VÀO
TPP HAY KHÔNG,
VN
LÀ TỈNH TIÊU THỤ &
XUẤT CẢNG
HÀNG CHO TRUNG QUỐC
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC
LIÊN, Kinh tế
Geneva 19.07.2011. Cập
nhật 13.02.2014
CHÚ THÍCH:
Chính
đảng CSVN, với CÔNG HÀM bán Đất & Biển từ Hồ Chí Minh/ Phạm Văn Đồng và với
lệ thuộc Kinh tế của đảng CSVN thời nay vào Trung quốc cho phép bá quyền Hán
tộc đem quân vào xâm chiếm Việt Nam mà Quốc tế khó lòng giải quyết.
Thực
vậy, về mặt xâm lăng Kinh tế, nhà nước CSVN, trong thế tụt dốc hiện nay và với
tham vọng cố thủ lấy quyền hành dưới sự bảo trợ của Trung quốc, đã liều mình
nhận nợ và dành 90% những Dự án cho Trung quốc, đồng thời nhập siêu 100% từ
Trung quốc.Trong Bài dưới đây, Ts. LÊ ĐĂNG DOANH đã khẳng định:
“-“Thực
tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm trên 100% nhập
Lễ
ký kết Hợp đồng sau khi Công ty China Huadian Engineering (CHEC) Trung Quốc
trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, hôm
30-06-2010.
Nhập
siêu của cả nước và chính phủ phải dùng số tiền xuất siêu ở các nơi khác để bù
vào số nhập siêu của Trung Quốc. Vì vậy giải quyết nhập siêu từ thị trường
Trung Quốc là một vấn đề sinh tử của nền kinh tế Việt Nam, nếu không làm được
việc đó thì không chỉ phụ thuộc vào thương mại mà trong tương lai gần đây Trung
Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân dân tệ và Việt nam không thể dùng
đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị trường khác để trang trải và sẽ phải vay nợ đồng
nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị phụ thuộc vào tài chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên
rất nhiều.
Khi
mà hoàn toàn nhập siêu từ Trung quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân Dân tệ,
thì Việt Nam trở thành như một Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
Đồng
thới, từ cảnh nhận nợ ấy, Việt Nam còn phải chịu việc Trung quốc xuất cảng nhân
công của họ sang Việt Nam để lập những khu tự trị Trung quốc trên lãnh thổ mình
Cách
đây 3 năm, đúng ngày 04.02.2009, dưới đầu đề TRÁNH BIỆN MINH QUỐC TẾ CỦA TRUNG
QUỐC KHI ĐEM QUÂN VÀO CHIẾM VIỆT NAM, chúng tôi đã viết về việc Trung quốc đem
quân vào chiếm Việt Nam như sau:
“Điều
chúng ta ngại sợ hơn cả là chính quân đội và xe tăng Trung quốc tràn vào lãnh
thổ Việt Nam để giết người Việt Nam. Trong sự liên đới Đông Nam Á và Thế giới
hiện nay, việc Trung quốc tự nhiên cho quân và xe tăng đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ
Việt không phải là điều dễ làm vì quốc tế kết án. Trung quốc phải tìm ra những
cái cớ để biện minh trước những nước trong vùng và trước Thế giới về việc họ
xua quân và xe tăng vào Việt Nam.
Việt
Nam chắc chắn không mang quân đội và vũ khí sang tấn công lãnh thổ Trung quốc
để Trung quốc lấy cớ tràn quân vào Việt Nam. Những cái cớ mà Trung quốc sẽ lấy
ra, đó là để đòi NỢ Việt Nam, để bảo vệ sinh mạng NGƯỜI Trung quốc đang sống ở
Việt Nam và để bảo tòan TÀI SẢN của Trung quốc đặt để ở lãnh thổ Việt Nam.
1)
Đòi NỢ Việt Nam
Trung
quốc cho Hoa kỳ vay nợ. Họ trở thành chủ nợ, nhưng đối với con nợ Hoa kỳ, chính
chủ nợ Trung quốc lại ngại sợ bởi vì Hoa kỳ có một lực lượng quân đội mạnh có
thể vận chuyển nhanh chóng khắp Thế giới. Trung quốc chưa bao giờ viễn chinh và
có thể bị tiêu diệt dễ dàng nếu muốn tấn công Hoa kỳ để đòi nợ.
Trường
hợp con nợ Việt Nam thì khác. Việt Nam ở gần kề và bị bao vây mọi phía bởi
Trung quốc: phía Đông, Tầu đã giữ Biển Đông; phía Tây, Tầu tràn qua Lào và Cao
Mên dễ dàng; phía Bắc, Tầu đứng cạnh biên giới sẵn sàng tràn xuống như họ đã
làm trong Lịch sử. Trong tình trạng Kinh tế hiện nay, Trung quốc dư vốn cho Việt
Nam vay và khi cho Việt Nam vay thì họ không sợ mất vốn. Nhà Nước Việt Nam thiếu
hụt ngân qũy và nhờ Trung quốc trợ giúp Tài chánh. Ngân Hàng dành riêng cho
người Tầu đã họat động từ 4 năm nay tại Việt Nam. Phần lớn những Dự án ở Việt
Nam hiện nay là do vốn Tầu cho vay và dân chúng Việt Nam phải trả góp. Trả nợ
không xong, thì Tầu tràn vào đòi nợ.
2)
Bảo vệ sinh mạng NGƯỜI TẦU sinh sống tại Việt Nam
Trung
quốc cho vay nợ để thực hiện Dự án. Mỗi Dự án là mỗi xuất cảng công nhân Trung
quốc sang Việt Nam. Những công nhân này không phải chỉ lấy vợ chồng tại
Việt Nam mà ở lại, mà chính họ tìm mọi cách ở lại Việt Việt Nam để lập nghiệp.
Những công nhân này sẽ mang gia đình họ từ Trung quốc sang sinh sống tại Việt
Nam. Họ sẽ thiết lập những làng, những khu thương mại, những khu kỹ nghệ riêng
cho họ. Khi người Tầu lập những China Towns khắp Thế giới, thì việc tiến lên
những khu riêng của họ tại Việt Nam, với thái độ sợ sệt của CSVN lúc này, là
việc rất dễ dàng và mau chóng. Khi đã sinh sống thành làng, thành khu thương
mại, kỹ nghệ rồi, thì khi có cuộc nổi dậy tại Việt Nam, Trung quốc dễ dàng nại
ra lý do bảo vệ sinh mạng người của họ để cho quân đội vào bảo vệ.
3)
Bảo tòan TÀI SẢN Trung quốc đặt ở Việt Nam
Chúng
tôi đã viết bài về chương trình tư nhân hóa hay Trung quốc hóa những Công ty
quốc doanh Việt Nam. Người Trung quốc trực tiếp hay qua trung gian những người
Tầu sống tại Việt Nam mua đa số cổ phần trong những Công ty này để nắm trọn Sản
xuất cũng như Thương mại tại Việt Nam. Việc Trung quốc hóa này nhắm chính yếu
vào Thương mại. Thực vậy, khi mà những cơ sở nhập cảng nằm trong tay Trung
quốc, thì việc nhập cảng hàng từ Trung quốc để phân phối cho 85 triệu người
Việt trở thành tự động. Khi có nổi dậy, Trung quốc có thể lấy lý do bảo tòan
tài sản của họ mà cho quân tràn vào.
Tóm
lại, Trung quốc không tự dưng tràn quân vào Việt Nam để bị Thế giới kết án.
Nhưng họ sẽ nêu ra những lý do bảo vệ quyền lợi Kinh tế của họ mà cho quân vào
Việt Nam.
Nguyễn Phúc Liên
Từ
rừng rú ra, CSVN hồ hởi vào WTO, mơ tưởng hốt bạc thiên hạ hay chính là mở rộng
cửa để hàng ngoại, nhất là từ TQ, vào diệt Kinh tế mình? Bên cạnh gian manh
Kinh tế Chệt mà Việt Cộng quỳ gối bái lậy việc bao che cho quyền lực, CSVN dâng
Đất Nước như một Tỉnh để tiêu thụ hàng TQ và tái xuất hàng ứ đọng cho quan thầy
!
Việt
Nam phải đối diện với hai cuộc Xâm lăng đến từ Trung quốc: (i) Xâm lăng Đất và
Biển; (ii) Xâm lăng Kinh tế.
Trong
những tháng gần đây, vấn đề Biển Đông, việc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa/
Trường Sa làm cho quần chúng lưu ý đặc biệt và có thể vì đó mà chúng ta quên
một phần về cuộc Xâm lăng Kinh tế cực kỳ nguy hiểm vì nó biến Việt Nam thành
một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho hàng hóa Trung quốc đang ứ đọng.
Vấn
đề Biển Đông có thể chuyển mình qua những đàm phán đa phương và như vậy Việt
Nam có thể đỡ một phần gánh nặng vì có cả khối ASEAN, Nhật, Nam Hàn, Hoa kỳ và
Ấn độ hỗ trợ, thì việc Xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc, Việt Nam phải chịu trận
một mình. Quá lệ thuộc quyền hành vào Trung quốc, CSVN đã theo lệnh của quan
thầy để chấp nhận đàm phán song phương, nghĩa là sang tận Bắc kinh để nhận chỉ
thị, ngay cả chỉ thị về Việt Nam đàn áp tất cả những ai vì lòng yêu nước
mà lên tiếng phản đối quan thầy Trung quốc.
Khi
mà CSVN còn cố níu lấy quyền hành do Trung quốc bảo trợ, thì cuộc Xâm lăng Kinh
tế, hiện nay đã lan tràn, sẽ tiến tới rất nhanh diệt hẳn Kinh tế Việt Nam đang
èo ọt tụt dốc.
Viết
bài này về Xâm lăng Kinh tế Trung quốc, chúng tôi muốn nói đến con đường mà
CSVN đang đưa Đất Nước đến tình trạng một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho
Trung quốc.
2006:Việt
Nam vào WTO/OMC
với
nguy hiểm bị xâm lăng Kinh tế
Trước
khi Việt Nam vào WTO, đài Phát Thanh RFI (Radio France Internationale) đã phỏng
vấn chúng tôi ngày 04.05.2005 nhân Liên Âu và Hoa ky đưa ra những biện pháp
ngăn chặn xâm lăng của Hàng May Dệt Trung quốc làm thiệt hại cho ngành nghiệp
này tại Liên Âu và Hoa kỳ.
Thực
vậy, Trung quốc vào WTO từ năm 2001, tuy nhiên Hoa kỳ và Liên Au vốn giữ vấn đề
Quotas đối với Trung Cộng. Nhưng sau khi vấn đề Quotas được bỏ đi kể từ năm
2005, Trung Cộng đã xuất cảng ào ạt hàng May Dệt sang Hoa kỳ và Liên Au. Vì
quyền lợi của mình, Hoa kỳ và Liên Au đã phản ứng để ngăn chặn Tsumani hàng May
Dệt này ngay trong khuôn khổ của Tự do Mậu dịch WTO/OMC. Đây là một trong những
tỉ dụ mà người ta sẵn sàng vì quyền lợi Quốc gia mà bỏ những điều đã ký kết. Từ
tháng tư 2005, Hoa kỳ và Liên Au phải lấy những quyết định phản ứng mạnh
để ngăn chặn Tsumani này từ Trung Cộng.
Ngành
May Dệt tại Hoa kỳ và Liên Âu đã có truyền thống lâu đời và đã trưởng thành,
nhưng trước Tsumani xâm lăng của Trung quốc, Hoa kỳ và Liên Âu phải đưa ra
những Biện pháp giá biểu quan thuế cũng như không giá biểu để chống lại
(Mesures Tarifaire et non-Tarifaire). Đây là cái quyền tự vệ khi mà mình cảm
thấy bị thiệt hại. Tự do Mậu dịch là một lý tưởng nếu hai phía cùng có sức mạnh
tương đương. Việc Bảo vệ Mậu dịch được phép, nhất là cho những ngành nghiệp mới
phát sinh và trên đà phát triển (Protectionnisme des Industries naissantes).
Việt
Nam mới chập chững mở cửa để bắt đầu hội nhập với Mậu dịch Thế giới. Thất bại
về Kinh tế tập quyền chỉ huy (Economie centralisée et dirigiste), Việt Nam gặp
đói nghèo, đành phải mở cửa và chấp nhận Kinh tế gọi là “Tự do Thị trường định
hướng XHCH”, một thứ Kinh tế Tự do Thị trường tréo cẳng ngỗng, nghĩa là nhà
nước độc tài vẫn nắm “chụ đạo“ Kinh tế. Hệ thống sản xuất và Thương mại vẫn nằm
trong tay những Tập đoàn quốc doanh do người của đảng nắm giữ. Sản xuất còn yếu
kém, nhưng đảng CSVN vẫn mơ mộng rằng vào WTO là đi hốt bạc ngay tức khắc.
Chính
việc để tự do mậu dịch này trong tình trạng mình còn yếu sức sản xuất và cạnh
tranh đã làm Việt Nam thành mồi ngon cho những hàng hóa nước ngoài tràn vào xâm
chiếm. Vì còn là đầy tớ của Trung cộng nữa, nên hàng hóa, thương nhân và
công nhân Trung quốc vào Việt Nam như chỗ không người để cạnh tranh.
2009:
Từ huênh hoang Công nghệ hóa
đến
chấp nhận Phân phối hàng Trung quốc
Chúng
tôi đã viết bài về thảm cảnh này ngày 02.07.2009, nghĩa là 3 năm sau khi Việt
Nam vào WTO.
Nhà Nước CSVN vẫn huênh hoang
chương trình vĩ mô Công Nghệ hóa Kinh tế Việt Nam. Dưới chiêu bài này, những Dự
án, những Khu chế xuất có quyền ưu tiên tịch thu đất trồng cấy khiến Nông
nghiệp thiệt hại. Nhà Nước hy sinh Nông nghiệp, một căn bản sẵn có và
truyền thống của đại đa số Dân Việt sinh sống.
Vì quá lệ thuộc vào
Trung quốc để bảo đảm quyền lực Chính trị, đảng CSVN đang biến cái gọi là Công
nghệ hóa thành thảm cảnh tổ chức phân phối cho hàng hóa Trung quốc.
Thực vậy, CSVN để tự do
nhập nội hàng hóa Trung quốc. Tại Thị trường hàng hóa, hai yêu tố cạnh tranh
chủ yếu là GIÁ CẢ và PHẨM CHẤT (Prix et Qualité) của món hàng.
Giá
cả hàng Trung quốc rẻ hơn
Giá
bán tùy thuộc vào giá thành sản xuất. Hệ thống sản xuất công/ kỹ nghệ ngày nay
là hệ thống những linh kiện cấu thành món hàng cuối cùng. Đó là hệ thống liên
đới sản xuất những bộ phận cấu thành (système de sous-traitance des pìeces
détachées). Món hàng cuối củng sẵn sàng cho tiêu thụ chỉ là việc ráp nối
(assemblage) những bộ phận. Không một Công ty nào sản xuất tòan bộ những bộ
phận cấu thành món hàng cuối cùng. Đây không phải là việc bất lực về khả năng,
mà là vì giá thành của món hàng cuối cùng sẽ tăng lên gấp bội.
Khi món hàng cuối củng
được chia ra thành những bộ phân riêng rẽ, thì những bộ phận này sẽ do những xí
nghiệp chuyên môn sản xuất trong hệ thống liên đới. Vì chỉ sản xuất những bộ
phận chuyên môn, nên những Xí nghiệp này có thể tăng lượng sản xuất để triệt
tiêu phí tổn trang bị máy móc sản xuất (Installation des équipements).
Yếu tố khách quan làm
cho những món hàng Trung quốc rẻ hơn hàng Việt Nam, đó là Trung quốc có thể
tăng rất lớn lượng sản xuất những linh kiện. Trung quốc sản xuất từ A tới Z của
một mặt hàng là như vậy.
Cùng sản xuất một mặt
hàng như Trung quốc, nhưng Việt Nam phải mua lại từ Trung quốc những bộ phận
cấu thành mặt hàng cuối cùng. Vì vậy mà mặt hàng Việt Nam bán ở Thị trường không
thể nào rẻ hơn mặt hàng của Trung quốc.
Cũng chính vì điểm này,
mà những Công ty Tây phương đặt mua linh kiện tại Trung quốc.
Phẩm
chất của món hàng
Hệ
thống sản xuất liên đới những linh kiện (système de sous-traitance des pìeces
détachées) không phải chỉ làm giảm giá thành sản xuất, mà còn cho phép những
Công ty chuyên nghiệp có thời giờ và cô đọng khả năng vào việc kiện tòan phẩm
chất của từng bộ phận, từng linh kiện. Thực vậy, những Công ty chuyên nghiệp
này dành trọn thời giờ cho Nhóm Nghiên cứu (Equipe de recherche) chuyên tâm vào
một linh kiện, một bộ phận. Đây là việc làm tăng phẩm chất chuyên môn cho sản
phẩm. Vấn đề cạnh tranh trên Thị trường không phải chỉ nguyên giá cả mà trở
thành cạnh tranh về phẩm chất chuyên môn, kiện tòan của từng linh kiện cấu
thành. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh được áp dụng triệt để ở hệ thống sản xuất
linh kiện công nghệ và kỹ nghệ hiện nay.
Trung quốc có điều kiện
phát triển hệ thống liên đới sản xuất từ A tới Z và tất nhiên họ có điều kiện
kiện tòan phẩm chất mặt hàng cuối cùng hơn Việt Nam
Chúng tôi rất đau lòng đọc tin sau
đây từ Quốc nội: “(TuanVietNam)- Êm như mưa dầm, ồ ạt như lũ, hàng TQ đổ bộ
vào VN, “quét” sạch hàng nội, moi túi người tiêu dùng. Con số nhập siêu hơn 11
tỷ USD năm qua đủ cho thấy các DN ta đang “thua trắng bụng”. Để không bị làn
sóng này dìm chết, không một ai – từ Chính phủ tới DN và người tiêu dùng – có
thể đứng ngoài cuộc.“
Cán cân Thương Mại giữa
Trung quốc và Việt Nam cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế tại Việt Nam mỗi ngày một
tăng mạnh: “10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam đã
tăng 23,25 lần, đạt tới con số 15.652 tỷ USD vào năm ngoái. Cùng trong thời
gian đó, kim ngạch xuất khẩu của ta theo chiều ngược lại tăng vỏn vẹn 6,08 lần,
chỉ đạt 4.536 tỷ USD năm 2008.“
Ong ĐÀO XUÂN ANH, chủ
một Công ty sản xuất, đã kết luận:”Chi phí nhập khẩu (tính cả mua hàng lẫn
vận chuyển) rẻ hơn là tự sản xuất, quy trình làm việc đơn giản và ít phải suy
nghĩ hơn.“
Từ là Doanh nhân sản
xuất công nghệ, Ong trở thành một Thương gia phân phối hàng Trung quốc !
2009:Truyền
Thông & Doanh nhân VN
tuyên
chiến với hàng TQ
Truyền
thông Việt Nam và Doanh nhân đã Tuyên chiến với cuộc tấn công của hàng ngoại
chất lượng thấp và yêu cầu Nhà nước tham gia cuộc chiến (18/06/2009 09:37 (GMT
+ 7). Tiên khởi cho việc Tuyên chiến này là Vietnamnet với Thảo Luận
“TuanVietNam “. Chúng tôi xin đăng lại nội dung Thảo Luận.
(TuanVietNam)-
"Dù tất cả đã có nhưng lực lượng hải quan, lực lượng kiểm tra thị trường,
nói chính xác hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến ngăn chặn hàng giá
rẻ, chất lượng thấp vào thị trường Việt Nam cũng sẽ bị thủng..."- TS.
Nguyễn Minh Phong nói.
Chất
lượng công quyền
Nhà
báo Nguyễn Quang Thiều: Không rõ có chính xác hay không, nhưng tôi cảm giác
Nhà nước mình như một ông chủ đội bóng, bỏ tiền ra mua đội bóng đó, đầu tư cho
đội bóng nhưng lại giữ chân huấn luyện viên. Theo tôi hiểu, huấn luyện viên là
một chuyên môn khác, đẳng cấp khác, còn việc của người quản lý đương nhiên là
một công việc khác hoàn toàn.
TS. Nguyễn Minh Phong: Xin
được quay trở lại câu chuyện còn đang dở, chúng ta vừa nói đến hàng may mặc
Trung Quốc, nhưng giờ chúng ta phải nói đến tất cả các hàng hóa có xuất xứ từ
Trung Quốc, bởi có những thứ kém chất lượng, độc hại mà cơ quan kiểm định đã
công bố, và thế giới cũng đều biết, đang có mặt nhan nhản ở thị trường Việt
Nam.
Nhà báo Nguyễn Quang
Thiều: Rõ ràng, chúng ta có những phòng tuyến chặn cửa như hải quan, các cơ
quan kiểm thị trường, kiểm dịch, công an, quân đội và cả thuế vụ nữa… nhưng tại
sao hàng ngoại chất lượng thấp lưu hành trên thị trường tiêu dùng vẫn không hề
giảm đi, thậm chí có phần ồ ạt tiến vào vào thị trường Việt Nam. Liệu có hay
không phòng tuyến nào bị hổng, hay tất cả đều bị hổng, thưa TS. Nguyễn Minh
Phong?
TS.
Nguyễn Minh Phong: Tôi cho rằng có 3 điểm cần lưu ý. Thứ nhất, chúng ta phải
học tập Nhật và Trung Quốc, nghĩa là hàng tốt của Việt Nam phải bán cho người
Việt Nam, chứ không phải hàng tốt thì mang hết ra nước ngoài, còn hàng bán ở
Việt Nam toàn hàng xấu, tự nhiên người tiêu dùng trong nước bị ấn tượng hàng
Việt Nam là hàng xấu.
Thứ hai, những chế
tài và những quy định pháp lý, đặc biệt là những chế tài quy định liên quan đến
hàng rào kỹ thuật cần phải được tăng cường hơn. Lâu nay, chúng ta sử dụng nặng
công cụ thuế, còn công cụ hàng rào kỹ thuật lại xem rất nhẹ, thậm chí còn không
biết làm như thế nào vì tiêu chuẩn chưa định hình, cái đã định hình thường thấp
hơn rất nhiều so với thế giới. Do vậy, những hàng rào kỹ thuật, những tiêu
chuẩn hoá về kỹ thuật cần sớm được quốc tế hoá, được xác lập và triển khai trên
thực tế một cách hiệu quả.
Thứ ba, rất quan trọng. Dù
tất cả những tiêu chuẩn đó đã có nhưng nếu lực lượng hải quan, lực lượng kiểm
tra, hay nói gọn hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến đương nhiên sẽ bị
thủng... Cái thủng của con người là cái thủng lớn nhất. Chúng ta đã có rất
nhiều bài học như vụ án hàng lậu Tân Thanh. Một khi quan chức liên tỉnh bắt tay
dằng dây sẽ vô hiệu hóa tất cả những hàng rào kĩ thuật khác.
Bà Phạm Chi Lan: Về
lỗ thủng chất lượng đội ngũ tôi đồng ý với anh Phong. Nhưng chúng ta nhìn nó
rộng ra hơn một chút là cơ chế có thể tạo nên những con người như vậy,
muốn có đội ngũ công chức thật tốt như chúng ta mong muốn thì phải có hệ thống cơ chế trong đó bao gồm cả thể
chế cả chính sách, cả tiêu chuẩn cán bộ như thế nào, cách để chọn vào ra như
thế nào, tất cả đều phải nghiêm chứ đừng chỉ đứng hô hào chung chung.
Bản thân Nhà nước phải rất
nghiêm với chính mình về hàng rào kĩ thuật này, đã đặt ra phải xử lí, chỗ nào
chưa có phải làm. Không phải bây giờ khi cả xã hội kêu lên là hàng chất lượng
thấp thì bộ nọ, bộ kia lại chưa có căn cứ, chưa có tiêu chuẩn để kết luận đó là
xấu, ngăn chặn không cho họ vào hoặc phản ứng lại với họ. Đó là cách trả lời vô
cùng thiếu trách nhiệm. Lỗ thủng về trách nhiệm ở đây cũng là rất lớn, chứ
không phải chỉ là vấn đề về tư cách con người hay về tham nhũng không thôi.
Chiến
lược thực tế
Bà
Phạm Chi Lan: Đó là điều rất đáng tiếc về phía chúng ta. Việc làm sao chống
được sự xâm lấn của hàng bên ngoài thì yếu tố quan trọng hàng đầu vẫn là sức
mạnh của chính mình.
Bệnh
thành tích
Nhà
báo Nguyễn Quang Thiều: Những điều mà bà Phạm Chi Lan nói về chiến lược xuất
khẩu ô tô, hoặc chúng ta sản xuất máy bay đã được thực tế chứng minh về tính
khả thi. Dự án ô tô Mê kông là một sự thất bại to lớn. Lịch sử đã chứng minh
người Việt rất cần cù, rất chịu khó, sáng tạo, khéo tay, quả cảm…, nhưng đôi
khi chúng ta cũng rất ảo tưởng.. Với chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta đang hão
huyền sinh ra bệnh thành tích. Ngày xưa ông cha ta căn cơ, chính xác, gọn ghẽ
đâu ra đấy. Nhưng chủ nghĩa thành tích đã sinh ra sự hão huyền, chạy theo thành
tích sẽ thế này thế kia… chúng ta phải rời bỏ điều đó, phải trở lại hiện thực
và làm một bát phở thật ngon, hãy may một cái áo thật đẹp…
Đã đến lúc chúng ta phải bỏ qua
tất cả những hình thức phù phiếm, tất cả những khẩu hiệu sáo rỗng, bánh vẽ giá
trị ảo để trở về cuộc sống thực tế, giá trị thực để đáp ứng nhu cầu.
Giải
pháp khả thi
Nhà
báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa bà Phạm Chi Lan cơn lũ hàng nhập ngoại xấu, kém
chất lượng, độc hại đang tràn vào Việt Nam đã lên đỉnh điểm chưa, hay sẽ tiếp
tục, hoặc giảm xuống?
Bà Phạm Chi Lan: Nó
như thế nào phụ thuộc vào thái độ của chính chúng ta. Nếu chúng ta bỏ lơ, coi
thường chuyện đó, các cơ quan Nhà nước vẫn cảm thấy dửng dưng không ý thức ngăn
chặn, bảo vệ cho đồng bào mình thì làm sao cơn lũ này chấm dứt được.
Hoặc truyền thông của chúng ta không dấy lên được tiếng nói mạnh mẽ để cổ động
cho hàng Việt Nam, biểu dương cho những doanh nghiệp hàng tốt như May 10, và
rất nhiều những doanh nghiệp khác, trân trọng người tiêu dùng trong nước thì
làm sao ngăn nổi cơn lũ này.
Nếu không cùng nhau
làm việc đó như một tính chất cả hệ thống thì cơn lũ đó chưa tới đỉnh điểm đâu,
sẽ tiếp tục đổ vào, tiếp tục tràn vào dữ dội hơn. Người ta đã có hẳn một kế
hoạch lớn, chiến lược lớn để làm điều đó, họ sẽ không dừng lại trừ khi chúng ta
biết tự vạch hướng đi cho mình, tự bảo vệ cho mình, đẩy làn sóng đó ngược trở
lại trả về phía bên họ.
Quả thực tôi lo lắng cơn
lũ này chưa đến đỉnh điểm, mà còn có thể tệ hại hơn nữa bởi vì chúng ta vẫn chưa
làm được gì nhiều để ngăn chặn.
Tôi nói vui với các doanh nghiệp là bây giờ biên mậu đã diễn ra ở tận thành phố
Hồ Chí Minh chứ không phải biên mậu ở Lào Cai, Lạng Sơn nữa.
Thực tế, người ta đã
vào tận thành phố Hồ Chí Minh để làm rồi, gần như tất cả các giao dịch diễn ra
ngay tại đó. Chỉ cần nhấc một cú điện thoại lên thôi là hàng hóa đâu vào đó.
Không khó để bắt gặp từng đoàn xe mang biển số của một quốc gia láng giềng có
thể vào đất Việt Nam đàng hoàng, thậm chí người nước họ cũng ra vào làm việc ở
đây tự do. Nếu chúng ta vẫn dễ dãi như vậy thì cơn lũ hàng giá rẻ, chất lượng
thấp còn tiếp tục dấn tới.
Tôi vừa từ Lục Ngạn (Bắc
Giang) về. Tôi đã chứng kiến một đoàn 65 thương gia Trung Quốc đang ở đó, tại những
cứ điểm để thu mua vải quả, và họ là người quyết định giá cả.
Chúng ta đã để đến
mức như vậy thì việc không tự bảo vệ được mình là do chính mình, mình vừa là
nạn nhân, vừa là tội nhân của việc đó. Mình không biết tự mình bảo vệ mình thì
nói được gì nữa. Nếu ta không có hành động từ cao nhất, làm quyết liệt thì các
doanh nghiệp phần nào phải bó tay.
Những gì được đặt ra tại
bàn tròn hôm nay đã phần nào động chạm tới những điều cơ bản và chi tiết, chúng
ta cũng đã nói ra tất cả những điều mang tính hệ thống, chiến lược. Nếu biết lắng
nghe, biết sửa mình thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, còn nếu vẫn chỉ là trách
nhiệm, là lợi ích cá nhân thì e rằng 50 năm nữa chúng ta lại ngồi lại đây, nói
lại những điều phiền muộn này. « (Tuần Việt Nam)
Được báo động về việc
Tuyên chiến này, Đại sứ quán Trung quốc tại Hà Nội, vẫn trịch thượng là quan
Thầy, nên đã cho Tùy viên Thương mại ra chỉ thị cho Truyền Thông và Doanh nhân
VN không được nói giọng tuyên chiến với hàng hóa Trung quốc. Chỉ thị này giống
như chỉ thị từ Bắc kinh ra lệnh cho CSVN phải đàn áp những người yêu nước Biểu
tình chống xâm lăng Hải đảo và Biển ngày nay.
2011:
Xâm lăng Kinh tế TQ
thành
nguy ngập cho Việt Nam
Tình
trạng Kinh tế tụt dốc của Việt Nam có nghĩa là sức kháng cự trở thành hoàn toàn
yếu kém trước xâm lăng của Trung quốc. Những lý do sau đây khiến cuộc Xâm Kinh
tế lúc này của Trung quốc càng gia tăng trước sức chống đối hoàn toàn yếu kém
của Kinh tế Việt Nam:
=>
Hoa kỳ và Liên Âu, hai Thị trường lớn cho hàng xuất cảng từ Trung quốc, hiện
nay đang gặp Khủng hoảng về nợ công. Dân chúng thất nghiệp tăng mạnh. Nợ công
và Thất nghiệp tăng có nghĩa là hai Thị trường giảm Mãi lực tiêu thụ. Nhưng
việc sản xuất của Trung quốc vẫn phải giữ để bảo đảm Độ tăng trưởng. Mãi lực
nội địa Trung quốc không những không tăng mà còn phải chịu cảnh Lạm phát lên
cao. Thêm vào đó các Thành phố Trung quốc, vì tham vọng Đô Thị hóa, nên hiện
nay mang nợ chất chồng. Mãi lực dân nội địa yếu kém, các Thành phố lại mang nợ
nần, nên việc tiêu thụ nội địa chắc chắn phải giảm xuống. Khi bí lối tiêu thụ
hàng hóa nội địa mà việc sản xuất vẫn phải giữ để tránh đóng cửa xí nghiệp, thì
hàng hóa thặng dư sẽ xì xuống Việt Nam.
Tác
giả ANH VŨ, ngày 15.07.2011, đã viết về nợ nần của các Thành phố tại Trung quốc
như sau:
“Cả
thế giới trong lúc này đâu cũng thấy người ta nói về chuyện nợ nần của các quốc
gia. Châu Âu, châu Mỹ đang hoảng loạn về công nợ lan truyền và cả châu Á với
những cường quốc mới nổi lên cũng không tránh được căn bệnh của sự phát triển,
đó là chi tiêu quá khả năng mình có.
Phụ
trang Le Figaro đăng các bài dịch từ tờ báo Mỹ New York Times hôm nay 15/7 có
bài viết về chủ đề này với tiêu đề « Trung Quốc cũng mắc nợ ».
Người
ta vẫn nghĩ Trung Quốc là nước có nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ lên tới 3.000
tỷ đô la thì không lo gì chuyện vay mượn hay vỡ nợ. Nhưng thực tế bùng nổ kinh
tế đang diễn ra ở Trung Quốc cho thấy nhiều dấu hiệu nước này cũng khó tránh
khỏi vòng nợ nần. “
Bài
báo đưa độc giả đến với Vũ Hán, thành phố lớn thứ chín của Trung Quốc. Cả thành
phố này là một công trường xây dựng đang chìm trong bụi mù. Theo tác giả bài
báo thì tại Vũ Hán, hiện có tới 5.700 công trình xây dựng đang được triển khai.
Trong đó phải kể đến các dự án đô thị hoá khổng lồ như đường tàu điện ngầm dài
hàng trăm kilômét, hai nhà ga sân bay, trung tâm thương mại, văn hoá và vô số
những tòa tháp cao ngất với tổng kinh phí lên tới 120 tỷ đô la. Nhưng theo tác
giả bài báo thì trường hợp Vũ Hán không phải là cá biệt. Từ nhiều năm nay hàng
chục thành phố khác ở Trung Quốc cũng đang lao vào cuộc chạy đua các dự án xây
dựng đầy tham vọng. Kết quả là ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy các chính
quyền địa phương đang đang phải mắc nợ lớn để chi phí cho tham vọng của mình.”
=>
Tình trạng thiếu vốn vì muốn thắt chặt Tín dụng lưu hành để chống Lạm phát phi
mã đang diệt doanh nghiệp VN và thả lỏng cho xí nghiệp Trung quốc thắng thế.
Phóng viên VŨ HOÀNG, RFA, ngày 15.07.2011, đã cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế
Trung quốc đang diễn ra như sau:
Doanh
nghiệp VN bất lợi trên sân nhà
Lãi
suất tiền vay trong nước quá cao đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt
là các doanh nghiệp Trung Quốc ngay tại VN.
Thiếu
vốn do lãi cao
Báo
chí trong nước mấy hôm nay liên tục đưa tin chuyện các doanh nghiệp Trung Quốc
ồ ạt vào Việt Nam thu mua các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, cà phê, hồ tiêu,
trái cây, thịt heo… khiến giá các mặt hàng này tăng vọt, trong khi các ngành hàng
trong nước lại thiếu hụt nguyên liệu trầm trọng. Và nguyên nhân của hiện tượng
này được cho là do hậu quả của việc lãi suất cho vay trong nước quá cao, gây
bất lợi cho chính các doanh nghiệp cần vay vốn.
Chuyện
lãi suất quá cao mà hiện tại các doanh nghiệp đang phải hứng chịu bắt nguồn từ
hậu quả của chính sách tài khoá thắt chặt, nhằm kiểm soát lượng vốn tín dụng
bơm vào nền kinh tế.
Trong
một lần trao đổi với đài Á Châu Tự Do cách đây không lâu, T.S Lê Đăng Doanh đã
từng nhận định:
"Hiện
nay doanh nghiệp rất thiếu vốn và vì thắt chặt tiền tệ thiếu vốn cho nên các
ngân hàng đã đẩy lãi suất tiền gởi tiết kiệm lên vượt trần của Ngân hàng Nhà
nước là 14% mà hiện nay đã lên tới 18%-19%. Vì vậy đã đẩy lãi suất cho vay lên
đến 28%-29% là một mức lãi suất quá sức chịu đựng của doanh nghiệp."
Thực
ra vấn đề chi phí cho hoạt động kinh doanh bị đẩy cao, do lãi suất tăng mạnh
cũng đã được đề cập nhiều, nhưng điểm đặc biệt ở thời điểm này là có thêm sự
tranh mua nguyên nhiên liệu từ phía Trung Quốc do họ có lợi thế hơn so với các
doanh nghiệp Việt Nam về mặt vốn liếng và khả năng tài chính, vì vậy khiến cho
những doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực thu mua nguyên liệu gặp
khó khăn hơn.
Theo
lời bà Trần Thị Miêng, Cục phó Cục chế biến Nông lâm thủy sản và nghề muối
(thuộc Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn) được báo VNmedia trích lại cho biết việc
Trung Quốc ồ ạt thu gom nông sản của Việt Nam đang là một vấn đề nổi cộm và gây
nhiều nhức nhối cho các doanh nghiệp, trong đó có ngành chế biến nông lâm thủy
sản.
Mặc dù mới điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, nhưng hiện tại lãi suất cho vay
thời hạn một năm tại Trung Quốc cũng chỉ dừng lại ở mức 6,65%. Trong khi đó, ở
Việt Nam, lãi suất cho vay từ các ngân hàng thuơng mại đã lên đến trên 20%. Rõ
ràng với chi phí cao như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh thu mua nông
sản, thủy sản của Việt Nam sẽ gặp bất lợi hơn rất nhiều so với các đối thủ khác
từ phía Trung Quốc.
Về
vấn đề này, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam nhận xét:
"Với
lãi suất 20-21%/năm thì kinh doanh mà nói, khó lòng có một hiệu quả nào mà giá
trị hàng hoá cao như vậy. Trung Quốc khi họ có tiền ứng ra trước thì đương
nhiên họ hiệu quả hơn rồi, mình thì phải cộng lãi suất, còn họ thì mang tiền
đâu lấy hàng đó, đương nhiên là họ lợi thế hơn rồi. Khách hàng Trung Quốc có
lợi thế hơn. Về mặt suy luận thì khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Xu hướng
chung là các doanh nghiệp Việt Nam thụt lùi và nhường chân cho họ rồi, họ có
thể mua thẳng của người dân, của những nhà cung ứng nhỏ, thì hiện nay họ đang
có lợi thế ấy."
Theo
lời ông Trần Văn Lĩnh, tổng giám đốc công ty Cổ phần thuỷ sản Thuận Phước ở Đà
Nẵng, được báo Sài gòn Tiếp thị trích đăng cho rằng thương nhân Trung Quốc tới
tận ao mua tôm, tới tận cảng cá chờ tàu cập bến và hình như lúc nào họ cũng mua
cao hơn một vài giá so với doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp thuỷ
sản miền Trung bị thiếu nguyên liệu trầm trọng do cạnh tranh không lại với
thương nhân Trung Quốc.
Không
chỉ dừng lại cạnh tranh thu mua nguyên liệu nhờ lợi thế về giá cả, các doanh
nghiệp Trung Quốc còn tận thu cả nguyên liệu kém chất lượng như tôm tạp chất,
về lâu về dài sẽ khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản bị liên luỵ do nhiều
sản phẩm thuỷ sản kém chất lượng như vậy lại có nguồn gốc từ Việt Nam xuất ra
khỏi biên giới.
Có
lẽ việc doanh nghiệp Trung Quốc tranh mua nguyên nhiên liệu của Việt Nam chỉ là
điểm khởi đầu, điều quan trọng là nằm ở chỗ trong tương lai, người nông dân
Việt Nam sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào các thương nhân Trung Quốc, khi họ đã chiếm
lĩnh thị trường đầu ra cho các sản phẩm nguyên nhiên liệu.
Một
lần nữa, ông Đỗ Hoài Nam lên tiếng cảnh báo, đến lúc đó Việt Nam sẽ mất tính
chủ động trong việc điều phối nguồn hàng trong tương lai:
"Trước
mắt, Trung Quốc họ có vốn thì họ hỗ trợ cho người nông dân bán được hàng tốt
hơn. Nhưng bất lợi là về lâu về dài, chúng ta sẽ quản lý như thế nào, nếu không
có người mua thì các doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ về giá, nước ngoài họ ép giá,
thì mình làm gì có gì để đối trọng, bằng cách nào để hạn chế bán hay bắt buộc
bán cho họ. Nguyên tắc của người nước ngoài lợi nhuận là trên hết chứ không
phải vì lợi ích của cộng đồng."
Nhưng
bất lợi là về lâu về dài, nước ngoài họ ép giá, thì mình làm gì có gì để đối
trọng. Nguyên tắc của người nước ngoài lợi nhuận là trên hết chứ không phải vì
lợi ích của cộng đồng.
=>
Vì tình trạng tụt dốc Kinh tế, cạn kiệt ngoại tệ (Đo-la), các Xí nghiệp VN như
bó buộc phải nhập hàng Trung quốc. Phóng viên NAM NGUYÊN, RFA, ngày 22.06.2011,
đã nói lên khía cạnh Nhập siêu và lệ thuộc Trung quốc như sau:
“Tình
trạng nhập siêu gây mất ổn định cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt nhập siêu từ
Trung Quốc. Nam Nguyên ghi nhận ý kiến chuyên gia về vấn đề này.
Sập
bẫy nhập siêu từ Trung Quốc
TS
Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập từ Hà Nội phân tích:
-
Vấn đề ở đây là cần phân biệt phần nhập siêu thuần túy thương mại và nhập siêu
có liên quan đến đầu tư. Hiện nay do nhiều lý do, Trung Quốc đang tham dự vào
việc đấu thầu và xây dựng theo thể thức EPC (Engineering procurement and
construction) là rất nhiều và Trung Quốc đã nhập cả trang thiết bị, nguyên vật
liệu thậm chí mang cả công nhân có tính chất phổ thông sang để xây dựng. Phần
này chiếm chủ yếu của các vật tư, trang thiết bị mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc
và đây là vấn đề rất đáng tranh cãi: tại sao lại phải nhập nhiều như thế từ
Trung Quốc, giao cho nhà thầu Trung Quốc những công trình có tính cách trọng
yếu
Thêm
vào đó có một số công trình không có vốn nên đã vay từ Quĩ hỗ trợ xuất khẩu của
Trung Quốc. Vay từ Quĩ này, tự nhiên sẽ phải chấp nhận mua trang thiết bị của
Trung Quốc và để cho nhà thầu Trung Quốc xây dựng và đấy là điều cần phải rút
kinh nghiệm cho tương lai.”
Chuyên gia Huỳnh Bửu Sơn, nguyên thành viên ban tư vấn cải cách kinh tế của thủ
tướng Võ Văn Kiệt vào thời kỳ đầu đổi mới thì nhìn nhận vấn đề theo góc cạnh
khác. Từ TP.HCM ông Sơn phát biểu:
-“Trong
quan hệ mua bán với Trung Quốc một trong những yếu tố khiến Việt nam mua hàng
Trung Quốc nhiều là vì hàng Trung Quốc giá rẻ hơn so với các thị trường khác.
Nếu không nhập từ Trung
Quốc thì sẽ nhập từ các nước khác thôi, cho nên giải quyết vấn đề nhập siêu của
Việt nam là một vấn đề mang tính cấu trúc của nền kinh tế, nghĩa là phải có
cách nào như nhiều chuyên gia nói rằng cần phải phát triển công nghiệp phụ trợ
chẳng hạn thì nó mới làm giảm bớt vấn đề phụ thuộc vào mua máy móc thiết bị phụ
tùng hoặc nguyên liệu phụ trợ.
Giảm
nhập từ Trung Quốc vấn đề sinh tử
Trong
cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Lê Đăng Doanh quan ngại khả năng bất ổn nhiều
mặt cho nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ tình trạng nhập siêu quá lớn từ Trung
Quốc. Ông nói:
-“Thực
tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm trên 100% nhập
Lễ
ký kết Hợp đồng sau khi Công ty China Huadian Engineering (CHEC) Trung Quốc
trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, hôm
30-06-2010.
Nhập
siêu của cả nước và chính phủ phải dùng số tiền xuất siêu ở các nơi khác để bù
vào số nhập siêu của Trung Quốc. Vì vậy giải quyết nhập siêu từ thị trường
Trung Quốc là một vấn đề sinh tử của nền kinh tế Việt Nam, nếu không làm được
việc đó thì không chỉ phụ thuộc vào thương mại mà trong tương lai gần đây Trung
Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân dân tệ và Việt nam không thể dùng
đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị trường khác để trang trải và sẽ phải vay nợ đồng
nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị phụ thuộc vào tài chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên
rất nhiều.”
Được
biết dệt may và da giày dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu 18 tỷ USD trong năm
nay nhưng là hai ngành phụ thuộc nguyên phụ liệu và thiết bị máy móc nhập khẩu
từ Trung Quốc. Ông Diệp Thành Kiệt Phó chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam đồng
thời là Phó chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM nhận định về khả năng Việt Nam
và Trung Quốc sử dụng nhân dân tệ trong thanh toán.
-“Nếu
phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la thì chúng
tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua giá cao hơn và bán ra giá thấp hơn do tỷ giá
hai đồng tiền.
Chúng
tôi cho rằng lệ thuộc vào đồng tiền nước ngoài ngay cả đồng tiền chính là đô la
thì cũng vẫn có mặt
Thí
dụ đồng tiền Việt Nam mất giá so với đô la thì có lợi cho xuất khẩu nhưng khi
nhập khẩu thì lại có vấn đề. Nếu hai chính phủ thỏa thuận với nhau sử
dụng nhân dân tệ trong thanh toán giữa Việt Nam và Trung Quốc thì tôi nghĩ
chính phủ Việt Nam sẽ có những giải pháp để cân bằng cán cân thanh toán cân
bằng giữa xuất và nhập khẩu không để cho doanh nghiệp Việt Nam chịu thiệt hại
lớn hơn là được lợi.”
Nếu
phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la thì chúng
tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua giá cao hơn và bán ra giá thấp hơn do tỷ giá
hai đồng tiền.
Khi
mà hoàn toàn nhập siêu từ Trung quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân Dân tệ,
thì Việt Nam trở thành như một Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
=>
Không những chỉ có việc xâm lăng Hàng hóa, rồi Tiền tệ, mà việc xâm lăng còn ở
việc di Dân Trung quốc vào Việt Nam để thành lập những Khu Công nghệ và Thương
mại Trung quốc chính trong nội địa Việt Nam. Thực vậy, theo Báo VN: “Thợ TQ
Tràn Ngập VN, Trả Lương Gấp 3 Thợ Việt… “
Nhiều
Phố Tàu dựng lên trên đất VN, bảng hiệu toàn tiếng Hoa ngữ
HAI
PHONG (VB) -- Hiện đang có hàng chục Phố Tàu mọc lên tại Việt Nam, theo một
bản tin từ báo Thanh Niên hôm 20-6-2011 cho biết.
Bản
tin báo nàY đã nêu lên một cuộc chiến biển người kiểu mới tại VN: “Lao động
nước ngoài tràn ngập Việt Nam: Tấp nập lao động phổ thông Trung Quốc.”
Điều
bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc lên tại VN, thí dụ như tại Hải Phòng và
Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng tiếng Hoa, không sử dụng tiếng Việt,
làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận mình y hệt như dân Tây Tạng bị dân Hán
tộc vào lấn ép, theo bản tin trên báo Thanh Niên.
Chưa
hết, báo này còn cho biết, nhiều công trường Trung Quốc trên đất VN sẵn sàng
thuê thợ mộc, thợï hồ người Việt nhưng trả lương chỉ bằng 1/3 lương thợ
Trung Quốc, chỉ vì tuy cùng làm một việc nhưng người kia biết nói tiếng Trung
Hoa với các ông chủ mới trên lãnh thôå Việt.
Báo
Thanh Niên hôm 20-6-2011 viết:
“Luật
không cho phép các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động (LĐ) phổ
thông là người nước ngoài. Thế nhưng, tại nhiều địa phương hiện vẫn tồn tại
hàng ngàn LĐ phổ thông nước ngoài, dù từ năm 2009 Thủ tướng đã yêu cầu các cơ
quan chức năng rà soát xử lý số LĐ này...
Phố
Trung Quốc bên hông công trường
Tại
Hải Phòng, Quảng Ninh, đi kèm một nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) do nhà thầu Trung
Quốc (TQ) đảm nhận là hàng trăm công nhân (CN) TQ đổ về. Cứ thế, xung quanh NM
những "phố Tàu" cũng xuất hiện, làm đảo lộn cuộc sống của người dân
địa phương.
Chạy
dọc con đường nối từ TP Hải Phòng ra bến phà Rừng, qua xã Ngũ Lão, H.Thủy
Nguyên, khách sẽ thấy bất ngờ bởi nơi đây mọc lên hàng loạt hàng quán với biển
hiệu chữ Tàu, đèn lồng treo đỏ rực. Một bà hàng nước chỉ vào khu nhà dành cho
CN TQ: “Hàng trăm CN người Hoa họ ở trong kia nên ngoài này mới biến thành một
góc phố Tàu thế chú ạ”.
Theo
số liệu từ Công an xã Ngũ Lão, hiện trên địa bàn xã có khoảng 300 người TQ đang
tạm trú, đại đa số là CN làm việc tại công trường NMNĐ Hải Phòng II.
Đi
dọc con đường nhỏ từ Ngũ Lão hướng về xã Tam Hưng, những biển hiệu chữ TQ màu
đỏ vẫn liên tục mọc lên, từ hàng ăn, quán massage chân cho đến dịch vụ cà phê,
cắt tóc...
Cũng
ghép cốt pha, buộc sắt...
Cách
những con "phố Tàu" ở Hải Phòng vài chục cây số, tại Đông Triều,
Quảng Ninh, hơn 700 CN nước ngoài đang làm xáo trộn cuộc sống của người dân bản
địa.
Chúng
tôi đến cổng NMNĐ Mạo Khê - Vinacomin (440 MW) tại xã Bình Khê, H.Đông Triều
khi trời đã chập choạng tối. Trên con đường nhỏ trước cổng NM, vài tốp CN TQ
cởi trần đi dàn hàng ngang chiếm nửa lề đường. Trong quán bia, một nhóm khác
oang oang tiếng xì xồ, vài người khạc nhổ bừa bãi.
Từ
đầu năm nay, khi công trường NM sôi động với lượng CN TQ về nhiều, cuộc sống
của dân cư quanh NM đã thay đổi đột biến. Khi trời tối, ánh đèn điện của biển
hiệu chữ Trung lập lòe chi chít, có những tấm biển đề song ngữ như
vịt quay, nhà hàng, có cả biển hiệu toàn chữ Trung khiến người Việt nhìn vào
đành... chào thua.
Hàng
trăm CN nước ngoài cũng tạo ra một số việc làm và thu nhập cho vài hộ gia đình
quanh NM qua việc cho thuê chỗ ở, bán quán..., nhưng họ lại khiến nhiều người
dân bản địa mất đi cơ hội có việc làm và nếu có việc cũng phải chịu thiệt thòi
vì không biết ngoại ngữ.
Anh
Lê Văn Hưng, nhà ở Bình Khê, người làm tại công trường đã nửa năm, chỉ sang một
người TQ bên cạnh: “Cậu này cũng làm ghép cốt-pha, buộc sắt như chúng tôi,
nhưng lương họ được gấp 3 lần, khoảng 500.000-600.000 đồng/ngày. Anh ta hưởng
lương cao vì anh ta là người TQ, chủ nói gì là hiểu. Chúng tôi không có phiên
dịch nên chỉ làm việc theo bằng các động tác tay, chân ra hiệu”...”
Như
thế, có phải đây là một cuộc chiến đa diện: tàu chiến TQ lấn biển, chiếm đảo...
trong khi cả biển người TQ tràn sang VN dựng lên các Phố Tàu? (VIETBAO)
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN
PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva 19.07.2011. Cập
nhật 13.02.2014
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.