trung Quốc. Một trong những biện
pháp hữu hiệu nhất là việc giáo dục và phổ biến tin tức về giá cả và thị trường
đến nông dân. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có trách nhiệm về vấn đề
này. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm giải tỏa những khó khăn ở biên giới. Nếu
không được thì phải nhờ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) can thiệp.
Trung Quốc trúng thầu
nhiều dự án tại Việt Nam
Vào cuối năm 2009, các công ty kỹ thuật Trung
Quốc đảm nhận nhiều dự án với trị giá tổng cộng lên đến 15.4 tỉ Mỹ kim. Các nhà
thầu Trung Quốc thực hiện 90% dự án xây cất những nhà máy nhiệt điện tại Việt
Nam, từ đầu tới cuối, không sử dụng bất cứ thứ gì của Việt Nam. Tương tự như
vậy, trong tổng số 24 nhà máy xi măng ở Việt Nam, 23 nhà máy do Trung Quốc xây
cất. Đây là một ấn đề gây nhiều bất mãn trong quần chúng và các chuyên gia tại
Việt Nam hiện nay. Theo Cô Lê Hồng Hiệp, Giảng Sư tại Đại Học Quốc Gia Việt Nam
tại Hà Nội, có hai lý do khiến cho các công ty Trung Quốc thành công trong
ngành đấu thầu. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt
một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật
kinh doanh uyển chuyển. Tuy nhiên cần phải kể đến yếu tố thứ ba là giá đấu thầu
của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty
khác.
Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là
Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của
Trung Quốc. Đối với những dự án không dùng vốn Trung Quốc, nhà thầu Trung Quốc
vẫn có thể thắng được nhờ cho giá tương đối khá thấp theo luật đấu thầu của
Việt Nam, bất kể tiêu chuẩn kỹ thuật. Vấn đề là sau khi trúng thầu, những công ty
Trung Quốc thường thuyết phục những cơ quan sở hữu dự án thay đổi các điều
khoản của hồ sơ thầu để giảm chi phí hoặc có khi phe lờ những điều kiện này.
Ngoài ra, những công ty Trung Quốc ưa thích dùng công nhân Trung Quốc hơn với
lý do ngôn ngữ và kỹ năng. Một số phúc trình cho thấy rằng nhiều nhà thầu Trung
Quốc hoàn tất dự án không đúng tiêu chuẩn đã ấn định như chậm trễ, chất lượng
kém. (7) Các nhà thầu Trung Quốc còn mang những máy móc thiết bị công nghệ cũ
để dùng cho những dự án họ trúng thầu. (8)
Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã
chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường
xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo
đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân
công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát
triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”
Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được
báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng
chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu
bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet.
Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án
đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các
nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó
chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.
Hiện nay Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đang duyệt xét
lại luật đấu thầu để cho phép những chủ dự án có thể loại bỏ những nhà thầu
thiếu khả năng cho dù họ có cho giá thầu thấp. Những công ty trúng thầu sẽ buộc
phải ưu tiên sử dụng nhân công Việt Nam cũng như vật liệu, trang bị và dịch vụ
có sẵn ở địa phương. Đây cũng chính là những mục tiêu căn bản của kế hoạch đầu
tư trực tiếp nước ngoài, kể cả dùng những dự án thầu đề huấn luyện nhân công
trong nước.
Việt Nam là một quốc gia hội viên của Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế. Do đó Việt Nam phải tuân theo luật WTO. Tuy nhiên Việt Nam
vẫn có thể đặt ra những tiêu chuẩn kỹ thuật và hành chánh để bảo đảm dự án phải
được thực hiện theo ý muốn, miễn là những tiêu chuẩn này áp dụng đồng đều cho
tất cả những nhà thầu, không phân biệt quốc tịch.
Kết luận
Trong nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam không thể
độc lập hoàn toàn với Trung Quốc và ngược lại, nhưng kinh tế Việt Nam cũng
không thể phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Để giảm lệ thuộc vào Trung Quốc, trước hết, Việt
Nam cần phải cố gắng tự sản xuất những hàng hóa tiêu thụ hàng ngày mà mình có
thể làm lấy được và phải làm tốt hơn hàng của Trung Quốc và đặc biệt chú trọng
đến sự an toàn.
Người tiêu thụ cần phải bỏ thói quen mua hàng rẻ
nhưng chất lượng thấp của Trung Quốc. Mặt khác phải hỗ trợ hàng Việt Nam nhất
là trong hoàn cảnh Trung Quốc đang xâm lăng Việt Nam. Mua hàng Việt Nam là góp
phần vào việc bảo vệ đất nước.
Việt Nam cần phải cải tổ chế độ đầu thầu và ra
luật nghiêm trị những kẻ ăn hối lộ và bao che các nhà thầu. Chú trọng đến chất
lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thay vì giá thầu. Khuyến khích nhiều nhà thầu khác nhau
thực hiện các dự án thay vì để cho Trung Quốc gần như độc quyền trong một vài
lãnh vực trọng yếu (năng lượng và xây cất hạ tầng) như hiện nay.
Việt Nam cần hủy bỏ những xí nghiệp quốc doanh
thua lỗ, đặc biệt công nghệ cao, để tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, giúp
sản xuất những sản phẩm tiêu thụ cho người Việt và những nguyên liệu cần thiết
cho những công nghiệp chính của Việt Nam như may mặc và giầy ép. Kế hoạch phát
triển trồng 1,000 ha bông tại tỉnh Ninh Thuận là một việc cần sớm thực
hiện.
Việt Nam từng xuất khẩu ồ ạt những số lượng than
rất lớn sang Trung Quốc, kể cả một lượng 1 triệu tấn than xuất khẩu lậu, với
giá rẻ so với giá trị trường quốc tế, mặc dù biết rằng Việt Nam cũng rất cần
nguồn năng lượng có sẵn này để phát triển. Người ta nghi ngờ có sự chia chác
trong vụ mua bán than này làm cho Việt Nam thất thu khoảng 1 tỷ Mỹ kim. (9) Tuy
nhiên Việt Nam lại nhập cảng điện từ Trung Quốc với giá cao gấp ba lần giá điện
ở Việt Nam. Như đã tiên liệu, mới đây Việt Nam thiếu than đã phải nhập cảng
than từ Nam Dương, cùng một loại than mà Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc.
Việt Nam cũng xuất cảng cao su qua Trung Quốc, nhưng lại nhập cảng lốp xe từ
Trung Quốc. Không có một chánh sách kinh tế nào phi lý hơn thế. Vì vậy Việt Nam
cần phải cải tổ chính sách xuất nhập khẩu, nhất là với Trung Quốc.
Sau hết và quan trọng hơn cả là tham gia vào
những thương ước đa phương đặc biệt là Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương.
Chúng ta không biết CSVN có cam kết gì với Trung
Quốc ở hậu trường hay không. Nhưng chúng ta thấy rõ rằng người đồng chí hàng
xóm khổng lồ không hề dí súng vào đầu người anh em Việt Nam để bắt buộc Việt
Nam phải buôn bán với họ. Phần lớn những giải pháp khả thi giúp kinh tế Việt
Nam giảm lệ thuộc vào Trung Quốc hoàn toàn nằm trong tay chánh quyền Hà Nội và
người dân Việt Nam.
Washington-DC, 04-07-2014
________________________________________
Chú thích:
(1) Carlyle Thayer, “Oil Rig Crisis Threatens Booming
China-Vietnam Ties,” World Politics Review, June 3, 2014.
(2) Thành Chung, “Việt Nam Không Vay Nợ Nhiều
Của Trung Quốc,” Báo Điện Tử Chính Phủ, 11-6-2014.
(3) Hoài Hương & Nguyễn Quốc Khải, “Việt Nam
và Hiệp định TPP – Thách thức và Cơ hội,” VOA, 20-8-2013.
(4) Thùy Trang, “FTA Giúp Giảm Lệ Thuộc Vào
Trung Quốc,” Nhịp Cầu Đầu Tư, 23-6-2014.
(5) Thành Luận, “Phụ Thuộc Trung Quốc: Việt Nam
Rơi Vào Điều Tối Kỵ” Đất Việt, 23-6-2014.
(6) Phạm Chi Lan, “Giảm Phụ Thuộc Về Kinh Tế Để
Đề Phòng Trung Quốc Chơi Xấu,” Tiền Phong, 10-6-2014.
(7) Lê Hồng Hiệp, “The rise of Chinese
Contractors in Vietnam,” East Asia Forum, March 14, 2014.
(8) Phạm Chi Lan & Nguyên Vũ, “FDI: Trung
Quốc Lo Lách Luật, Chèn Ép Doanh Nghiệp Việt,” Doanh Nghiệp, 7-4-2014.
(9) Hạnh Phúc, “Nghịch Lý Ngành Than: Xuất Khẩu
Giá Rẻ, Nhập Lại Giá Cao,” Kinh Doanh Thị Trường, 19-3-2014.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.