Trung
Quốc và Hoa Kỳ: bất đồng nhưng không bất hòa
HÀ
NỘI BIỂU TÌNH CHỐNG HÁN NGỤY DƯƠNG KHIẾT TRÌ VÀ TÀU CỘNG, NHIỀU NGƯỜI YÊU NƯỚC
BỊ BẮT GIAM
http://www.youtube.com/watch?v=I_GmV6Oj-84
RFA-09-07-2014
- In trang
này
- Chia
sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Từ phải, ngoại trưởng John Kerry, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
và Bộ trưởng Tài chính Mỹ Jack Lew tham dự lễ khai mạc Đối thoại chiến lược và
kinh tế hàng năm lần thứ 6 tại Diaoyutai State Guesthouse ở Bắc Kinh, ngày 09
tháng 7 năm 2014.
AFP
Có những bất đồng
nhưng phải cố gắng tránh bất hòa, đó là lời kêu gọi được cả 2 nhà lãnh đạo
Trung Quốc và Hoa Kỳ đưa ra sáng nay tại Đối Thoại Chiến Lược và Kinh Tế
Mỹ-Trung tổ chức tại Bắc Kinh.
Trong phát biểu khai mạc, Chủ Tịch Nhà Nước Trung Quốc Tập Cận
Bình nhắc lại tầm quan trọng của mối quan hệ của 2 cường quốc đối với an ninh
và hòa bình toàn cầu, nhấn mạnh thảm họa sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc đối
đầu với nhau.
Ông Tập Cận Bình cũng kêu gọi Washington nên đối xử bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như
tôn trọng cách lựa chọn đường hướng phát triển của nhau, bảo thêm rằng hợp tác
giữa 2 nước còn mang ý nghĩa sống còn.
Tổng Thống Barack Obama trong thông điệp gửi cho hội nghị cũng
viết rằng không phải điều gì Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng đồng ý với nhau, do đó,
hai quốc gia cần phải tận dụng những đồng thuận đang có để xây dựng quan hệ,
tăng cường niềm tin, và sẵn sàng để thảo luận cặn kẽ về những khác biệt.
Trưởng đoàn Hoa Kỳ là Ngoại Trưởng John Kerry cho hay Washington
không hề tìm cách kiềm chế Bắc Kinh, hứa hẹn sẽ đưa ra một mô hình mới để tăng
cường quan hệ giữa hai nước.
Vẫn theo lời Ngoại Trưởng Mỹ, Washington hoan nghênh một nước
Trung Quốc phát triển trong bền vững, hòa bình và thịnh vượng, để góp phần vào
ổn định và phát triển của toàn khu vực, nhưng ông cũng nói rõ Trung Quốc có
trách nhiệm của một cường quốc trong các vấn đề mang trính toàn cầu.
Ngoại Trưởng Mỹ cũng nói thành công của nước này chính là lợi
ích cho nước khác, cam kết có thể 2 nước cạnh tranh với nhau nhưng không phải
là xung đột vì con đường xây dựng quan hệ với Bắc Kinh mà Washington theo đuổi
dựa vào các tiêu chuẩn hòa bình, thịnh vượng và hợp tác.
Xin được nói thêm là cuộc Đối Thoại Chiến lực Và Kinh Tế thường
niên giữa 2 cường quốc kéo dài 2 ngày. Theo các quan chức Mỹ, nội dung cuộc
thảo luận chưa đựng nhiều vấn đề, từ tỷ giá đồng nhân dân tệ, chương trình hạt
nhân của Bắc Hàn, vấn đề an ninh mạng và cả chuyện căng thẳng leo thang giữa
Trung Quốc với các nước láng giểng o733 Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Trước khi cuộc đối thoại năm nay bắt đầu, các giới chức cao cấp
hành pháp Mỹ cho biết mặc dù Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong mọi cuộc tranh
chấp chủ quyền, nhưng Ngoại Trưởng Kerry sẽ nêu ra mối quan ngại của Washington
đối với những hành động gây rối mà Trung Quốc đang làm ở Biển Đông.
Giàu có trong nỗi bồn
chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc
Andrew J. Nathan, Foreign Affairs, số tháng Năm/ tháng Sáu,
2014
Trần Ngọc Cư dịch
Một bài điểm sách cực ngắn xuất hiện trên Foreign
Affairs, cho chúng ta vài nét chấm phá về của cải và đạo lý tiêu biểu cho
giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc. Và ở Việt Nam chắc cũng chẳng khác gì.
Người dịch
|
Tham nhũng tại Trung Quốc cần lắm công phu. Osburg, một nhà nhân
học Mỹ, đã dành nhiều thì giờ để tiếp xúc và quan sát giới doanh nhân Trung
Quốc tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Những người này gần như dành hết thì
giờ để vun xới quan hệ với các quan chức chính phủ và các đầu nậu băng đảng tại
các trà đình tửu điếm, các phòng ca nhạc karaoke, và các câu lạc bộ của giới ăn
nhậu.
Họ thể hiện các cung cách gắn bó giữa nam giới với nhau, việc này đòi hỏi
phải chơi trội trong việc sử dụng các loại xe đắt tiền, các đồ ăn thức uống
ngoại lai, và các dịch vụ tính dục. Những hoạt động qua lại này đang biến các
quan hệ có giá trị công cụ thành tình bạn, các món hối lộ thành quà tặng, và
các phạm nhân hình sự thành những kẻ tình nguyện giúp cảnh sát duy trì trật tự
xã hội.
Phụ nữ có chức năng làm người chiêu đãi, làm đối tác tính dục được trả
tiền, làm biểu tượng địa vị, và đôi khi làm người đồng lõa trong các âm mưu của
đàn ông. Những đại gia mới nổi, đối tượng nghiên cứu của Osburg, đang bị bóp
nghẹt giữa nỗi sợ hãi là các địch thủ của mình có quan hệ với giới chức quyền
thế hơn và cái cảm thức là mình đang gắn bó với một hệ thống chính trị đang
trên đường đi đến sụp đổ.
Họ cảm thấy mình bị kẹt vào trong một lối sống làm
kiệt sức và lắm lúc chán phè, mặc dù phần còn lại của xã hội coi họ là những
tấm gương thành công. Cách ứng xử của họ đang làm gia tăng một cảm thức phổ
biến về tình trạng suy đồi đạo lý trong xã hội Trung Quốc đương đại.
A. J. N.
Nhà văn Võ Thị Hảo: Trung Cộng chẳng bao
giờ từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam !
21/07/2014
RadioCTM - Tuyết Đan
Nhà
văn Võ Thị Hảo: Trung Cộng chẳng bao giờ từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam !
http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/07/20140721-ctm-danguyen_VTHao.mp3
Sau khi trang nhà của Bộ ngoại giao Trung Cộng chính thức xác
nhận giàn khoan Hải Dương 981 đã di dời ra khỏi vùng biển của Việt Nam và đang
hướng về đảo Hải Nam, thì tràn ngập trên khắp các cơ qua truyền thông của Việt
Nam miêu tả đây là một thắng lợi. Trong khi đó thì dư luận đánh giá việc kéo
đến rồi rút đi giàn khoan HD 981 của Bắc Kinh để đo lường và làm lờn mức sốc
cũng như phản ứng của thế giới trong tương lai. Khi được hỏi về sự kiện này,
nhà văn Võ Thị Hảo đã chia sẻ quan điểm của mình như sau, mời quý vị theo dõi.
http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/07/20140721-ctm-danguyen_VTHao.mp3
Việc thi hành hiệp đinh
Genève
Trần Gia Phụng
Nhân kỷ niệm 60
năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa
vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
1. Hiệp định
Genève
Danh xưng chính
thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị
như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là HenriDelteil, thiếu
tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang
Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức
Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có
Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính
phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp định đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều,
trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được
chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo
dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa
Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước
Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc
(tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam).
Dọc hai
bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm
"khu đệm", có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên
rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu
từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi
bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng.
Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã
hợp tác với phía đối phương.
Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di
cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc
lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích
trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát
thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho
từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải
Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà
Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
2. Ai vi phạm hiệp
đinh Genève
Hiệp định Genève
ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng
giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều
Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp
chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính phủ QGVN dưới
quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn
bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy
định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà
cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài
người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định
Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.
Trái lại, nhà
nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong
hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về
sau:
Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi),
giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ
ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí
Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ
diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến
10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và
hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của
Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội
nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet).
Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ,
đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại
miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức,Bên
thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ
huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập
ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng
10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ
(khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai tài liệu
trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên
truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn
trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay
khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3. Bắc Việt Nam
đòi hỏi điều không có
Hiệp định Genève
chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải
pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève,
thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam
Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày
20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc
tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S.Bowman, The Vietnam War, Day by
Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô
Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức
NVM không ký các văn kiệnGenève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy sau đó chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn
Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và
7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm
tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là
tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một điều lạ lùng
là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức
tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi
tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự
hội nghị Genèvehọp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố
cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương". Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:
"Hội nghị
tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ
phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho
việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày
20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp
gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông
Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên
ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de
Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên
họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là
Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng
"đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris:Nxb. Nam Á
2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn
nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Đây chỉ là lời
tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng
tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi
ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có
chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với
đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không
chữ ký.
Phái đoàn QGVN
và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không
đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa
ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
4. Bắc Việt Nam
bịa đặt lý do để tấn công miền Nam
Cộng sản BVN vi
phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa
đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định
Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là
tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về lý do thứ
nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị
tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản
"Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn
nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi
hành.
Lý do thứ hai
hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho
Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến
tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH
yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó
chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền
kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự giúp đỡ của
Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người
Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc đó, Hoa Kỳ
đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ
còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối
Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn
cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung
Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn nữa, cho đến
năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ
kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và
uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu
bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng.
Như thế, BVN cố
tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của
người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản
quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh
Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng
CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
Kết luận
Hiệp định Genève
là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng
hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do
tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay
sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn
công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ
cứu nước.
Nhân kỷ niệm 60
năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy
rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3
triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng
Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều nầy càng
làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do
dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ
nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn
sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố
gắng vươn tới.
(Toronto,
20-7-2014)
Thông Tin Đức
Quốc http://www.ttdq.de/node/1589
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.