Ba Khuynh Hướng Văn Hóa-Chính trị Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc
Công
lao gì đảng cộng sản !..ngoại lai, tội ác, phi dân tộc !.!.!
https://www.youtube.com/watch?v=6bNJM6_aKKc
Đoàn Viết Hoạt
July 26, 20140 Bình Luận
July 26, 20140 Bình Luận
Ba Khuynh Hướng Văn
Hóa-Chính trị Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc
Thế kỷ 20 là thế
kỷ của văn minh Âu châu lan tràn ra toàn thế giới. Đó cũng là thế kỷ của sức
mạnh hải quân và hàng hải. Những nước Âu châu ven biển dù nhỏ bé như Hà Lan,
hay sau này suy yếu đi như Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha, cũng nhờ phát triển hải quân
và hàng hải mà đã chiếm đóng được những vùng đất rộng lớn xa xôi ở Nam Mỹ, Á
châu, Nam Thái Bình Dương, Đông Nam Á.
Những quốc gia ngoài Âu Châu chưa phát
triển kỹ nghệ, dù rộng lớn như Trung Hoa, cũng không thể chống cự lại được một
nền văn minh cơ khí phương Tây đang đến hồi sung mãn. Thế giới đầu thế kỷ 20 là
thế giới của Âu hóa. Nước Nhật là quốc gia duy nhất ở Á Châu cường thịnh lên
ngang hàng được với các quốc gia phương Tây cũng nhờ sớm biết chấp nhận Âu hóa.
Tại Việt Nam, thế
kỷ 20 mở ra một thời kỳ khủng hoảng toàn diện, từ văn hóa, đến kinh tế, xã hội
và chính trị. Sau hơn 20 năm chiếm đóng Việt Nam, từ Nam Kỳ đến Trung và Bắc
kỳ, nền tảng văn hóa xã hội và chính trị của quốc gia Đại Nam, Đại Việt, dần
dần bị phá vỡ. Đến đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ,
dẹp gọn mọi cuộc nổi dậy, biến triều đình thành con rối.
Tầng lớp sĩ phu, dường
cột của quốc gia quân chủ, hoàn toàn bị phá sản. Song song với các chương trình
mở mang giao thông vận tải nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên, thực dân Pháp
tận diệt nền Hán học, không cho phát triển quốc học, sử dụng quốc ngữ chỉ như
công cụ chuyển tiếp sang Pháp ngữ và Tây học.
Họ khuyến khích và phát triển các
chương trình giáo dục và sinh hoạt văn hóa xã hội nhằm Âu hóa tầng lớp thanh
thiếu niên thành thị. Nguy cơ diệt vong về văn hóa, biến dân tộc ta và đất nước
ta thành tôi đòi cho mẫu quốc Pháp, hiển hiện rõ nét ngay trong thập niên đầu
tiên của thế kỷ, và ở khắp mọi nơi, từ Nam tới Bắc, nhất là tại các thành thị
mới, tại ngay Hà Nội, thủ đô văn hiến của Đại Việt.
Nền Tây học mà
chính quyền thực dân thiết lập lên để thay thế Hán học lại không nhằm đào tạo
nhân tài mà chỉ nhằm cung cấp những cán bộ trung cấp – thông ngôn, thư ký, nhân
viên hành chính – cho việc cai trị.
Đó là nền giáo dục nô lệ. Cho đến năm 1906,
lớp học cao nhất tại Bắc kỳ chỉ mới đến năm thứ ba của bậc trung học phổ thông.
Năm 1907 Toàn quyền Paul Beau mở các lớp đại học đầu tiên ngay tại Hà Nội nhưng
chưa đầy một năm phải đóng cửa vì không có sinh viên, và phải mười năm sau mới
mở cửa lại được. Đại học này mở ra chỉ như cái ngọn hoa lá cành, trên cái nền
gốc tiểu học và thân cây trung học chưa phát triển.
Nó chỉ nhằm vừa thuyết phục
vừa thị uy trước giới sĩ phu Bắc Hà đang chao đảo, mất phương hướng trước sự
suy tàn của Hán học và của chế độ quân chủ. Vào đầu thế kỷ 20, nước Đại Nam, vốn
coi trọng việc học, nhưng lại rơi vào một khoảng trống vắng lớn về văn hóa giáo
dục.
Trước bối cảnh đó,
sĩ phu yêu nước tất nhiên không thể ngồi yên. Sau thất bại của phong trào Văn
thân “bình Tây sát tả” –phong trào sĩ phu chống cả Tây và chính sách thỏa hiệp
với thực dân của triều đình– các sĩ phu yêu nước tiếp tục gây dựng các phong
trào chống Pháp bằng nhiều hình thức mới.
Tầng lớp sĩ phu tại Trung và Bắc Kỳ,
hiểu rằng cần khai mở những con đường cứu nước mới. Tại Nam Kỳ, đất của Pháp,
vào đầu thế kỷ, đã xuất hiện một tầng lớp trí thức và doanh nhân mới theo Tây
học.Trong bối cảnh phát triển khác nhau đó ở 3 miền Bắc, Trung, Nam, đã xuất
hiện ba khuynh hướng văn hóa-chính trị.
Khuynh hướng thứ nhất chủ trương phát triển quốc ngữ và sách báo mới, để mở
mang dân trí và canh tân đất nước. Khuynh hướng thứ hai hoạt động theo hướng ôn
hòa hợp pháp, lập các hội đoàn và đảng chính trị để vận động cho một nước Việt
Nam độc lập. Khuynh hướng thứ ba chủ trương đấu tranh chống lại thực dân Pháp
bằng mọi phương thức, cả bạo động và ôn hòa, để giành lại độc lập tự chủ cho
dân tộc.
Khuynh hướng thứ
nhất chấp nhận thực tế Việt Nam đã bị Pháp thuộc, dựa vào các chương trình văn
hóa, giáo dục hợp pháp để nâng cao dân trí, mở mang công nghệ và canh tân đất
nước. Khuynh hướng này do tầng lớp trí thức Tây học chủ trương, và thực hiện
theo hai hướng, văn hóa và chính trị, trong đó thuyết giảng và viết sách, viết
báo là công cụ vận động. Đa số thành phần thanh thiếu niên đang theo tân học
tại các vùng thành thị hưởng ứng cuộc vận động này.
Đại biểu của hướng
vận động văn hóa này gồm những người như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh ngoài
Bắc, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của trong Nam. Họ biết Pháp ngữ, quốc ngữ, và
cả Hán tự. Họ dịch sách của các tác giả triết học, chính trị và văn học
Pháp nổi tiếng. Họ sử dụng báo chí làm phương tiện truyền bá quốc ngữ và những
tư tưởng mới của phương Tây.
Báo chí và quốc ngữ là hai phương tiện vận động
canh tân vừa phổ thông vừa nhanh chóng, hữu hiệu. Qua các sách dịch, qua nền
báo chí mới và nhất là qua sự phát triển nhanh chóng và rộng khắp của quốc ngữ,
một luồng văn hóa-tư tưởng, văn học-nghệ thuật mới ra đời, phát triển song song
với nền văn hóa, văn học nghệ thuật Pháp ngữ. Luồng văn hóa mới này, nhờ dùng
quốc ngữ, dần dần thấm nhập vào mọi tầng lớp nhân dân, nhất là giới trẻ, tạo
nền tảng cho các cuộc vận động chính trị cách mạng trong những thập niên sau
của thế kỷ.
Người Pháp không
phải không thấy tác dụng của báo chí. Một trong những người đã giúp cho Nguyễn
Văn Vĩnh – người được coi như “kiến trúc sư” của nền báo chí Việt Nam– là Francois-Henri
Schneider. Schneider là người sáng lập ra Tạp chí Đông
Dương (Revue Indochinoise) và là chủ bút của tờ Tương
Lai Bắc Kỳ (L’Avenir du Tonkin) và cũng là một chuyên viên in
ấn ở Pháp, sang Đông Dương kinh doanh in ấn
và báo chí trong khoảng từ 1888 tới 1918. Schneidersang Đông dương cũng
vớinhiệm vụ mật là tuyên truyền cho chính phủ thuộc địa, cho nước Pháp, muốn sử
dụng Nguyễn Văn Vĩnh trong lãnh vực báo chí để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nguyễn Văn Vĩnh cũng “tương kế tựu kế”, thực hiện mộng làm báo mà ông khao khát
khi qua Pháp dự triển lãm báo chí, và thấy được ảnh hưởng to lớn của báo chí và
phương tiện in ấn.Ông khởi đầu sự nghiệp với Ðăng
cổ Tùng báo, số ra mắt ngày 28
tháng3, 1907 do ông
làm chủ bút. Từ đó ông theo đuổi nghề làm báo quốc ngữ cho đến khi ông mất năm
1936.
Hướng thứ hai
trong khuynh hướng canh tân tập trung hoạt động nhắm cải thiện dân sinh, đòi
dân quyền, nhân quyền và vận động cho chế độ dân chủ. Người đại biểu cho khuynh
hướng này là Phan Chu Trinh. Ông không chủ trương làm báo như Nguyễn Văn Vĩnh,
cũng không lập đảng chính trị như một số tri thức Nam Kỳ.
Ông sử dụng tài lý
luận và diễn thuyết của ông để đi khắp nơi kêu gọi thanh niên tham gia canh tân
đất nước, đòi hỏi chính quyền thực dân đối xử nhân đạo với người dân Việt,
chống lại mọi hành động ức hiếp dân chúng của giới tham quan ô lại của triều
đình và của chính quyền thực dân. Ông được giới thanh thiếu niên thành thị hâm
mộ, tin theo nhưng bị cả triều đình Huế và chính quyền thực dân căm ghét. Ông
bị bắt nhiều lần, có lần bị triều đình tuyên án tử hình, nhờ hội nhân quyền
Pháp can thiệp nên thoát chết.
Phan Chu Trinh có
hai bài diễn văn nổi tiếng, “Ðạo đức và luân lý Ðông Tâỵ”, và “Quân
trị chủ nghĩa, dân trị chủ nghĩa”, nói lên được quan điểm văn hóa và chính
trị của ông, kêu gọi nhanh chóng phát triển theo phương Tây. Năm 1925, khi được
biết tin vua Khải Ðịnh mất, Phan Chu Trinh gửi điện tín cho Pasquier, Khâm sứ
Trung Kỳ, cho hay ông sẽ đứng ra lo việc cải tổ triều chính và lập
dân đảng. Chưa kịp thực hiện ý định táo bạo này thì ông lâm bệnh và qua đời
ngày 24 tháng 3 năm 1926.
Khuynh hướng văn
hóa chính trị thứ hai xuất phát từ Nam kỳ nơi mà các sinh hoạt văn hóa, chính
trị được hưởng theo quy chế của miền đất thuộc Pháp. Ngoài việc nền Tây học
được phát triển ngay sau khi bị Pháp chiếm, Nam kỳ cũng là nơi có tờ báo quốc
ngữ đầu tiên, dù đó là một hình thức công báo, tờ Gia Định báo, ra
số đầu tiên năm 1865. Nền Tây học phát triển sớm đã giúp xuất hiện ba thành
phần xã hôi mới tại đây, đó là trí thức Tây học và doanh nhân cùng điền chủ
giầu có. Cả ba thành phần này đều có người đóng góp tích cực cho phong trào đòi
độc lập tự chủ.
Quan điểm duy tân
thực ra xuất phát đầu tiên từ Nam kỳ, từ nhóm chủ trương báoNông Cổ Mín Đàm (trong
chén trà bàn chuyện nông thương) ra đời năm 1901, mà nhóm này gọi là Minh
tân. Khi Lương Khắc Ninh còn làm chủ bút tờ báo thì Minh Tân Hội hoạt động kín
đáo. Năm 1906, khi Trần Chánh Chiếu làm chủ bút tờ báo này, đồng thời cũng làm
chủ bút báo Lục tỉnh Tân văn,hội Minh tân xuất hiện và hoạt động
công khai, cùng hòa nhịp với phong trào Duy Tân lúc đó đã lan rộng khắp nước.
Nam kỳ cũng là nơi
ra đời sớm nhất các hội đoàn dân sự và chính trị hoạt động công khai hợp pháp
theo đường lối Pháp-Việt đề huề. Nguyễn Phan Long và hội Minh Tân cùng đảng Lập
Hiến đại biểu cho đường lối ôn hoà, bất bạo động theo chủ trương giành quyền tự
quyết dân tộc từ từ bằng sự thoả hiệp, đối thoại với chính quyền bảo hộ Pháp.
Đây cũng là đường lối của Phan Chu Trinh và phong trào Duy Tân.
Khuynh hướng văn
hóa chính trị thứ ba là đấu tranh quyết liệt để giành độc lập dân tộc. Đại biểu
và cũng là lãnh tụ của khuynh hướng này là Phan Bội Châu. Vốn là người học
giỏi, thông minh dĩnh ngộ, tài trí hơn người ngay từ khi còn nhỏ, Phan Bội Châu
hiểu rằng phải tìm ra con đường cứu nước phù hợp thời đại hơn. Nhưng tìm con
đường đó ở đâu?
Xuất thân từ Nho học, không trải qua Âu học, như Phan Chu Trinh
và nhiều trí thức Nam kỳ, nên dù biết Nho học không đáp ứng được tình thế mới,
nhưng Phan Bội Châu lúc đầu còn hoạt động trong nước, chưa biết phải theo đường
lối nào. Đây cũng là hoàn cảnh chung của tầng lớp sĩ phu yêu nước Bắc và Trung
kỳ, cho đến khi họ xuất dương, hoạt động tại các nước Á châu, gặp gỡ các nhân
vật cách mạng và chính trị của nhiều nước, đọc được các “tân thư” dịch từ
các tác phẩm ở Âu châu sang chữ Hán hay chữ Nhật.
Ngay trong thời
gian đầu của cuộc đấu tranh, Phan Bội Châu cùng các sĩ phu dồng chí hướng đã
thử nghiệm cả hai phương thức đấu tranh, vũ trang lật đổ và canh tân ôn hòa.
Tại ngay vùng Nghệ Tĩnh, quê hương ông, ông cùng các đồng chí đã thu mua tàng
trữ vũ khi để gây dựng lực lượng kháng chiến. Nhưng sau đó ông lại thành lập
Duy Tân Hội và kêu gọi các sĩ phu tiến bộ lập các hội duy tân ở các nơi nhằm
chấn dân khí, khai dân trí, một việc làm mà Phan Chu Trinh coi là con đường
đúng đắn nhất – canh tân rồi mới độc lập được.
Cuộc vận động duy
tân phát triển rộng khắp, tạo ra cuộc cải cách văn hóa xã hội, cải cách về ăn
mặc, cắt tóc ngắn, bình đẳng nam nữ…. Cùng với phong trào duy tân là các trường
nghĩa thục, dậy miễn phí các môn học mới, từ chữ quốc ngữ đến toán pháp, sử
địa…Đông Kinh Nghĩa thục nổi tiếng nhất mở ngay tại Hà Nội. Một số trường nghĩa
thục nhỏ hơn cũng được mở ra tại vài làng xã chung quanh Hà Nội. Tại miền Trung
có Quảng Ngãi Nghĩa thục.
Tuy nhiên ngay
phong trào Duy tân và các hoạt động ôn hòa theo đường lối thỏa hiệp với người
Pháp cũng bị chính quyền thực dân đàn áp thẳng tay. Đông Kinh Nghĩa thục bị
đóng cửa, các buổi diễn thuyết chính trị bị cấm…nhiều hội đoàn văn hóa, chính
trị bị giải tán, càng ngày càng nhiều nhà hoạt động yêu nước ôn hòa bị bắt
giam. Trong bối cảnh đó, từ cuối thập niên 1910, đầu thập niên 1920 trở đi xuất
hiện những khuynh hướng và phong trào đấu tranh quyết liệt, sắt máu hơn.
Trong những bài tới
chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn ba khuynh hướng văn hóa-chính trị nói trong bài
này để tìm hiểu ảnh hưởng của những khuynh hướng đó vào sự phát triển của
tư tưởng văn hóa-chính trịvà của phong trào cách mạng tại Việt Nam trong các
giai đoạn sau của thời kỳ Pháp thuộc.
Đoàn Viết Hoạt
25.7.2014
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.