Bối rối với
“giấy nợ” chủ quyền biển đảo
Từ cú
"nháy mắt của con sói Nga" đến những lời "đe dọa" từ Bắc
Kinh
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-13
2014-06-13
- In trang
này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958
Photo courtesy of
cpv.org.vn
Chính
quyền Việt Nam có vẻ bị động khi Trung Quốc lần đầu tiên ra đòn ngoại giao,
chính thức giải thích vấn đề giàn khoan HĐ 981 lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
Ban Ki-moon hôm 9/6 và xin lưu hành điều gọi là “Thư bày tỏ lập trường” về các
sự việc liên quan. Ngoài việc tố ngược Việt Nam gây hấn ở khu vực giàn khoan,
Trung Quốc đã công bố một số tài liệu được cho là quả đắng đối với Việt Nam, để
chứng minh chủ quyền đối với các quần đảo Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa, Trường
Sa theo tên Việt Nam.
Việt Nam không phản biện?
Ba ngày sau khi Trung Quốc có hành động phản
công ngoại giao tại Liên Hiệp Quốc, báo chí Việt Nam vẫn chưa đá động gì tới
những tài liệu mà Trung Quốc sử dụng làm vũ khí chống Việt Nam. Chẳng hạn như
Tập bản đồ Thế giới do Cục Đo Dạc và Bản Đồ-Phủ Thủ Tướng Việt Nam phát hành
năm 1972 đã dùng từ Tây Sa, Nam Sa thay vì Hoàng Sa Trường Sa. Ngoài ra còn có
sách giáo khoa địa lý lớp 9 của Nhà Xuất Bản Hà Nội ấn hành năm 1974.
Theo tài
liệu này học sinh lớp 9 ở miền Bắc đã được học rằng: “Vòng cung đảo từ
các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Đài Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành Hồ, Châu
Sơn… làm thành một bức trường thành bảo vệ Trung
Quốc…” Những tài liệu
này được phía Trung Quốc sử dụng như những bằng chứng để cụ thể hóa nội dung
công hàm Phạm Văn Đồng 1958. Tài liệu được hệ thống hóa khá chặt chẽ, để dẫn
tới kết luận phía Việt Nam trong quá khứ đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối
với các hải đảo trong đó có Tây Sa và Nam Sa mà nay lại vi phạm cam kết.
Trả lời chúng tôi vào tối ngày 12/6, TS Nguyễn
Nhã một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc tại Sài Gòn nói rằng,
nếu đã vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng bằng lập luận nào thì cũng có thể hóa
giải các tài liệu bản đồ hay sách giáo khoa địa lý lớp 9 mà nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa phát hành.
TS Nguyễn Nhã nhận định:
Tất cả các chính quyền có trách nhiệm quản lý
chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền thành thử ra những bằng chứng Trung Quốc đưa ra
không có giá trị pháp lý quốc tế.
-TS Nguyễn Nhã
-TS Nguyễn Nhã
“Công hàm Phạm Văn Đồng hay tất cả mọi thứ khác Trung Quốc nói
Việt Nam lật lọng. Trong đó có ông Ung Văn Khiêm tuyên bố thế nào, viên chức Bộ
Ngoại giao thế nào… sách giáo khoa, bản đồ thế nào… Theo tôi Hiệp định Genève
qui định rất rõ rồi, trong thời gian sau 54 cho đến 75 trong lãnh thổ cũng như
ngoài biển từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc về chính quyền phía Nam quản lý.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý, cho nên những điều như
Trung Quốc nói nó chỉ thể hiện vấn đề chính trị, quan hệ đồng minh đồng chí ủng
hộ cùng phe thôi.”
TS Nguyễn Nhã ủng hộ quan điểm cho rằng Việt
Nam thống nhất sau 30/4/1975 là không thuận ý Trung Quốc. Lúc đó chính quyền
hai miền, miền Bắc miền Nam đã hiệp thương với nhau thống nhất đất nước, bầu cử
Quốc hội và có một nhà nước mới.
TS Nguyễn Nhã nhấn mạnh:
“Nhà nước mới thống nhất này có tính chất pháp lý hoàn toàn khác
với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mặc dù nhà nước này cũng có một số nhân
vật trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó nhà nước thống nhất này
đã khẳng định chủ quyền, về ngoại giao năm 1979 có Sách Trắng khẳng định chủ
quyền Việt Nam về Hoàng Sa Trường Sa rồi và phản bác những gì Trung Quốc nói.
Như thế về tính pháp lý quốc tế, bất cứ chính quyền nào kể từ Chúa Nguyễn cho
đến Nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc, sau 1954 rồi sau 1975 thống nhất, tất cả
các chính quyền có trách nhiệm quản lý chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền thành thử
ra những bằng chứng Trung Quốc đưa ra không có giá trị pháp lý quốc tế.”
Khi báo chí Việt Nam do chính quyền quản lý đề
cập tới việc Trung Quốc lưu hành “Thư lập trường” về vụ giàn khoan HD 981, thì
hầu hết chỉ nhắc tới việc Trung Quốc vu vạ Việt Nam gây hấn ở khu vực giàn
khoan HD 981 chứ không cho biết các luận cứ và tài liệu của Trung Quốc, do vậy
cũng không có chi tiết nào về phản biện của Việt Nam.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh trả lời báo chí bên lề phiên họp Quốc hội ở Hà Nội chiều 12/6/2014.
Courtesy infonet.
Chiều 12/6 bên lề phiên họp Quốc hội ở Hà Nội,
Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nói với báo chí theo nguyên
văn của Tiền Phong Online: “Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp Quốc đã gặp Chủ tịch
Đại hội đồng Liên hợp Quốc thông báo cụ thể tình hình, đồng thời phản bác tất
cả thông tin trong những văn bản của Trung Quốc”. Ông Phạm Bình Minh không có
một lời phản biện nào về công hàm Phạm Văn Đồng hay Tập bản đồ Thế giới do Cục
Đo Đạc và Bản Đồ-Phủ Thủ Tướng Việt Nam phát hành năm 1972, trong đó đã dùng từ
Tây Sa, Nam Sa thay vì Hoàng Sa, Trường Sa; cũng như sách giáo khoa địa lý lớp
9 do Nhà Xuất Bản Hà Nội ấn hành năm 1974 mô tả Tây Sa, Nam Sa là thuộc chủ
quyền Trung Quốc.
Trò chuyện với chúng tôi, TS Trần Đình Bá
thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam hiện sống và làm việc ở Hà nội nhận định:
“Tôi cũng giống như mọi người dân mong muốn khởi kiện đấu tranh
pháp lý với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền đòi lại Hoàng Sa. Trung Quốc viện cớ
Hoàng Sa là của họ để coi giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Chuyện đó là sai, Hoàng Sa là của Việt Nam mà căn bản pháp lý từ Hội nghị San
Francisco tới Hiệp định Genève cũng xác định là của Việt Nam, rồi các bản đồ cổ
để lại xác định đó là của Việt Nam. Trung Quốc rõ ràng đã vi phạm vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam.”
Mắc tội với lịch sử?
Những ai không biết phát huy nội lực, không
biết biến thời cơ thành sức mạnh, không tranh thủ được sự đồng thuận của thế
giới thì lịch sử muôn đời sẽ nguyền rủa kẻ đó.
-Học giả Đinh Kim Phúc
-Học giả Đinh Kim Phúc
Ngày 12/6 TS Vũ Thị Phương Anh được Blog Quê
Choa đăng lại bài viết trên facebook. Theo đó, nữ Tiến sĩ kêu gọi Đảng và Nhà
nước Việt Nam nên chủ động cung cấp thông tin chính thức cho toàn dân về những
vướng mắc nếu có về biển Đông, và cùng nhau thảo luận những gì có thể làm vào
lúc này, những gì cần làm ngay để có thể đi thêm những bước sau, những gì không
thể làm vì nếu làm thì kết quả chỉ có thể tệ hơn. TS Vũ Thị Phương Anh cho
rằng, cần tận dụng trí tuệ và lòng yêu nước của toàn dân - một truyền thống vô
giá của người Việt - để bảo vệ đất nước, vì nếu không làm điều này thì tất cả sẽ
mắc tội rất lớn với lịch sử.
Học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển
Đông sống và làm việc tại TP.HCM từng nhận định là Việt Nam phải phát huy và
tận dụng sức mạnh đoàn kết toàn dân để đối phó với họa mất nước, mất biển.
Ông
nói:
“Bản thân Trung Quốc trong vấn đề biển Đông, không phải mới đây
thời Tập Cận Bình, hay trước đây thời Hồ Cẩm Đào mà Đặng Tiểu Bình đã định
nghĩa ‘chủ quyền thuộc ngã gác tranh chấp cùng nhau khai thác’, đây là phương
châm bất di bất dịch của Trung Quốc và Trung Quốc ôm mộng nuốt trọn biển Đông
cũng như biển Hoa Đông. Đừng ảo tưởng đối với Trung Quốc và cũng đừng ảo tưởng
đối với những cường quốc nào vào bênh Việt Nam, bảo vệ Việt Nam, vì mỗi cường
quốc họ đều có quyền lợi của họ. Việt Nam phải biết phát huy nội lực của mình
để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ. Còn những
ai không biết phát huy nội lực, không biết biến thời cơ thành sức mạnh, không
tranh thủ được sự đồng thuận của thế giới thì lịch sử muôn đời sẽ nguyền rủa kẻ
đó.”
Giàn khoan Trung Quốc HD 981 hạ đặt thăm dò
bất hợp pháp trên vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam kéo dài đã hơn
một tháng. Trung Quốc đã khoan thăm dò và dịch chuyển vị trí.
Các chuyên gia
nhận định Trung Quốc đang thực hiện một phép thử đối với Việt Nam, phép thử ấy
là một bước cụ thể để Trung Quốc chiếm cứ toàn thể biển Đông, đặc biệt là các
vùng biển đảo của Việt Nam.
Bản đồ do Phủ Thái Thú (Phủ TT) xuất bản
Nguồn: BBC-facebook
Đe dọa từ phương Bắc và xã hội dân sự Việt Nam
Biểu tình tại Nhà hát lớn thành phố, Hà Nội, 11/05/2014.
Ông Trương Văn Dũng (ở giữa), người mang khẩu hiệu "Tổ Quốc và Nhân Dân
đời đời ghi ơn anh hùng Ngụy Văn Thà và đồng đội".
REUTERS/Kham
Các vụ biểu tình tự phát và bạo động đã đưa lên sân khấu chính trị Việt Nam một nhân vật mới : xã hội dân sự, hay nói cách khác
xã hội của người dân thường, vốn chỉ được coi là các « công
dân hạng hai » trong một xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện. Nhiều người ghi nhận rằng từ 40 năm nay, ít nhất là từ cuộc chiến biên giới Việt – Trung năm 1979,
chưa có biến cố nào gây chấn động toàn quốc như vậy.
Sự kiện Trung Quốc đặt cố định giàn khoan tại vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam đầu tháng 5 này gây một làn sóng phẫn nộ chưa từng có. Đi kèm với nhiều cuộc biểu tình, tuần hành tại một số thành phố lớn, và địa phương, là bạo động tại một số khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài, gây thiệt hại về tài sản và cả nhân mạng, khiến dư luận quốc tế đặc biệt chú ý.
Giải thích về vai trò hàng đầu bất ngờ của « xã hội dân sự » trong biến cố này, nhiều nhà quan sát dễ dàng nhất trí với nhau ở một điểm. Chính sự bất lực của chính quyền Việt Nam trước hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc đã đưa xã hội Việt Nam đối mặt với thách thức căn bản nhất của mình : trách nhiệm của giới lãnh đạo (Đảng Cộng sản) trước toàn dân tộc. Nhiều ngày sau biến cố nói trên, chính
quyền mới có phản ứng dè dặt như thường lệ (không kể việc buộc phải đưa tàu kiểm ngư và cảnh sát biển ra khu vực giàn khoan để làm công việc phản đối không thể khác), các lãnh đạo cao cấp nhất mãi một tuần sau mới lên tiếng…
Phản ứng quyết liệt đầu tiên nhất tại Việt Nam, về mặt nguyên tắc, trước hành động gây hấn của Trung Quốc là các hội nhóm xã hội dân sự độc lập. Nhiều tuyên bố được các hội nhóm đưa ra để kêu gọi người dân xuống đường bày tỏ thái độ. Sau rất nhiều đắn đo, cất lên đặt xuống trong nội bộ Đảng, cuối cùng chính quyền mới quyết định « bật đèn xanh » cho cuộc biểu tình thể hiện lòng yêu nước đầu tiên diễn ra vào Chủ nhật 11/05, để rồi ít ngày sau đó ra
quyết định ngăn chặn biểu tình vào Chủ nhật 18/05, sau làn
sóng bạo động tại các khu công nghiệp.
Biến cố chính quyền Bắc Kinh cho đặt giàn khoan mới đây được nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra là một hành động mới đây nhất trong một loạt các hành động nguy hiểm của Trung Quốc tại Việt Nam, rất nhiều trong số đó được sự tiếp tay của những người được coi là thân Trung
Quốc trong giới chính trị Việt Nam. Chỉ đơn cử một số những hành động bị lên án nhiều như : cho thuê dài hạn các vùng đất chiến lược, ưu tiên cho thầu các công trình
công nghiệp trọng điểm quốc gia, để hàng hóa độc hại, kém chất lượng tràn ngập thị trường Việt Nam…
Sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan tại Biển Đông mà một số nhà nghiên cứu cho là bất ngờ, nhưng thực ra đó chỉ là sự tiếp nối hết sức lô gíc, không sớm thì muộn, của yêu sách đường Lưỡi bò 9 đoạn ôm trọn Biển Đông, của đe dọa thôn tính nốt quần đảo Trường Sa, của những lệnh cấm đánh bắt cá được đưa ra hàng năm, của bao lần đánh giết ngư dân, cướp phá tài sản trên tàu…
Sự bị động của Đảng Cộng sản và sự thống nhất của xã hội dân sự
Sự bị động có thể nói là tuyệt đối của Đảng Cộng sản, phản ứng rời rạc của chính quyền Việt Nam là một bằng chứng rõ ràng cho thấy người thực sự lo lắng đến vận mệnh đất nước, không chỉ trong những giờ phút lâm nguy, mà
quan trọng hơn là trước khi mối đe dọa xảy ra, không ai khác
hơn là những người dân. Mối đe dọa từ Trung Quốc đã được cảnh báo từ rất sớm bởi nhiều người dân thường, nhiều chuyên gia, nhiều giới chức trong chính quyền có lòng với đất nước. Kể từ năm 2007, khi hải quân Trung Quốc xả súng bắn chết ngư dân Thanh Hóa, rất nhiều cuộc xuống đường đã được tổ chức, nhưng phần lớn đã bị chính quyền đáp lại bằng trấn áp.
Điều khó lòng tưởng tượng đã xảy ra trong cuộc biểu tình 11/05, nhất là tại Hà Nội và Sài Gòn, khi
những người biểu tình bị trấn áp trước đây đã tuần hành bên cạnh những bạn bè, thân nhân của những người từng trấn áp họ, và có thể cả với chính một vài trong số những người đã từng trấn áp họ, với mục tiêu chung phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. Một xã hội của người dân đang cùng
nhau đứng lên khẳng định tiếng nói quyết định của mình trong việc bảo vệ nền độc lập và tự chủ dân tộc, không chỉ về lãnh thổ, mà còn trên tất cả các phương diện khác, không chấp nhận vị trí lệ thuộc, chư hầu của Bắc Kinh, điều mà rất nhiều người nhận thấy trên thực tế và qua thái độ thần phục của một bộ phận giới lãnh đạo hiện nay trước Trung Quốc.
Trong ngày biểu tình nói trên đặc biệt tại Sài Gòn, ngoài một số hành động hung bạo xảy ra chỗ này chỗ khác, có sự phân chia thành
các đoàn tuần hành có thành phần hoàn toàn khác nhau, được xác định qua tiêu chí xu
theo chính quyền hay không, thỏa hiệp với chính quyền hay không… Chủ đề « nỗi lo chia rẽ trong xã hội dân sự » này chúng tôi sẽ trở lại trong phần tiếp theo của tạp chí. Nhưng điều đáng chú ý trước hết là, cuộc biểu tình vừa qua là một biểu hiện hiếm hoi cho thấy sự thống nhất của xã hội dân sự Việt Nam, ít nhất trong một thời điểm, trước cảm nhận hết sức rõ ràng về mối đe dọa từ phương Bắc.
Xã hội dân sự là gì ? tại sao xã hội dân sự lại hệ trọng đến vậy ? những gì làm nên xã hội dân sự Việt Nam ?
Để chuyển đến quý vị đôi chút hiểu biết chung về xã hội dân sự, một khái niệm phức tạp, một lĩnh vực thường gây tranh luận trong giới chuyên gia, trước hết, xin mời quý vị nghe tiếng nói của nhà nghiên cứu Lữ Phương (xem chú thích
1).
1 - Vấn đề xã hội dân sự là một vấn đề lý thuyết chính trị rất là phức tạp. Từ xã hội dân sự này, nếu phân tích thì rất phiền phức và cần phải có nhiều thời gian. Nói đơn giản là thế này. Người ta dùng chữ xã hội dân sự, xã hội công dân, xã hội thị dân, có nhiều cách dịch từ civil
society. Nhưng về cơ bản đó là mối quan hệ giữa Dân và Nhà nước. Gọi đúng nó là xã hội dân, còn bên kia
là xã hội quan, xã hội Nhà nước.
2 - Về lịch sử, xã hội dân sự ra đời khi từ chế độ thần quyền, phong kiến chuyển sang một chế độ dân chủ, tức là Nhà nước do xã hội dân sự tạo thành, chứ không phải là do Mệnh trời, hay một đấng bậc nào ở trên áp xuống. Do dân đồng ý, một khế ước được tạo ra, những người đại diện cho dân phải tuân phục nó. Gốc rễ là dân quyết định tất cả. Nhà nước chỉ là biểu hiện bên trên thôi, sự thỏa thuận để cai trị, để thể hiện ý chí chung. Về nguồn gốc, đại thể là như vậy.
3 - Ở Việt Nam, Nhà nước này tự cho là đại biểu cho Nhân dân, là
của Nhân dân. Vai trò của dân không còn gì
nữa cả, trở lại một thời kỳ giống như thần quyền trước đây. Có một đấng bậc nào đó, quy luật nào đó ở ‘‘bên trên’’ chi phối và cải tạo, uốn nắn bên dưới. Tức là hoàn toàn phủ nhận xã hội công dân hay xã hội dân sự.
4- Bây giờ, do một quá trình phát
triển, do sự thất bại của mô hình xã hội chủ nghĩa Mác Lê-nin,
do đó người ta (giới lãnh đạo) đi đến làm kinh tế thị trường, giao lưu với thế giới, tự nhiên mở ra các điều kiện để xã hội dân phục hồi trở lại. Do các điều kiện sinh hoạt mới (đi đứng, làm ăn, học hành ở nước ngoài…), tự nó vùng vẫy. Nhất là nhờ các điều kiện kinh tế, xã hội dân sự ngày càng tạo sức ép lên trên Nhà nước, buộc Nhà nước phải có chuyển đổi trong chừng mực nào đó thích hợp với ý nguyện của xã hội dân này. Suốt thời kỳ từ 1986 đến giờ, sự tiến triển, phát triển của xã hội dân nó ngày càng
trở nên mạnh mẽ, càng ngày càng được khẳng định. Nhất là trong những năm gần đây, với cái sự suy sụp, yếu kém của ‘‘bên trên’’, tức là của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, thì giới lãnh đạo ngày càng phải mở ra với thế giới, dần dần đi đến thừa nhận kinh tế thị trường, thừa nhận thế giới bên ngoài. Không
còn một thế giới như cũ nữa, mà toàn bộ là thế giới thị trường, thế giới tư bản, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Cái xã hội dân sự này càng ngày càng
khẳng định vị trí của nó bằng rất nhiều hình thức, rất phong phú. Đầu tiên là nó tìm một cuộc sống, một sự khẳng định độc lập tự chủ, tự lập, không dính dấp gì với Nhà nước cả, tự lo lấy cái đời sống của mình, học hành buôn bán làm
ăn, đi đứng… Không cần phải cám ơn Đảng, cám ơn Bác gì nữa cả. Từ những khẳng định rất là cơ bản đó, họ dần dần hình thành các tổ chức khác, các hình
thái tập hợp khác, và nó có tác động là, trước hết là tách rời cái ‘‘bên trên’’, thứ hai là ép lên ‘‘bên trên’’, từ đó hình thành ra một sức mạnh buộc Nhà nước phải có những chánh sách thay
đổi.
5 - Tôi nghĩ, càng
ngày các hình thức đó càng phát triển và nó biểu hiện trước khi có hiện tượng giàn khoan Trung
Quốc đặt tại vùng biển Việt Nam. Đã có rất nhiều hình thức manh mún, chưa có được quy mô, nhưng đã biểu hiện trong các cuộc đấu tranh buộc Nhà nước phải chuyển đổi chính sách. Thí dụ như trước khi Nhà nước mở đèn xanh cho biểu tình, thì trước đó đã có những cuộc đấu tranh rất dữ, để mà đòi Nhà nước có một thái độ thích đáng trong
việc Trung Quốc bành trướng, xâm lăng chẳng hạn. Cuộc biểu tình vừa qua biểu hiện sức mạnh đó.
RFI xin chân thành cảm nhà nghiên cứu Lữ Phương, dù đang đau bệnh, đã dành thời gian để chia sẻ với thính giả về chủ đề xã hội dân sự và xã hội dân sự tại Việt Nam.
Có thể thấy, xã hội dân sự mang hai vẻ mặt, vừa là một xã hội trong đời sống thường nhật thì hoạt động độc lập, không dính đến guồng máy chính trị, nhưng trong những thời điểm cần thiết lại là sức mạnh quyết định vận mệnh đất nước, ở thời điểm đó người ta thường nói đến một xã hội công dân hay toàn
dân. Xã hội dân sự vừa là một bộ phận của xã hội, để phân biệt với Nhà nước, vừa là tuyệt đại đa số đông đảo người dân, những người mà - về nguyên tắc - nắm quyền quyết định vận mệnh đất nước, bằng việc cử ra những lãnh đạo tối cao điều hành quốc gia hay qua các cuộc trưng cầu dân ý. Tuy nhiên,
trong xã hội Việt Nam hiện tại, cả hai vai trò nói
trên, xã hội dân sự Việt Nam đều chưa được đảm nhiệm thực sự (hay chưa đảm nhiệm được).
Quá trình mà một xã hội dân sự tồn tại và phát triển trong một chế độ độc đảng như Việt Nam hẳn có nhiều điểm khác với mô hình xã hội lý tưởng gồm ba thành tố Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân sự mà ngày càng nhiều người kêu gọi thực thi ở Việt Nam.
Nỗi lo chia rẽ trong xã hội dân sự Việt Nam
Trong một đất nước mà xã hội dân sự đang một mặt ở trạng thái manh nha,
phân tán, mặt khác bị hệ thống chính trị thao túng, nỗi lo chia rẽ trong xã hội dân sự Việt Nam, là một thực tế đầy ám ảnh, thì làm thế nào đi tới một xã hội lý tưởng như vậy ?
Trong thời gian hơn một năm gần đây, phổ biến một quan điểm trong giới những người hoạt động vì dân chủ-nhân quyền cho rằng Nhà nước Việt Nam vốn không thừa nhận và mới bắt đầu xem xét, nghiên cứu để vận dụng xã hội dân sự trong tương lai (một người tiêu biểu cho ý kiến này là nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng) (xem
chú thích 3). Cũng trong thời gian này, đã xuất hiện hàng chục hội nhóm bảo vệ nhân quyền, có điểm chung là thành lập không cần được Nhà nước cho phép, thường được gọi chung là « các tổ chức xã hội dân sự độc lập ».
Trên thực tế, giới khoa học Nhà nước ở Việt Nam đã chú ý đến các tổ chức xã hội dân sự từ hơn mười năm nay. Không kể các tổ chức quần chúng mang tính
toàn quốc (như Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội cựu chiến binh…), được coi là các bộ phận ngoại vi của Đảng Cộng sản, còn có nhiều tổ chức mang tính dân sự nhiều hơn như Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, Hội người cao tuổi… Nhất là một loạt các hình thức trung tâm, hội nhóm hết sức đa dạng, gần như không nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, đặc biệt trong các lĩnh vực thiện nguyện vì các nhóm yếu thế, dễ tổn thương, như người nghèo, trẻ em, người bệnh, người tàn tật,… các tổ chức hoạt động vì môi trường.... Nhiều tổ chức dân sự vốn nằm trong hệ thống do Đảng kiểm soát cũng hoạt động ngày càng độc lập hơn…
« Diễn biến hòa bình », điều mà các thành viên
thủ cựu và độc đoán trong Đảng Cộng sản lo ngại trước đây, trên thực tế đã hiện hữu và âm thầm phát triển trong lòng thể chế toàn trị mục ruỗng, đang trong quá
trình tìm cách lột xác. Chấp nhận các tổ chức của xã hội dân sự và tìm cách « quản lý » chúng là một đòi hỏi của chính bộ máy Nhà nước, cũng đang trên đường thay đổi.
Trong một nghiên cứu của Viện khoa học tổ chức nhà nước (Bộ Nội vụ Việt Nam), năm 2010, về các tổ chức xã hội dân sự, có đoạn : « Ngày nay,
dân chủ hóa đời sống xã hội đang trở thành xu thế phổ biến ở hầu hết các quốc gia dân tộc, cường quyền và áp đặt bởi quyền uy đang ngày càng
bị phủ nhận và bị đẩy lùi. Đặc điểm đó mở ra một triển vọng rộng lớn cho hoạt động của các tổ chức xã hội ». Trước đó, năm 2006,
nghiên cứu « đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam » (do Civicus
– Liên
minh thế giới vì sự tham gia của các công dân) được công bố. Cũng vào năm này
Tiến sĩ Đặng Ngọc Dinh, đồng chủ trì chương trình trên, có lời kêu gọi được lưu truyền : « Đừng sợ xã hội dân sự ! ». Đối tượng của lời kêu gọi này có lẽ không ai hết ngoài thành phần sợ thay đổi trong Đảng.
Gần 10 năm trôi qua,
nỗi lo ngại dường như vẫn còn ám ảnh một bộ phận giới lãnh đạo. Với sự xuất hiện của các hội nhóm dân sự độc lập, bức tranh của xã hội dân sự Việt Nam giờ đây trở nên đa dạng hơn và sự đối kháng giữa các nhóm xã hội dân sự khác nhau có vẻ là một thực tế gây lo ngại ở một số người trong cuộc.
Mới đây, Tiến sĩ Phạm Gia Minh (xem chú
thích 2), một trong 72 trí thức nhân sĩ ký kiến nghị về Sửa đổi Hiến pháp 1992, trong
bài viết « Những ước vọng của một người dân », trong phần đề nghị cải cách thể chế chính trị có một nhận định rất đáng suy nghĩ về tình trạng hiện nay của xã hội dân sự Việt Nam.
« Ở Việt Nam XHDS (Xã hội dân sự) đang bị chính trị hóa bởi cả hai phía – Nhà nước thì quản lý chặt chẽ một hệ thống các Hội và Hiệp Hội nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị đề ra, trong khi đó
phong trào tự phát trong dân thành lập các tổ chức như Diễn đàn XHDS, Hội các bloger, Hội Dân oan v.v… nhìn chung cũng
mang nặng màu sắc chính trị và bầu không khí chung
là nghi kỵ và đối đầu nhau một cách không đáng
có ».
Một vấn đề hệ trọng mà Tiến sĩ Phạm Gia Minh đặt ra là có một không khí nghi kỵ và đối đầu giữa hai phía XHDS. Về vấn đề này, trả lời RFI, TS Phạm Gia Minh cho biết :
TS Phạm Gia Minh : "Phản bác sự ra đời của các tổ chức tự phát thường là cơ quan truyền thông, cơ quan tuyên truyền. Còn các hiệp hội ngành nghề, tôi không thấy là họ phản bác các tổ chức như thế này. Lập ra diễn đàn để góp ý về kinh tế, hay là giúp những người tàn tật.
Tôi chưa thấy có một tổ chức chuyên môn nào của Nhà nước lập ra mà lại lên tiếng phản bác người anh em của mình, thuộc diện ngoài quốc doanh. Hoặc có thể có nhưng hiếm. Chủ yếu (phản bác) là trên báo
chí".
Nguồn gốc gây nghi kỵ giữa hai phía XHDS trước hết và chủ yếu do hệ thống truyền thông do Đảng kiểm soát như nhận định của TS Phạm Gia Minh và các quan
sát cho thấy. Tuy nhiên, hệ quả của việc tuyên truyền dẫn đến các nghi kỵ và đối đầu ở các tổ chức thuộc hai phía XHDS (như nhận định của TS Phạm Gia Minh) cụ thể như thế nào, đến mức nào là một hiện tượng rất cần được soi tỏ.
Một nhận định quan trọng khác của Tiến sĩ Phạm Gia Minh là « Về bản chất XHDS là “khoảng đệm" hay không
gian trung lập giữa Nhà nước và nhân dân nên
chỉ khi nào phục vụ mục đích dân sinh và
phi chính trị thì XHDS mới thực sự phát huy chức năng vốn có của nó ».
Tuy nhiên, bản thân các tổ chức ngoại vi của Đảng lại đứng trước thực trạng bị tha hóa trầm trọng. Sau đây là một số nhận định của Tiến sĩ Phạm Gia Minh :
TS Phạm Gia Minh : "Về mặt nguyên tắc, các hiệp hội do Nhà nước lập ra cũng là những hội ngành nghề, hội giải quyết các vấn đề cuộc sống bình thường, nghe thì đều là vì Dân sinh, về mặt nguyên lý là như thế, về mặt điều lệ đều là như thế cả.
Thế nhưng hình như các tổ chức này bị xơ cứng, bị xơ cứng theo mô hình
chính trị xô viết, thiếu tính dân chủ, thiếu hơi thở cuộc sống. Nó mang tính chất quan liêu nhiều. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà những vấn đề thực tiễn cuộc sống, như giống lúa ra sao, vấn đề nông thôn, nông nghiệp (hiện giờ tại sao người nông dân không đưa khoa học, kỹ thuật vào cuộc sống được), rồi là tại sao để thương lái Trung Quốc sang tung hoành
mua bán lung tung, gây ra các thảm họa về nông nghiệp như thế… Vai trò của các hội khoa học về nông nghiệp tại sao không thấy đâu cả ? Bởi vì cách hoạt động của các hội đó nó xơ cứng !
Hay là vấn đề người nông dân bị mất đất, tại sao không thấy họ lên tiếng bảo vệ ? Rồi vụ anh Đoàn Văn Vươn hay rất nhiều vụ người dân mất đất khác, sao không
lên tiếng ? Hay các vấn đề dân sinh trong các
khu công nghiệp họ lương bị thấp, rồi chủ nó cúp tiền, rồi là vấn đề tệ nạn trong công nhân,
vấn đề an sinh xã hội cụ thể của họ, ký túc xá… Tổ chức Công đoàn cũng xơ cứng không bảo vệ họ được đúng nghĩa của nó ! ".
Một khi đã bị xơ cứng, quan liêu hóa,
các tổ chức được mệnh danh là XHDS làm
thế nào có thể được coi là thuộc về XHDS, các tổ chức bị Nhà nước hóa là tên gọi chính xác nhất để nói về những trường hợp như vậy.
Cần phải nhấn mạnh là điểm mới của làn sóng các phong trào dân sự-dân chủ độc lập với Nhà nước ra đời gần đây là đối lập trực diện với không những nhiều « chủ trương lớn » của Đảng, bị đánh giá là sai lầm tai hại, mà nhiều lúc còn đối lập thẳng với nền tảng căn bản của chế độ độc tài độc đảng. Sự ra đời của phong trào này là
để trả lời cho các thách thức xã hội, mà nhiều tổ chức dân sự trước đây đã bất lực hoặc không dám đề cập tới : như dân oan mất đất, người dân bị công an bức hiếp, những người có tiếng nói trái với chính quyền bị bỏ tù, bị hành hạ, bộ máy tư pháp không đủ năng lực để bảo vệ công lý…
"Dân sinh"
phải đi cùng cải cách chính trị
Tuy nhiên, không phải tất cả các tổ chức dân sự tồn tại trước làn sóng xã hội dân sự độc lập một hai năm mới đây, đều bị Nhà nước hóa. Một số thực tế cho thấy, cũng có không ít tổ chức đã đi theo được tôn chỉ phục vụ mục tiêu Dân sinh, mà
Tiến sĩ Phạm Gia Minh mong muốn.
Làm thế nào để các tổ chức xã hội dân sự có vị thế « độc lập » rất lớn với Nhà nước này có thể tìm được tiếng nói chung với các tổ chức dân sự khác ?
Tiến sĩ Phạm Gia Minh nhấn mạnh đến việc cần đề cao các mục tiêu dân sinh,
thay vì các mục tiêu xa vời khác, đây là điều mang lại cơ may cho việc xích lại gần nhau giữa hai phía XHDS.
Tuy nhiên, thực trạng Việt Nam hiện nay cho thấy, để làm được tốt những việc Dân sinh dù là đơn giản, thường thì không thể không tác động đến thể chế (trong trường hợp không nhận được bảo trợ từ phía chính quyền), và đó không phải chỉ là việc của giới trung gian, có chức quyền, hay các nhân sĩ,
trí thức, mà đó còn là công việc của toàn dân, của toàn thể xã hội dân sự. Phong trào chống dự án khai thác
bauxite ở Tây Nguyên theo cam kết của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc, sở dĩ có được tiếng vang và đã thuyết phục một phần giới lãnh đạo, chính là vì vừa cụ thể, vừa nhằm vào cái gốc rễ thể chế này.
Việc thay đổi luật chơi, cụ thể là khẩn trương ra các luật để thực thi các nguyên tắc về nhân quyền và quyền công dân trong Hiến pháp là công cụ hữu hiệu để tạo thuận lợi cho các tổ chức xã hội dân sự thực hiện được các mục tiêu Dân sinh, điều này cũng sẽ đồng thời giúp cho việc tiến hành nhanh chóng
các cải cách thể chế chính trị mong muốn.
Trước các đe dọa ngày càng gia
tăng từ Trung Quốc và thái độ cho đến nay vẫn tỏ ra là không xứng tầm của chính quyền để giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản, sự tự thức tỉnh và hướng đến đoàn kết của mọi thành phần trong xã hội dân sự Việt Nam ắt hẳn là vấn đề cấp thiết, « Mồi lửa đã ở dưới đống củi » như lời nhà báo Huy Đức trong một bài viết mới đây.
RFI xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Gia Minh và nhà
nghiên cứu Lữ Phương.
--
(1) Học giả Lữ Phương nguyên là một thứ trưởng trong chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam, ông đã từ bỏ chính quyền cộng sản, để dành toàn bộ phần còn lại của cuộc đời để nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lê nin, cột trụ trong hệ tư tưởng chính thống của đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là của chế độ Việt Nam hiện hành. Xã hội dân sự là đề tài mà ông hết sức quan tâm.
(2) Tiến sĩ Kinh tế học Phạm Gia Minh là Phó Tổng thư ký Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài.
(3) Có thể tham khảo hai bài "Phạm
Chí Dũng: Đảng
Cộng sản VN đang dần phải thừa nhận xã hội dân sự" và "Nhà báo Phạm Chí Dũng: Phong trào dân sự tại Việt Nam đã chín muồi".
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.