Thay đổi kinh tế hay thay đổi chính trị?
Nguyễn Quang Duy - Trên Diễn đàn BBC ngày 7-5-2014, Luật sư Ngô Ngọc Trai
cho rằng nguyên lý thị trường thực chất là lẽ công bằng trong địa hạt kinh tế
và để phát triển kinh tế thì phải duy trì động lực cố gắng của các doanh
nghiệp, bảo vệ lẽ công bằng hay tôn trọng các nguyên lý thị trường.
Luật sư Trai cho rằng dựa trên định hướng xã
hội chủ nghĩa nhà cầm quyền Việt Nam lấy thẩm quyền quản lý điều tiết nền kinh
tế, liên tục tác động vào thị trường, hệ quả là nền kinh tế yếu kém và vì thế
để phát triển xã hội cần phải có một “chủ thuyết” kinh tế mới cho Việt Nam.
Đến ngày 7-6-2014 trong kỳ họp Quốc hội thứ 7 -
khóa XIII bà Trương Thị Mai Ủy viên Thường vụ Quốc hội, Chủ Nhiệm Ủy Ban Các
Vấn Đề Xã Hội, đánh giá và đưa ra nhận định sự chênh lệch giàu nghèo đang có xu
hướng gia tăng.
Nhìn từ góc cạnh xã hội chúng ta sẽ thấy rõ hơn
vai trò của chính phủ trong việc phát triển kinh tế xã hội và từ đó có thể thấy
cần thay đổi kinh tế hay chính trị.
Quan hệ chủ thợ
Người chủ doanh nghiệp có tiền vốn, có công cụ
sản xuất, có quyền quyết định đầu tư sản xuất, quyền thuê mướn lao động, quyền
tối thiểu chi phí để tối đa lợi nhuận. Trong khi ấy người thợ chỉ có sức lao
động để trao đổi cho cuộc sống cá nhân và gia đình.
Ở các doanh nghiệp sản xuất nhỏ, chủ và thợ còn
có thể tự thương lượng và thỏa thuận các điều kiện để hai bên cùng có lợi. Khi doanh
nghiệp mở rộng hơn quan hệ này dần dần mất đi.
Ở các quốc gia dân chủ người thợ tham gia các
công Đoàn, tạo một tiếng nói chung, thương lượng cho quyền lợi chính mình.
Ở Việt Nam Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam là
tổ chức duy nhất được phép tổ chức các vụ đình công và được đứng ra bảo vệ
quyền lợi của người lao động. Theo báo cáo của tổ chức này, từ năm 1995 đến hết
năm 2012, cả nước xảy ra 4,922 cuộc đình công, trong đó: doanh nghiệp nhà nước
xảy ra 100 vụ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xảy ra hơn 3,500 vụ; doanh
nghiệp tư nhân xảy ra gần 1,300 vụ.
Hầu hết các cuộc đình công là do doanh nghiệp
trả lương thấp hoặc còn nợ lương, trả lương làm thêm quá thấp hay không trả
lương làm thêm, điều kiện lao động không được bảo đảm, bữa ăn trưa kém phẩm
chất, không được ký hợp đồng lao động hay không đóng bảo hiểm xã hội. Nói chung
là vì quyền lợi lao động.
Hầu hết các cuộc đình công các chủ doanh nghiệp
đã nhượng bộ đòi hỏi của công nhân, chứng tỏ các doanh nghiệp bóp chẹt hay bóc
lột người lao động. Điều cần nói là tất cả các cuộc đình công đều tự phát, bất
hợp pháp hay Tổng Liên Đoàn luôn đứng bên ngoài các cuộc đình công.
Điều này không lạ vì Tổng Liên Đoàn và các Công
Đoàn cơ sở chỉ là những tổ chức ngoại vi nhằm thực hiện các kế hoạch, đường
lối, nghị quyết và chỉ thị của đảng Cộng sản. Thậm chí Công Đoàn được chủ trả
lương nên gần như đứng về phía chủ hơn là phía công nhân.
Đời sống công nhân thì càng ngày càng khó khăn, lạm
phát gia tăng, thu nhập giảm sút, người công nhân chỉ còn hai cách hoặc nghỉ
việc hay phải liên tục đình công. Một số các cuộc đình công đã biến thành bạo
động, cảnh sát phải giữ an ninh và thậm chí đánh công nhân đến trọng thương.
Việc đình công tự phát sẽ được giải quyết khi
Việt Nam có những công Đoàn tự do và độc lập. Người thợ có quyền tự do gia nhập
các công Đoàn, được tự do chọn lựa và bầu ra ban đại diện công Đoàn, để họ đứng
ra thương lượng cho quyền lợi công nhân. Và khi ấy chính giới chủ doanh nghiệp
cũng không dám vi phạm luật pháp quốc gia.
Công Đoàn và Chính Phủ
Khi nền kinh tế mở rộng, với đầu tư và giao
thương quốc tế, việc bóc lột lao động tại một nước đồng nghĩa với việc giảm
cạnh tranh lao động tại nước khác và tạo ra thất nghiệp tại nước này. Bởi thế
công Đoàn các nước thường liên kết thêm sức mạnh tạo sự công bằng cho công nhân
trên toàn thế giới.
Gần đây hai tổ chức công đoàn lớn ở Hoa Kỳ:
AFL-CIO và Communications Workers of America đã cùng hằng trăm dân biểu Hoa Kỳ
đồng tuyên bố Việt Nam không hội đủ tiêu chuẩn để tham gia Hiệp Định Xuyên Thái
Bình Dương (TPP) vì Việt Nam không tôn trọng quyền tự do lập công đoàn độc lập.
Nói rõ hơn họ ngăn chặn Việt Nam gia nhập TPP
không phải vì quyền lợi của người công nhân Việt Nam, mà vì họ muốn giảm thiểu
ảnh hưởng từ sự bóc lột lao động tại Việt Nam, tạo công bằng cạnh tranh và giữ
công việc cho công nhân tại Hoa Kỳ.
Việc đình công tại Việt Nam không phải chỉ giới
hạn giữa chủ doanh nghiệp và công nhân. Vào đầu năm 2006 cuộc Tổng Đình Công
với hằng trăm ngàn công nhân đồng lọat tham dự đã buộc thủ tướng Phan Văn
Khải phải ký chỉ thị tăng mức lương tối thiểu cho công nhân thêm 40 phần
trăm.
Vai trò của chính phủ là đề ra những chính sách
mang lại lợi ích cho người dân, rõ ràng “mức lương tối thiểu” chưa hay không
mang lại lợi ích thiết thực cho tầng lớp công nhân Việt Nam.
Trên thương trường không phải lúc nào người chủ
cũng đầu tư một cách khôn ngoan sáng xuốt. Khi người chủ thua lỗ phải đóng cửa
người thợ sẽ lâm vào tình trạng thất nghiệp.
Kinh tế thị trường cũng thường xuyên bước và
những chu kỳ suy thoái ảnh hưởng trực tiếp đến tầng lớp công nhân.
Vai trò của Công Đoàn là vận động các đảng chính
trị để chính phủ phải đề ra những chính sách mang lại lợi ích thiết thực cho xã
hội, cho tập thể công nhân.
Vì thế Công Đoàn cần phải độc lập với các đảng
chính trị để có thể sử dụng sự độc lập và sức mạnh tập thể công nhân ảnh hưởng
đến các chính sách quốc gia.
Chính Phủ đối với các
Tầng Lớp Khác
Trong quá trình sản xuất các doanh nghiệp thường
không tính đến môi trường bị hủy hoại ảnh hưởng đến sức khỏe của người thợ và
của các cư dân trong vùng. Môi trường bị hủy hoại còn ảnh hưởng đến nhiều thế
hệ nối tiếp, tạo ra những nỗi bất công truyền kiếp cho dân nghèo.
Nhìn rộng hơn việc chính phủ trợ giúp cho một
tầng lớp nhất định, dễ tạo ra bất công cho các tầng lớp khác. Như phát triển kỹ
nghệ và đô thị gần đây tạo ra nạn dân oan mất đất hay không được bồi hoàn một
cách thỏa đáng. Dẫn đến các cuộc biểu tình, những cuộc đàn áp, liên tục tạo ra
những bất ổn xã hội.
Nhìn xa hơn một xã hội được ổn định phát triển
khi mà đời sống của toàn dân được nâng cao và khoảng cách chênh lệch giàu nghèo
được giới hạn. Muốn thế năng xuất lao động phải cao, giáo dục và đào tạo phải
đúng tầm, vệ sinh y tế phải được quan tâm, an sinh phải được bảo đảm… và nhất
là tự do dân chủ cần được thăng tiến. Muốn đạt được như thế Việt Nam cần:
Thứ nhất, một xã hội dân sự gồm các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, tổ chức dân sự được hình thành và phát triển, để tạo sức
mạnh vận động các đảng chính trị đề ra những chính sách phát triển quốc gia.
Các tổ chức này cần độc lập với các đảng chính trị để có thể sử dụng sự độc lập
và sức mạnh tập thể ảnh hưởng đến các chính sách quốc gia.
Thứ hai, một môi trường chính trị lành mạnh gồm
sự phát triển của các đảng chính trị cạnh tranh quyền lực qua những chính sách
quốc gia và cầm quyền qua những cuộc bầu cử tự do và được sự tín nhiệm của
người dân.
Mặc dù cả hai nhóm có những khác biệt về quyền
lợi và phương cách hoạt động nhưng đều có chung một mục đích là phát triển kinh
tế xã hội và quốc gia.
Nói tóm lại việc thay đổi kinh tế Việt Nam chỉ
là điều kiện cần, thay đổi chính trị mới là chính điều kiện đủ, để đưa đất nước
đi lên đồng thời tạo một xã hội công bằng và thịnh vượng.
Melbourne Úc Đại Lợi
19/6/2014
Hãy tỉnh táo để nhìn Đảng
Cánh Cò, viết từ Việt Nam
2014-06-20
2014-06-20
Cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng trong đám tang Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 15/9/1969 tại Hà Nội.
AFP photo
Người dân Việt Nam trong hơn tháng qua kể từ ngày Trung Quốc ngang nhiên kéo
giàn khoan vào sâu trong vùng biển đặc quyền kinh tế, mỗi người một cách biểu lộ phản ứng của mình. Đến người hiền lành nhất cũng cảm nhận bị đe dọa bởi quân xâm lược. Ra chợ sẽ thấy, những khuôn mặt lấm lem của người mua gánh bán bưng luôn loáng
thoáng nỗi lo âu chiến tranh và trong ngôn ngữ thường ngày người ta không ít lần nghe đến hai chữ "giàn
khoan" cùng hàng ngàn bàn tán.
Những bàn tán rất đời thường trong quán cà
phê, nơi công sở thậm chí ngay trong
các bàn tiệc quan hôn tang tế lộ ra một điều: mọi sự đã phơi bày trước bàn dân thiên hạ về ý đồ xâm lăng của Trung Quốc. Khởi đầu thì người ta lo ngại, dần dà là sự tức giận và cuối cùng là cay đắng, xấu hổ.
Lo ngại vì Trung Quốc mạnh và tham vọng bá quyền. Tức giận vì Việt Nam gần như cô độc trong vùng, ngoại trừ Philippines, số còn lại trong khối ASEAN hầu như im lặng không một lời phê phán. Và cuối cùng là cay đắng, xấu hổ khi Trung Quốc công bố một loạt những bằng chứng về Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958.
Sách giáo khoa địa lớp 9 của Việt Nam xuất bản năm 1974 rồi bản đồ thế giới do Cục Đo đạc Bản đồ Việt Nam in năm 1972
công nhận Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung Quốc. Cả nước chết lặng, cổ đắng họng khan, nghẹn ngào khi biết ra rằng cả một hệ thống cầm quyền từ xưa tới nay đã lạc vào mê hồn trận do Trung Quốc sắp đặt.
Câu hỏi từ mấy năm qua: tại sao không đem Hoàng Sa - Trường Sa vào sách giáo khoa đã có lời giải. Một lời nguyền thì đúng hơn, bởi nó chứa đựng một chính sách nhất quán sai lầm của nhiều đời Tổng Bí thư. Ngay cả Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
không nhận ra lòng tham vô tận của người anh em mà ông ăn
nằm và tin cẩn như ruột thịt.
Ruột thịt ấy đã quay mặt với ông từ lâu và đến hôm nay thì giọt nước cuối cùng trong chiếc ly đen tối mang tên hữu nghị đã rơi xuống đất.
Kinh thánh Thiên chúa giáo có nhân vật Giu Da cả gan bán Chúa cho
quân Do Thái để lấy 30 đồng bạc sao mà giống câu chuyện của Đảng cộng sản Việt Nam công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc đến thế.
Giu Da lập luận rằng Chúa của ông là quyền năng vô tận không một thế lực nào có thể bắt và giết ngài, vì vậy lừa bọn Do Thái để lấy 30 đồng bạc là một hành động thông minh có
khi còn được khen thưởng. Giu Da không ngờ ý Chúa đã muốn cứu chuộc nhân loại và hành động của y như một bài học cho con người về sự phản phúc chứ không thể xem là khôn
ngoan.
Ông Phạm Văn Đồng rơi đúng vào trường hợp này khi nghĩ rằng ký công hàm
không phải là xác nhận chủ quyền vào tay Trung Quốc. Chữ ký ấy chỉ có ý nghĩa làm
vui lòng một thế lực đang giúp Việt Nam chiến đấu chống Mỹ và do đó có thể cho là một sự khôn khéo của ngoại giao.
Ông Đồng và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi theo vết xe của Giu Da bán Chúa.
Thay vì bán một thánh nhân thì
ông và Đảng cộng sản đã đem đất nước ra đặt cược với Trung Quốc. Từ tờ công hàm ấy, Việt Nam trượt dài dưới áp lực của phương Bắc để có thêm hai hành
động mê muội theo sau khiến Trung Quốc không dại gì mà không khai
thác.
Ba chi tiết dẫn đến mất nước ấy không ai có khả năng phản biện vì càng cố phản biện thì sự ngụy biện càng lộ rõ hơn.
Bây giờ thì mọi câu hỏi trong quá khứ đã có lời giải thỏa đáng. Đảng và nhà nước Việt Nam ý thức công hàm Phạm Văn Đồng là lưỡi gươm Damocles luôn lơ lủng trên đầu nên khi dân
chúng biểu tình chống Trung Quốc thì chính quyền đàn áp không thương tiếc. Hàng hóa Trung
Quốc tràn ngập do nhà nước cố tình làm ngơ. Nhà thầu Trung Quốc chiếm mọi cuộc thầu lớn nhỏ, nhập siêu của Trung Quốc mỗi năm mỗi cao hơn...là những biểu hiện lấy lòng để Trung Quốc quên đi chuyện cũ...
Thế nhưng Việt Nam mới là kẻ mau quên. Quên Trung Quốc là một anh bạn lật lọng và sẵn sàng làm mọi chuyện để đạt mục đích của họ. Nhường nhịn như vậy nhưng Việt Nam vẫn không bịt được mồm của một kẻ quen thói lu loa nhất là lu loa để lấy hết biển Đông thì dù có làm hơn thế trăm lần Trung Quốc cũng sẽ theo đến cùng cuộc chiến tranh mồm mép.
Còn một chút niềm tin vào Chủ nghĩa Xã hội cũng bị Trung Quốc dày xéo lên
luôn, thế là Đảng và nhà nước Việt Nam đành quay mặt vào... nhau tìm
phương kế thoát ra tiếng xấu ngàn đời.
Báo chí rõ ràng không dám đổ tội cho Phạm Văn Đồng, vì làm như thế là chấp nhận công hàm bán nước. Nhưng dù không chấp nhận cũng khó mà
tranh cãi giữa tòa án quốc tế, nơi bài học Giu Da bán Chúa
đã được các ông bà thẩm phán người phương Tây thuộc lòng từ khi mới sinh ra.
Những bằng chứng ấy phải được can đảm chấp nhận và biện pháp duy nhất giải độc nó là nhận lỗi trước nhân dân cả nước về sai lầm này.
Nhận lỗi không phải để tiếp tục cầm quyền mà phải rút lui ra khỏi cương vị hiện nay vì tất cả các ông/bà trong Bộ chính trị không ai xứng đáng đại diện cho nhân dân Việt Nam cả. Liên đới trách nhiệm buộc những người đang đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản Việt Nam phải thấy đó là sự sỉ nhục chung không thể bào chữa. Nếu còn lương tri hãy vứt thẻ đảng để lo cứu nước còn hơn ôm một mớ ảo tưởng ngồi đó chờ ngày người dân đến tước thẻ của mình.
Nếu sau chiến tranh đảng viên được cho là những người có công với cách mạng, đất nước thì công hàm Phạm Văn Đồng và sách giáo
khoa, bản đồ do Việt Nam phát hành phải được xem là hành động làm cho mất nước. Người đảng viên đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản không thể vô can và vì vậy không được tiếp tục nhắm mắt đi theo đường của đảng vẽ ra, kể cả con đường chống giặc Tàu nếu có.
Khi chữ Đảng không còn linh thiêng nữa thì hãy trở về với lòng yêu nước còn sót lại hiếm hoi trong tim các vị. Đã đến lúc phải chấp nhận rằng Đảng không còn chút
giá trị gì khi nhận vai trò lãnh đạo chống ngoại xâm. Chính Đảng mới là lực cản của toàn bộ sức mạnh dân tộc.
Đảng không còn tỉnh táo để hướng dẫn bất cứ ai vì ngay người nắm vận mệnh của nó đã không còn
đủ sáng suốt từ nhiều năm qua.
Hãy nhìn ông Nguyễn Phú Trọng thì thấy ngay mặt trái của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Hơn ba triệu đảng viên Cộng sản dưới quyền của ông Trọng đã có phát biểu nào cho ra hồn khi chính ông thủ lĩnh không thèm nói một lời chống giặc?
Hay ông chờ cho tới ngày 15 tháng
Tám khi giàn khoan 981 rút đi vì bão tố, sóng dữ thì trở lại vai trò nhạc trưởng, đưa chiếc gậy chỉ huy lên cho toàn
đảng của ông cất lên bài ca núi liền núi sông liền sông, Việt Nam luôn trọng tình hữu nghị?
Cánh Cò, Việt Nam 18/06/2014
*Nội dung bài viết không nhất thiết phản ảnh quan điểm của RFA.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.