Lãi Suất và Đồng Đô La
Việt long & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2015-03-25
2015-03-25
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến
của Bạn
- Email
Ảnh minh họa
Một mối nguy đang đe dọa Âu Châu và các nền kinh tế nhỏ trên thế giới.
Đó là tiền Mỹ lên giá quá mạnh khiến tư bản chảy ngược về Hoa Kỳ. Nếu Ngân hàng
Trung ương Mỹ lại tăng lãi suất làm tiền Mỹ càng lên giá thì tình hình còn nguy
ngập hơn nữa. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện ấy qua cuộc phỏng vấn sau đây
của Việt Long với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sáu tháng về trước,
ông phân tích việc Mỹ kim lên giá so với các ngoại tệ khác và nói rằng việc đó
có thể dẫn đến nhiều biến động cho các nền kinh tế đang phát triển trong
năm 2015 này. Quả nhiên là chúng ta thấy ngay một vụ khủng hoảng về ngoại hối
vào Tháng 10 năm ngoái khi Liên bang Nga đột ngột tăng lãi suất để vực giá đồng
bạc mà tiền Nga vẫn rớt giá. Tuần qua, người ta còn chứng kiến việc tư bản Âu
Châu cùng nhiều xứ khác tiếp tục chảy về Mỹ và chiều hướng này sẽ gia tăng khi Ngân
hàng Trung ương Hoa Kỳ nâng lãi suất trong mấy tháng tới. Vì vậy, kỳ này, chúng
ta tìm hiểu về việc vì sao Hoa Kỳ có thể tăng lãi suất và hậu quả sẽ là những
gì cho các nước khác.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được bắt đầu với chuyện Âu Châu, rồi mình sẽ theo dõi tình
hình các nước khác, sau đó mới phân tích chuyện lãi suất tại Hoa Kỳ.
Trước hết, Âu Châu chưa ra khỏi khủng hoảng và hồ sơ Hy Lạp đe dọa
sự vẹn toàn của đồng Euro khi xứ này đã cạn tiền mà phải trả nợ theo một lịch
trình rất khắt khe từ nay đến cuối năm. Tình trạng đó đã là một mối nguy khiến
tiền Âu Châu mất giá so với tiền Mỹ và sẽ còn mất giá nữa.
Chuyện thứ hai là khi các thị trường quốc tế đều theo dõi từng lời
phát biểu của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ để dự đoán về quyết định tăng lãi
suất hay không và bao giờ sẽ tăng thì Ngân hàng Trung ương Âu châu vẫn duy trì
lãi suất thấp và khởi sự chương trình bơm tiền để kích thích kinh tế. Hai chiều
hướng đó khiến giới đầu tư tìm nơi có tiềm năng sinh lời cao hơn và đấy là thị
trường Hoa Kỳ. Họ đổi tiền qua đô la để đầu tư vào nước Mỹ.
Âu Châu chưa ra khỏi khủng hoảng và hồ sơ Hy Lạp đe dọa sự vẹn
toàn của đồng Euro khi xứ này đã cạn tiền mà phải trả nợ theo một lịch trình rất
khắt khe từ nay đến cuối năm. Tình trạng đó đã là một mối nguy khiến tiền Âu
Châu mất giá so với tiền Mỹ và sẽ còn mất giá nữa
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Việt Long: Thưa ông, Liên hiệp Âu châu có 28 quốc gia và chỉ có 19 nước là sử
dụng đồng Euro, còn nhiều xứ khác tương đối vẫn còn vững mạnh. Thế thì vì sao
giới đầu tư không rót tiền về các xứ đó mà lại chọn thị trường Mỹ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Việc tư bản Âu châu ra khỏi khối Euro để dồn vào các nước Âu
châu khác đã xảy ra, như khi người ta mua đồng Phật lăng của Thụy Sĩ hay đồng
Krone của Đan Mạch. Nhưng hậu quả là lại làm các đồng bạc Âu châu ngoài khối
Euro lên giá và gây bất lợi cho việc xuất khẩu nên các xứ này cũng ráo riết cắt
lãi suất, bơm thêm tiền, thậm chí còn bắt giới ký thác phải trả thêm tiền thay
vì được thưởng khi đem tiết kiệm bỏ vào ngân hàng. Vì thế mà tư bản mới tháo
khỏi Âu Châu mà chảy về Mỹ. Ngoài ra, nhiều xứ Trung Đông hay Đông Á cũng tính
như vậy và dồn tiền về Mỹ cho an toàn và có lời hơn. Mà điều ấy cũng gây bất
lợi cho Hoa Kỳ vì làm cho đồng đô la và Công khố phiếu càng lên giá.
Việt Long: Bây giờ ta mới trở lại chuyện nước Mỹ có thể tăng lãi suất. Sự
thể ấy là như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đầu tiên, ta cần phân biệt lãi suất dài hạn và lãi suất ngắn
hạn.
Tại Hoa Kỳ, lãi suất dài hạn được thả nổi cho thị trường quyết
định theo quy luật cung cầu. Đấy là “phân lời” hay yield của tờ Trái
phiếu là tờ giấy nợ. Nó tăng hay giảm là do thị trường. Nếu tiền nhiều và đi
vay dễ thì trị giá trái phiếu sẽ tăng mà phân lời lại giảm. Đấy là điều bất lợi
cho ai có tiết kiệm vì được trả tiền lời quá thấp. Khi theo dõi tin tức thị
trường, ta nên nhớ đến quy luật đó, giả dụ như qua đề tựa của bản tin là “Trái
phiếu lên giá” thì có nghĩa là tiền lời giảm. Ngược lại, khi có tin là “Trái
phiếu sụt giá”, điều ấy có nghĩa là phân lời tăng.
Việt Long: Thưa ông, đấy là lãi suất dài hạn. Còn lãi suất ngắn hạn thì sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãi suất ngắn hạn là thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Trung ương
Mỹ.
Đây là định chế độc lập có quyền quyết định về lãi suất ngắn hạn
theo hai yêu cầu là 1) ổn định tiền tệ, là không để lạm phát xảy ra tại Hoa Kỳ
và 2) là tạo điều kiện phát triển kinh tế cho dân Mỹ có công ăn việc làm, tức
là giảm thiểu nạn thất nghiệp. Định chế này có một ủy ban hữu trách về chính
sách tiền tệ và tín dụng, gọi tắt là FOMC, thường thì sáu bảy tuần lại họp một lần,
một năm tám lần, để rà soát tình hình kinh tế và quyết định về lãi suất ngắn
hạn nếu thấy cần.
Lãi suất ấy được gọi là “federal funds rate”, hay Fed
Fund, hay lãi suất liên ngân hàng mà các ngân hàng tính cho nhau khi nhất thời
thiếu thanh khoản hay bạc mặt. Từ lãi suất nền đó, các ngân hàng tính thêm
nhiều nấc tiền lời cho thân chủ đi vay tùy mức rủi ro. Nếu lãi suất cơ bản này
mà thấp thì người ta vay tiền rẻ và dễ hơn nên sẽ nâng mức lưu hoạt kinh tế.
Ngược lại, nếu tiền quá rẻ thì dễ gây ra lạm phát nên lãi suất có thể tăng, làm
lượng tiền lưu hành trong kinh tế lại giảm.
Tại Hoa Kỳ, lãi suất dài hạn được thả nổi cho thị trường quyết
định theo quy luật cung cầu. Đấy là “phân lời” hay yield của tờ Trái
phiếu là tờ giấy nợ. Nó tăng hay giảm là do thị trường. Nếu tiền nhiều và đi
vay dễ thì trị giá trái phiếu sẽ tăng mà phân lời lại giảm
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Việt Long: Thưa ông, khi người ta nói rằng Ngân hàng Trung ương Mỹ bơm tiền
hoặc in bạc thì chuyện ấy có nghĩa cụ thể như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi ta nghe tin Ngân hàng Trung ương bơm tiền hoặc in tiền thì
đấy không là việc có ai vào nhà máy in của viện phát hành bấm nút để in ra vài
tỷ bạc rồi đưa cho ai đó xài. Việc “phát hành tiền tệ” là do hành động của các
ngân hàng và người đi vay để tiêu thụ hay sản xuất. Mỗi nghiệp vụ đi vay hay
chi tiêu lại là một quyết định phát hành tiền tệ của thị trường và lãi suất cao
thấp là quyết định của Ngân hàng Trung ương để điều tiết lượng tiền hút vào hay
bơm ra của thị trường. Lãi suất ấy có thể chỉ nhích vài điểm - một điểm cơ bản
là một phần trăm của 1% - là ảnh hưởng đến nhiều tỷ bạc và đến trị giá của đồng
đô la. Tức là một cách gián tiếp và trong lâu dài sau nhiều tháng thì lãi suất
ngắn hạn ấy cũng chi phối phân lời trái phiếu, là lãi sất dài hạn của thị
trường.
Việt Long: Bây giờ ta mới tìm hiểu về yếu tố quyết định của Ngân hàng Trung
ương Mỹ. Như ông vừa trình bày thì có phải là định chế này tập trung chú ý vào
tình hình vật giá hay thất nghiệp tại Hoa Kỳ chứ chẳng mấy quan tâm đến hậu quả
rộng lớn cho các nước khác?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi rất hay vì cho thấy cơ quan chuyên môn này có chức năng
phục vụ các mục tiêu viết trên giấy trắng mực đen dưới sự giám sát của Quốc
hội. Nội việc đó cũng đã không dễ, mà Ngân hàng Trung ương Mỹ còn hay bị phê
phán theo hai hướng. Xu hướng thiên tả thường muốn có lãi suất hạ và tiền nhiều
mà chẳng sợ lạm phát. Xu hướng hữu khuynh bảo thủ thì cho là nên canh chừng lạm
phát và nâng lãi suất để giới tiết kiệm có lời khi gửi tiền vào ngân hàng cho
người khác vay. Cả hai xu hướng này đều không mấy quan tâm đến hiệu ứng cho xứ
khác.
Điều ấy cho thấy là nhiều người có thể nghĩ sai khi lý luận rằng
Hoa Kỳ có âm mưu tăng lãi suất hay nâng giá đồng bạc để đánh gục kinh tế của một
xứ nào khác, thí dụ như Nga hay Tầu!
Việt Long: Ra khỏi lập luận thiên về chính trị như ông vừa giải thích mà chỉ
lưu tâm vào quyền lợi của Hoa Kỳ theo hai mục tiêu là ổn định vật giá và giảm
thiểu thất nghiệp với hậu quả lâu dài là làm hạ lãi suất dài hạn, thì giới chức
Ngân hàng Trung ương Mỹ họp hành tính toán ra sao?
Nhìn vào tình hình vật giá tại Mỹ. Lãi suất có thể tăng khi lạm
phát lên gần tới 2%, nhưng các chỉ số đều cho thấy vật giá của nhu yếu phẩm như
lương thực và xăng dầu lại giảm. Việc dầu thô sụt giá có góp phần làm giảm nguy
cơ lạm phát nên Ngân hàng Trung ương Mỹ chưa vội tăng lãi suất
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Định chế này có cả chục trung tâm nghiên cứu rất có uy tín của
hệ thống ngân hàng dự trữ ở 12 khu vực trên toàn quốc và tại trung ương họ cũng
có bộ phận thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế Hoa Kỳ để dự đoán về tương
lai. Từ nhiều năm nay, họ thông báo là sẽ áp dụng một chính sách linh động để
thứ nhất duy trì mức lạm phát ở khoảng 2% mà thôi và thứ hai là đạt tỷ lệ thất
nghiệp trong dài hạn ở khoảng từ 5% đến 5,5%. Sau mỗi kỳ họp của Ủy ban Tiền tệ
FOMC thì Thống đốc cũng có một thông báo ngắn gọn về quyết định của Ủy ban.
Vì lãi suất ngắn hạn được duy trì quá lâu ở gần số không, khi thất
nghiệp tại Mỹ đã giảm tới mức 5,5%, các thị trường tài chính tại Hoa Kỳ và quốc
tế đều cho là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng. Họ theo dõi các thống kê kinh tế lẫn
từng lời phát biểu của Ngân hàng Trung ương để dự đoán là tăng bao nhiêu điểm
qua mấy đợt, vào thời điểm nào, như Tháng Sáu hay Tháng Chín, Tháng 10 năm nay
hay năm tới. Các phát biểu và bình luận ấy đều tác động ngay vào thị trường
theo kiểu biện chứng.
Thí dụ như hôm Thứ Sáu mùng sáu đầu tháng, khi Bộ Lao động cho
biết thất nghiệp đã giảm thì lập tức cổ phiếu tại Mỹ sụt giá mạnh. Tức là một tin
vui về kinh tế dẫn tới kết luận là lãi suất sẽ tăng, mà lãi suất tăng thì doanh
lợi giảm nên thị trường chứng khoán mất giá. Cùng lúc ấy, thị trường hối đoái
hay ngoại hối cũng biến động vì lãi suất tăng sẽ làm đô la lên giá nữa và nếu
đô la lên giá thì các tập đoàn thiên về xuất khẩu sẽ khó bán hàng hơn và mất
lời, nên cổ phiếu của các doanh nghiệp này cũng sụt giá từ một tin vui!
Việt Long: Phải theo dõi từng loạt tin tức và những chuỗi lý luận theo kiểu
liên hoàn mắc mứu với nhau như vậy thì ông dự đoán ra sao về lãi suất ngắn hạn
tại Hoa Kỳ, và về đồng đô la?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta thật khó biết trước được vì hoàn cảnh tôi xin gọi là
“tranh tối tranh sáng” hiện nay. Quả thật là thất nghiệp đang trở lại mức bình
thường trên bề mặt, nhưng bên dưới thì phẩm chất vẫn rất kém vì số người thật
sự tham gia thị trường lao động còn ở mức thấp nhất từ mấy chục năm nay. Xét
theo một khía cạnh khác thì lợi tức của lực lượng lao động này, đo ở mức lương
bình quân, thì cũng còn quá thấp mà đa số thành phần kiếm ra việc đều có lương
thấp nên hy vọng có thể tăng mức tiêu xài và kích thích sản xuất thật ra vẫn
còn mong manh. Vì thế, chưa chắc là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng vào Tháng Ba này
như một số người dự báo.
Huống hồ là ta nhìn vào tình hình vật giá tại Mỹ. Lãi suất có thể tăng
khi lạm phát lên gần tới 2%, nhưng các chỉ số đều cho thấy vật giá của nhu yếu
phẩm như lương thực và xăng dầu lại giảm. Việc dầu thô sụt giá có góp phần làm
giảm nguy cơ lạm phát nên Ngân hàng Trung ương Mỹ chưa vội tăng lãi suất. Vì
thế người ta thiên dần về kịch bản lãi suất tại Hoa Kỳ chỉ tăng rất nhẹ từ
Tháng Chín, Tháng 10, qua tới năm sau mới nhúc nhích. Nhưng chẳng vì vậy mà đô
la sẽ ngừng lên giá vì hối suất hay tỷ giá đồng bạc này còn tùy vào các nền
kinh tế và ngoại tệ khác.
Kết luận ở đây là Hoa Kỳ lấy quyết định là vì quyền lợi của mình, nhưng
các quyết định ấy đều có thể chi phối xứ khác và người ta nên mở tầm nhìn thật
rộng để hiểu ra các yếu tố có thể tác động vào lợi tức, tài sản hay sự an toàn
của mình.
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về việc phân tích này.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.