CÒN CHỐI ĐƯỢC NỮA
KHÔNG? NHỮNG TÊN CỘNG SẢN GỘC BÁN NƯỚC HẠI
DÂN:
TRƯƠNG TẤN SANG-
NGUYỄN TẤN DŨNG- LÊ ĐỨC THÚY- NÔNG ĐỨC MẠNH
IN THE SUPREME COURT
OF VICTORIA AT MELBOURNE
CRIMINAL DIVISION
S CR 2013: 0173, 0174,
0175, 0215
S CR 2014: 0047, 0048, 0049, 0058, 0079, 0080
- Khi VN chuyển in
tiền bằng giấy sang in bằng nhựa. Công ty Note Printing Company LTD của Úc hối
lộ cán bộ ngân hành NN lúc đó là Thống Đốc Lê Đức Thúy cỡ 20 triệu đô, thông
qua Đại tá an ninh Lương Ngọc Anh.
Bên Úc báo chí khui ra
3 năm trước. Úc điều tra và kết tội các quan chức tại Reserve Bank of
Australia nhưng VN ém nhẹm, không chịu điều tra mà cũng không trả lời ai hỏi.
Nay lộ ra là
chóp bu cao nhất của cộng sản Việt Nam dính líu: Tổng bí Thư, Chủ Tịch
Nước, và Thủ Tướng Chính Phủ.
LIÊN THÀNH
Orange County, Ca,
ngày 31 tháng 7 năm 2014
BETWEEN:
THE QUEEN
-and-
BARRY THOMAS BRADY
& ORS
GENERAL FORM OF ORDER
JUDGE:
|
The Honourable Justice Hollingworth
|
DATE MADE:
|
19 June 2014
|
ORIGINATING PROCESS:
|
Indictment
|
HOW OBTAINED:
|
Oral application, following the giving of notice under s
10 of the Open Courts Act 2013 (Vic)
|
ATTENDANCE:
|
Dr S Danaghue QC and Mr J Forsaith for the Commonwealth of
Australia (instructed by the Department of Foreign Affairs and Trade)
Mr J Forsaith for the Commissioner of the Australian Federal Police Mr N Robinson QC and Mr K Armstrong for the Commonwealth Director of Public Prosecutions Mr M Cahill for Barry Thomas Brady Mr C Mandy for Peter Sinclair Hutchinson Mr C Thomson for John Leckenby Mr P Tehan QC for Steven Kim Wong Mr P Higham for Christian Boillot and Clifford John Gerathy Ms M Fox for Myles Andrew Curtis |
THE COURT ORDERS THAT:
1. Subject to further order, there be no
disclosure, by publication or otherwise, of any information (whether in
electronic or paper form) derived from or prepared for the purposes of these
proceedings (including the terms of these orders, and the affidavit of Gillian
Elizabeth Bird affirmed on 12 June 2014) that reveals, implies, suggests or
alleges that any person to whom this order applies:
o received or attempted to receive a bribe or
improper payment;
o acquiesced in or was wilfully blind as to any
person receiving or attempting to receive a bribe or improper payment; or
o was the intended or proposed recipient of a
bribe or improper payment.
2. Subject to further order, order 1 applies to
the following persons:
o any current or former Prime Minister of
Malaysia (including refereces to 'PM');
o any current or former Deputy Prime Minister of
Malaysia (including references to 'DPM');
o any current or former Finance Minister of
Malaysia (including references to 'FM');
o Mohammad Najib Abdul Razak, currently Prime
Minister (since 2009) and Finance Minister (since 2008) of Malaysia;
o Abdullah Ahmad Badawi (also known as Pak Lah),
a former Prime Minister (2003 - 2009) and Finance Minister (2003 - 2008) of
Malaysia;
o Puan Noni (also knows as Ms/Madame Noni, or
Nonni), a sister-in-law of Abdullah Ahmad Badawi;
o Mahathir Mohamed, a former Prime Minister
(1981 - 2003) and Finance Minister (2001 - 2003) of Malaysia;
o Daim Zainuddin, a former Finance Minister of
Malaysia (1984 - 1991; 1999 - 2001);
o Rafidah Aziz, a former Trade Minister of
Malaysia (1987 - t2008);
o Hamid Albar, a former Minister for Foreign
Affairs (1999 - 2008) and Minister of Home Affairs (2008 - 2009) of Malaysia;
o Susilo Bambang Yudhoyono (also known as SBY),
currently President of Indonesia (since 2004);
o Megawati Sukarnoputri (also known as Mega), a
former President of Indonesia (2001 - 2004) and current leader of the PDI-P
political party;
o Laksamana Sukardi, a former Indonesian
minister (2001 - 2004; in Megawati Sukarnoputri's goverment);
o Truong Tan Sang, currently President of Vietnam
(since 2011);
o Nguyen Tan Dung, currently Prime Minister of
Vietnam (since 2006);
o Le Duc Thuy, a Former Chairman of the National
Financial Supervisory Committee (2007 - 2011) and a former Governor of the
State Bank of Vietnam (1999 - 2007); and
o Nong Duc Manh, a former General Secretary of the
Communist Party of Vietnam (2001 - 2011).
3. Subject to further order, order 1 does not prevent:
o disclosures to and among Commonwealth officers
(as defined by s 3 of Crimes Act 1914 (Cth)) or international
investigators, international prosecuting authorities, and other like
international entities;
o provision by the Court to registered media
organisations, under cover of a notice referring to the existence of these
orders, of transcript and exhibits (which, for the avoidance of doubt, must
then be treated in accordance with order 1 above);
o provision of material by the Commonwealth Director of Public
Prosecutions to Note Printing Australia Pty Ltd and its legal representatives,
provided any such material is provided together with a copy of these orders.
4. The prohibition on publication in order 1
applies throughout Australia.
5. The purpose of these orders is to prevent
damage to Australia's international relations that may be caused by the
publication of material that may damage the reputations of specified
individuals who are not the subject of charges in these proceedings.
6. These orders are made on the grounds that they
are:
o necessary to prevent a real and substantial
risk of prejudice to the proper administration of justice that cannot be
prevented by other reasonably available means; and
o necessary to prevent prejudice to the
interests of the Commonwealth in relation to national security.
7. These orders operate for a period of 5 years from the date of
these orders, unless sooner revoked.
8. The affidavit of Gillian Elizabeth Bird
affirmed on 12 June 2014 be sealed in an envelope marked "Not to be opened
without an order of the Court", and not be opened without order of the
Court.
9. There be liberty to apply.
DATE AUTHENTICATED: 19 June 2014
http://wikileaks.org/aus-suppression-order/
==============================================
TỐI CAO PHÁP VIỆN VICTORIA tại MELBOURNE
PHÂN BỘ HÌNH SỰ
S CR 2013: 0173, 0174, 0175, 0215
S CR năm
2014: 0047, 0048, 0049, 0058, 0079, 0080
GIỮA:
THE QUEEN
-và-
BARRY THOMAS BRADY & ORS
SẮC ḶÊNH TỔNG QUÁT
THẨM PHÁN: Ngài Hollingworth
NGÀY LÀM: Tháng 6 19, 2014
TRÌNH TỰ GỐC: Cáo trạng
CÁCH LẤY: Lời khai, chiếu theo Đạo Luật 10 Về Tòa Án Mở năm
2013 (Vic)
THAM GIA: Dr S Danaghue QC và Mr J Forsaith đaị
diện Khối thịnh vượng chung Úc (theo chỉ dẫn của Bộ Ngoại giao
và Thương mại)
Ông J Forsaith đại diện Ủy viên Cảnh Sát Liên Bang Úc
Ông N Robinson QC và ông K Armstrong đaị
diện Giám đốc Các Công Tố của Khối thịnh vượng Chung Úc
Ông M Cahill cho Barry Thomas Brady
Ông C Mandy cho Peter Sinclair Hutchinson
Ông C Thomson cho John Leckenby
Ông P Tehan QC cho Steven Kim Wong
Ông P Higham cho
Christian Boillot và Clifford John Gerathy
Bà M Fox cho Myles Curtis Andrew
TOÀ LỆNH RẰNG:
1. Chiếu theo lệnh sau, không được tiết lộ, bằng cách
công bố hoặc cách khác, bất kỳ thông tin (dù dưới dạng điện
tử hoặc giấy in)xuất phát từ hoặc chuẩn bị cho các mục
đích của thủ tục tố tụng(bao gồm cả các điều khoản của ḷênh này, và bản
khai của GillianElizabeth Bird đã khẳng định ngày 12
tháng sáu năm 2014) mà tiết lộ, ngụ ý, ám chỉ, hoặc cáo buộc
rằng bất kỳ người nào mà lệnh này được áp dụng:
(a) nhận hoặc cố gắng để nhận hối lộ hoặc các
khoản thanh toán sai trái;
(b) ngầm thuận hoặc cố tình làm ngơ về việc người nào
đónhận hoặc cố gắng để nhận hối lộ hoặc các thanh
toán sai trái; hoặc
(c) là người nhận hoặc được đề nghị nḥân hối
lộ hoặc các thanh toán sai trái.
2. Chiếu theo ḷênh sau, khoản 1 áp
dụng đối với những cá nhân sau:
- bất cứ đương kim hoặc cựu Thủ tướng của Malaysia (bao
gồm cả việc đề cập đến 'PM');
- bất cứ đương kim hoặc cựu Phó Thủ tướng Malaysia (bao
gồm cảviệc đề cập đến 'DPM');
- bất cứ đương kim hoặc cựu Bộ trưởng Tài chính Malaysia (bao
gồm cả việc đề cập đến 'FM');
- Mohammad Najib Abdul Razak, đương kim Thủ tướng
Chính phủ(từ năm 2009) và Bộ trưởng Tài chính (từ năm 2008) của Malaysia;
- Abdullah Ahmad Badawi (còn được gọi là Pak Lah), cựu Thủ
tướng(2003-2009) và Bộ trưởng Tài chính (2003 - 2008) của Malaysia;
- Puan Noni (cũng là bà/Madame Noni, hoặc Nonni), một
người em dâu của Abdullah Ahmad Badawi;
- Mahathir Mohamed, cựu thủ tướng (1981 -
2003) và Bộ trưởng Tài chính (2001 - 2003) của Malaysia;
- Daim Zainuddin, cựu Bộ trưởng Tài
chính Malaysia (1984 - 1991;1999 - 2001);
- Rafidah Aziz, cựu Bộ trưởng Thương mại Malaysia (1987
- 2008);
- Hamid Albar, cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1999 -
2008) và Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2008 - 2009) của Malaysia;
- Susilo Bambang Yudhoyono (còn gọi là SBY), đương kim Tổng
thống Indonesia (từ năm 2004);
- Megawati Sukarnoputri (còn được gọi là Mega), cựu tổng
thốngIndonesia (2001 - 2004) và nhà lãnh đạo hiện tại
của đảng chính trị PDI-P;
- Laksamana Sukardi, một cựu bộ trưởng Indonesia (2001
- 2004;trong chính phủ Megawati Sukarnoputri của);
- Trương
Tấn San, Chủ tịch Nước hiện nay của Việt Nam (từ năm
2011);
- Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ hiện nay của Việt
Nam (từ năm 2006);
- Lê Đức Thúy, cựu Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc
gia (2007 - 2011) và là cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (1999 - 2007); và
- Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt
Nam (2001 - 2011).
3. Chiếu theo lệnh sau, khoản 1 không ngăn cản:
(a) Tiết lộ cho và giữa các viên chức của Khối Thịnh vượng
Chung Úc (theo quy định của Phần 3 Đạo luật về Tội
phạm 1914 (Cth)) hay các nhà điều tra quốc tế, cơ
quan truy tố quốc tế, và các tổ chức quốc tế tương tự;
(b) Toà cung cấp cho các tổ chức truyền thông chính danh, qua
sự che chắn của một thông báo đề cập đến sự hiện hữu của các
lệnh toà, bản văn, tang vật (trong đó, để tránh sự
nghi ngờ, phải tuân thủ Lệnh 1 ở trên;
(c) Cung cấp các tài liệu của Giám đốc Các Công Tố của Khối
Thịnh Vượng Chung Úc cho Công ty Note Printing Australia Pty
Ltd và đại diện pháp lý, miễn là bất kỳ tài liệu nào được
cung cấp phải kèm theo các lệnh này.
4.Việc cấm công bố theo khoản 1 áp dụng trên toàn nước
Úc.
5. Mục đích của lệnh tòa là để ngăn chặn thiệt hại cho quan
hệ quốc tế của Úc có thể bị gây ra bởi việc công bố
các tài liệu có thể làm hại tiếng tăm của cá nhân được
đề cập mà không phải là đối tượng của cáo buôc trong các thủ tục
tố tụng.
6. Các lệnh toà được thực hiện trên nền tảng là:
(a) Cần thiết để ngăn chặn một nguy cơ thiên kiến ảnh hưởng thực
sự và đáng kể đến việc thực thi công lý
mà không thể được ngăn ngừa bằng các phương tiện hợp
lý khác; và
(b) Cần thiết để ngăn chặn ảnh hưởng đến lợi ích của Khối
Thịnh vượng Chung liên quan đến an ninh quốc gia.
7. Các lệnh này có hiệu lực trong thời hạn 5 năm kể từ
ngày chứng, trừ khi bị thu hồi sớm hơn.
8. Bản khai của Gillian Bird Elizabeth được khẳng
định vào ngày 12 tháng sáu năm 2014 phải được niêm phong
trong một phong bì có ghi "Không được mở mà không
có ḷênh của
Tòa án", và không được mở mà không có lệnh của
Toà án.
9. Tùy nghi áp dụng.
Chứng
thực Ngày 14 thàng 6 năm 2014
Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Hollingworth
http://ubtttadcsvn.blogspot.com/2014/07/con-choi-nua-khong.html
Năm 1989, Trung Quốc
lần đầu tiên thừa nhân gởi 320.000 quân qua tham chiến ở Việt Nam trong năm
1965-1968 và viện trợ Hà Nội 20 tỷ đô la – Liên Xô viện trợ 11 tỷ đô la ...
Posted by hoangtran204
on 04/01/2014
Thế là đã rõ: Đảng
CSVN không phải là lực lượng duy nhất có công lao chống Mỹ như lâu nay vẫn kể
công. Ông HCM, Lê Duẩn, và Đảng CSVN đã mời 320.000 quân Trung Quốc đã qua VN
trong thập niên 1960s. Đảng CSVN và Nhà Nước chỉ là bọn cõng rắn cắn gà nhà, là
bọn mãi quốc cầu vinh; đảng CSVN đã mời TQ qua VN để chúng có cớ chiếm HS, TS,
Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Móng Cái, Núi Lão Sơn… và nhiều đất đai biên giới
phía bắc.
Đảng đã mời 320.000
quân Trung Cộng và một số lượng không rõ lính Bắc Triều
Tiên, và Liên Xô đến Miền Bắc trong thời gian 1964-1975 để cùng nhau chống Mỹ.
Trung Quốc “đã viện trợ 20 tỷ USD cho
để viện trợ quân đội chính quy Bắc Việt của Hà Nội và các đơn vị quân du kích
Việt Cộng. “
Đánh Điện Biên Phủ thì
đảng CSVN cầu viện quân đội Trung Cộng qua đánh giúp. Quân đội Trung Cộng và
các tướng lãnh La Quý Ba, Trần Canh, đã giúp đánh trận Điện Biên Phủ 1954.
Chiếm được Miền Bắc
năm 1954 là nhờ Trung Quốc điều đình với Mỹ và Pháp qua Hiệp Định Geneve
20-7-1054
Qua đến cuộc Chiến Tranh
Việt Nam 1954-1975, Đảng CSVN và ông HCM lại cầu viện ngoại quốc qua giúp đỡ
đánh chiếm Miền Nam. Lần này, có quân Trung Cộng, quân Liên Xô, và quân lính
Bắc Triều Tiên. Trung Quốc viện trợ 20 tỷ Mỹ kim, Liên Xô viện
trợ cho VN nhiều hơn TQ nhưng chưa bao giờ tiết lộ, gần đây chỉ nhắc đến 11,5
tỷ Mỹ kim (xem cuối bài).
Tóm lại: Với nhiều sự
kiện lịch sử ngày càng nhiều và cho thấy rằng: Đảng CSVN không phải là lực
lượng duy nhất chống Mỹ và đánh chiếm Miền Nam VN như lâu nay vẫn kể công nhằm
mục đích giành quyền lãnh đạo Việt Nam vô thời hạn!
Mời các bạn đọc 3 bài
báo dưới đây.
Nguồn: bài báo được lưu
lại ở đây news.google.com
Tin Reuters
Nguồn ảnh: The Blade, Toledo, Ohio, Tuesday, May 16, 1989
Nguồn ảnh: The Blade, Toledo, Ohio, Tuesday, May 16, 1989
Trung Quốc thừa nhân gởi 320.000 quân đã tham chiến ở Việt Nam
Trần Hoàng (dịch)
HONG KONG (Reuters)
16 tháng 5, 1989 –
Lần đầu tiên Trung Quốc thú nhận đã gửi hơn 300.000 lính chiến đến Việt Nam để
chiến đấu chống lại lực lượng Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam.
Hãng Thông tấn bán
chính thức của Trung Quốc (China News Service) trong một bài báo cho biết Trung
Quốc đã gởi 320.000 lính sang Việt Nam trong những năm 1960. Trung Quốc cũng đã
chi trên 20 tỷ USD để viện trợ quân
đội chính quy Bắc Việt của Hà Nội và các đơn vị quân du kích Việt Cộng. Bài báo
trích “Lịch Sử Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” do Nhà Xuất bản Văn khố Nhà nước
phát hành, cho biết có hơn 4.000 binh sĩ Trung Quốc đã thiệt mạng trong chiến
tranh VN.
Cuộc chiến đã kết thúc
khi xe tăng Bắc Việt ủi xập cổng tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập ở Sài Gòn vào
ngày 30 Tháng Tư 1975.
Trong suốt cuộc chiến,
Trung Quốc đã nhiều lần phủ nhận cáo buộc của Mỹ rằng binh sĩ của họ đang tham
chiến tại Việt Nam.
Báo cáo của tình báo
Mỹ vào lúc đó đã cho hay về các về đơn vị chiến đấu Mỹ đã thấy những binh sĩ
trong quân phục và vũ trang của Trung Quốc cùng mang phù hiệu của Trung Quốc.
Trong 10 năm trực tiếp
tham chiến, số quân Mỹ đã lên đến hơn 500.000. Các ước tính về số quân của các
đơn vị quân đội Bắc Việt khác nhau, nhưng Hà Nội xác nhận trong suốt chiến
tranh, quân Bắc Việt chỉ là quân tình nguyện đi giúp đỡ phong trào du kích của
Việt Cộng ở miền Nam.
Các đơn vị của Nam
Hàn, Australia và New Zealand đã chiến đấu bên cạnh lính Mỹ và Nam Việt, với sự
hỗ trợ hậu cần của Thái Lan và Philippine.
Cả hai Tổng thống
Lyndon Johnson và Richard Nixon đã hết sức thận trọng khi cho phép máy bay Mỹ
ném bom quá gần biên giới Việt-Trung vì sợ đụng độ với Trung Quốc trên một mực
độ lớn hơn.
Nhưng các nhóm quan
tâm tìm kiếm tin tức về lính Mỹ mất tích trong chiến trường Đông Dương nói rằng
có một số ít phi công Mỹ đã nhảy dù xuống lãnh thổ Trung Quốc sau khi máy bay
của họ bị phòng không Việt Nam bắn rơi.
Bắc Hàn thú nhận tham chiến tại Việt Nam
Caroline Gluck (BBC)
7 tháng 7, 2001 –
Bắc Hàn lần đầu tiên đã chính thức thú nhận đã gửi các phi công máy bay chiến
đấu tham chiến chống lại lực lượng của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Báo giới nhà nước Bắc
Hàn đưa tin, trích lời lãnh tụ của Bắc Hàn Kim Il Sung, nói với phi công tham
chiến tại Việt Nam phải coi bầu trời Việt Nam như của chính họ.
Những bản tin này
không nói có bao nhiêu phi công Bắc Hàn tham chiến tại Việt Nam. Bình Nhưỡng
cũng đã gửi vũ khí, đạn dược và 2.000.000 bộ quân phục sang Việt Nam.
Quyết định tích cực hỗ
trợ Cộng sản Bắc Việt đã được thực hiện trong năm 1965, và được Đảng Lao động
Bắc Hàn chấp thuận trong một phiên họp vào năm sau, bản tin cho hay.
Nam Hàn cũng tham gia
trong chiến tranh Việt Nam, mười năm sau cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Đại
Hàn, kéo dài ba năm và kết thúc trong một thỏa hiệp ngưng bắn nhưng không phải
là một hòa ước vĩnh viễn.
Ý thức hệ gần nhau
Mặc dầu số lượng lính
Nam Hàn chưa bao giờ hiện diện hơn 50.000 người tại bất cứ thời điểm nào ở Miền
Nam VN trong thời gian 1965-1973, có khoảng 320.000 lượt binh sĩ Nam Hàn đã
chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ – đội quân nước ngoài lớn nhất sau lính Mỹ, và
hơn 5.000 binh sĩ Nam Hàn đã tử trận. (nguồn)
Kim Il Sung: “Chiến
đấu như thể bầu trời là của mình.” Máy bay Mig-15 của Bắc Hàn (làm tại LB Sô
Viết)
Trong nhiều năm, Bình
Nhưỡng gần với Hà Nội về ý thức hệ, và đã hỗ trợ quân sự và chính trị trong
chiến tranh Việt Nam.
Nhưng mối quan hệ với Bắc Hàn trở nên nguội lạnh khi Việt Nam xâm lăng Cambodia vào năm 1978 và lại lùi thêm một bước khi Hà Nội thiết lập quan hệ ngoại giao với Hán Thành vào năm 1992.
Quan hệ giữa hai đồng
minh thời Chiến tranh Lạnh gần đây đã ấm trở lại, với sự hỗ trợ của Việt Nam
cho tiến trình hòa bình Nam Bắc Đại Hàn.
Kim Yong Nam, người
đứng đầu quốc hội Bắc Hàn và trên danh nghĩa đứng đầu Nước, sẽ đến thăm Hà Nội
vào tuần tới.
© DCVOnline
————————————————————–
- Năm 1989, Trung
Quốc lần đầu tiên thừa nhân gởi 320.000 quân qua tham chiến ở Việt Nam trong
năm 1965-1968 và viện trợ Hà Nội 20 tỷ đô la (Reuters/ Trần
Hoàng). – LIÊN XÔ VIỆN TRỢ
CHO MIỀN BẮC VIỆT NAM (Global Security/ FB
Tin Không Lề). “Năm 2001, Nga đã xóa 85% số nợ 11 tỷ đô la
viện trợ cho Bắc Việt trong chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, 15% còn lại (1,65
tỷ đô la) Việt Nam phải trả trong vòng 23 năm. Như vậy hiện tại Việt Nam vẫn
còn đang trả nợ chiến tranh cho Nga”. (basam.info)
4-1-14
Đảng ta đã dùng vũ
khí, viện trợ của ngoại nhân để “chống ngoại xâm” và bây giờ vẫn còn đang trả
món nợ kia.
Tài liệu: Năm 2001,
Nga đã xóa 85% số nợ 11 tỷ đô la viện trợ cho Bắc
Việt trong chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, 15% còn lại (1,65
tỷ đô la) Việt Nam phải trả trong vòng 23 năm. Như vậy hiện
tại Việt Nam vẫn còn đang trả nợ chiến tranh cho Nga 100 triệu Mỹ Kim 1 năm :
“Các mức độ viện trợ
của Liên Xô, mặc dù chưa bao giờ chính thức công bố,”
Viện trợ của Liên Xô
gồm viện trợ không hoàn lại, viện trợ
phải trả lại tiền theo thời hạn, và các khoản vay.
“Vietnam and Russia
agreed last September to cut the Soviet-era debt, previously estimated at $11bn
(£7.6bn), by 85% and to allow for repayment of the rest over 23 years.
According to Mr Khristenko under the restructuring deal Vietnam would have to
pay $100m (£69m) a year.”
Với Liên Xô có thể trả
nợ bằng tiền, nhưng món nợ mà Đảng CSVN nhận từ
Trung Quốc không thể trả bằng tiền, mà phải trả bằng đất đai, biển đảo, Hoàng
Sa, Trường Sa và máu xương của người dân VN trong cuộc
chiến biên giới 1979. Đau đớn thay!
Nếu VNCH thắng trong cuộc
chiến này, cũng như Nam Triều Tiên, chính quyền miền Nam sẽ không
phải trả nợ cho Mỹ, ngược lại, Việt Nam sẽ là đất nước có tự do, dân chủ và
giàu có như Nam Triều Tiên.
———
Mời bà con đọc bài
dịch:
LIÊN XÔ VIỆN TRỢ CHO
MIỀN BẮC VIỆT NAM
Liên Xô bắt đầu gia
tăng can thiệp quân sự kể từ khi nước này viện trợ cho Cuba và Việt Nam. Cả hai
nước đều phải đối mặt với cuộc đối đầu chống lại Hoa Kỳ.
Viện trợ quân sự cho
Ai Cập, Syria, và Iraq nhắm vào Israel, được coi là tiền đồn của đế quốc Mỹ. Viện
trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu sau Đệ nhị Thế chiến để hỗ trợ Hồ
Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống lại trở sự trở lại của Pháp cai trị. Việc
viện trợ này tiếp tục sau khi Việt Nam bị chia cắt. Bắc Việt được sự ủng hộ của
quân du kích, đã sử dụng viện trợ này để cố gắng lật đổ chính phủ miền Nam Việt
Nam. Ước tính tổng chi phí viện trợ của Liên Xô cho chính phủ miền Bắc từ $3,6
đến 8 tỷ đô la vào thời điểm đó.
Bắc Việt lúc đầu thừa
nhận Liên Xô là lãnh đạo của “phe xã hội chủ nghĩa” và chấp nhận Moscow trước
trong lời ca tụng của họ về các nước Cộng sản. Tuy nhiên, kể từ sự trỗi dậy của
Cộng sản Trung Quốc và sự xuống cấp trong mối quan hệ Trung-Xô, Bắc Việt đã duy
trì lập trường, như đã giữ vững với các nước cộng sản khác, đó là tất cả các
nước “xã hội chủ nghĩa” đều bình đẳng và độc lập. Tuy nhiên, Bắc Việt thừa nhận
rằng Liên Xô đóng góp quan trọng trong viện trợ kinh tế và quân sự, đặc biệt kể
từ đầu năm 1965 khi Moscow bắt đầu các biện pháp cải thiện “tiềm năng quốc
phòng” của Hà Nội.
Các nhà lãnh đạo hàng
đầu và các quan chức khác của chính phủ hai nước cũng đã tham khảo ý kiến trong
các chuyến viếng thăm thủ đô của nhau: Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1955 và
1957, Phó Thủ tướng Liên Xô, Anastas Mikoyan, vào năm 1956 và Chủ tịch Kliment
Y. Voroshilov vào năm 1957.
Tại Đại hội Đảng Lao Động năm 1960, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã ủng hộ luận điểm của Liên Xô về khả năng tránh cuộc chiến tranh với
các cường quốc đế quốc và chiến thuật về tầm quan trọng trong việc chung sống
hòa bình với phương Tây. Về phần mình, đại diện Đảng Cộng sản Liên Xô tuyên bố
ý định của chính phủ mở rộng hợp tác với Bắc Việt.
Một thỏa thuận đã được
ký kết với Moscow hồi tháng 12 năm 1960 bảo đảm với Hà Nội về sự giúp đỡ kinh
tế và kỹ thuật của Liên Xô, một cam kết tương tự của Liên Xô đã được thực hiện
trong một thỏa thuận ký kết hồi tháng 9 năm 1962. Từ năm 1961 đến cuối năm
1964, quan hệ Hà Nội với Moscow nói chung thân mật, mặc dù có những dấu hiệu,
đặc biệt là sau tháng 3 năm 1963, rằng chế độ Hồ Chí Minh có khuynh hướng đồng
ý với lập trường quân sự của Bắc Kinh trong các tranh chấp về ý thức hệ giữa
Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô.
Bắt đầu từ tháng 11
năm 1964, quan hệ với Liên Xô trải qua bước ngoặc mới, thể hiện qua các ý định
thừa nhận của Moscow hỗ trợ đắc lực chế độ Hà Nội trong cuộc đối đầu chính trị
và quân sự với Hoa Kỳ. Ngày 17 tháng 11 năm 1964, Bộ Chính trị Liên Xô đã quyết
định gia tăng viện trợ cho Bắc Việt. Viện trợ này bao gồm máy bay, ra đa, pháo
binh, hệ thống phòng không, vũ khí hạng nhẹ, đạn dược, thực phẩm và quân nhu y
tế. Họ cũng đã gửi nhân viên quân sự Liên Xô tới Bắc Việt – Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (DRVN). Khoảng 15.000 nhân viên Liên Xô đã phục vụ tại Đông Dương như
các cố vấn và đôi khi là các chiến binh. Đa số các nhân viên cố vấn Liên Xô là
các sĩ quan phòng không.
Trong tháng 2 năm 1965
Thủ tướng Liên xô, ông Aleksei N. Kosygin đến thăm Hà Nội, cùng với Đại tướng
Không quân Konstantin Andreyevich Vershinin, tổng tư lệnh lực lượng không quân
Liên Xô và là Thứ trưởng Quốc phòng. Một thông cáo chung được lập vào lúc kết
thúc chuyến thăm ngày 10 tháng 2 [năm 1965], tuyên bố rằng hai chính phủ đã ký
một thỏa thuận về các biện pháp gia tăng “tiềm năng quốc phòng” của Hà Nội. Sau
khi trở về Moscow, Thủ tướng Kosygin nói rằng, chính phủ của ông đã tiến hành
các bước cần thiết để thực hiện các thỏa thuận. Cho thấy rằng sự viện trợ quân
sự của Liên Xô chủ yếu gồm tên lửa đất đối không (SAM), máy bay phản lực chiến
đấu và các cố vấn kỹ thuật. Cuối tháng 3 năm 1965 Bí thư Thứ nhất của Đảng Cộng
sản Liên Xô, Leonid I. Brezhnev, thông báo rằng chính phủ của ông đã nhận được
“nhiều đơn xin” từ các công dân Liên Xô đề nghị làm quân tình nguyện tại Việt
Nam.
Chính quyền Hà Nội
tiếp tục nhận sự hỗ trợ từ Moscow trên các mặt trận chính trị, quân sự và kinh
tế. Moscow thông qua đề xuất hòa bình của cả Hà Nội và Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam, Việt Nam. Liên Xô, trong các hiệp định ký kết hồi tháng 7 năm
1965 và tháng 12 năm 1965, cũng cam kết gia tăng viện trợ quân sự và kinh tế.
Trong tháng 12 năm 1965,
tờ Red Star, báo quân đội Liên Xô đưa tin, lần đầu tiên tên lửa phòng không
Liên Xô đã được cung cấp cho Bắc Việt. Một cam kết khác mà Moscow hứa viện trợ
quân sự và kinh tế đã được ký trong một thỏa thuận hồi tháng 1 năm 1966, khi
Aleksandr N. Shelepin, một thành viên của Đoàn Chủ tịch và Ban Bí thư Đảng Cộng
sản Liên Xô đến thăm Hà Nội.
Các
mức độ viện trợ của Liên Xô, mặc dù chưa bao giờ chính thức công bố, đã
được đưa ra bằng nhiều nguồn tin khác nhau. Trong tháng 2 năm 1966, ông Tim
Buck, Chủ tịch Đảng Cộng sản Canada, đã được Radio Jakarta trích lời, nói rằng
5.000 lính Bắc Việt đã được đào tạo ở Liên Xô để trở thành phi công chiến đấu.
Thông tin này có được từ Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Cộng sản Canada đến thăm Hà
Nội hồi cuối năm 1965. Quy mô viện trợ của Liên Xô cho Hà Nội ước
tính trong vài quý “trị giá khoảng nửa tỷ rúp”,
từ việc lắp đặt tên lửa vào máy bay, xe tăng và tàu chiến.
Trong tháng 3 năm
1966, Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất của Đảng Lao Động VN, dẫn đầu một phái đoàn tới
Moscow để tham dự Đại hội lần thứ 23 của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã tẩy chay Đại hội này. Trong bài phát biểu trước Đại hội, Lê Duẩn
tuyên bố rằng ông ta có hai tổ quốc, Bắc Việt Nam và Liên bang Xô viết, và cám
ơn Moscow về “viện trợ to lớn và nhiều mặt” của họ.
Trong tháng 8 năm 1966
chính quyền Xô viết đã xác nhận rằng con số không được tiết lộ về các phi công
Bắc Việt đã được đào tạo ở Liên Xô. Ngoài ra, ngày 2 tháng
10 năm 1966, Đài phát thanh Moscow lần đầu tiên công bố, các sĩ quan Liên Xô và
các chuyên gia đã được gửi tới miền Bắc Việt Nam để
đào tạo các đơn vị phòng không trong việc sử dụng tên lửa đất đối không do Liên
Xô chế tạo.
Báo Nhân Dân hồi tháng
10 đã đưa tin, Hà Nội đã ký ở Moscow một thỏa thuận về viện
trợ mới của Liên Xô “không hoàn lại” cho Việt Nam và một
thỏa thuận về khoản vay bổ
sung của Liên Xô dành cho Việt Nam năm 1967.
Rõ ràng Liên Xô rất lo
lắng về các tuyến đường tiếp tế trên biển tới miền Bắc Việt Nam – kênh chính
trong việc vận chuyển viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô đến Bắc Việt.
Liên Xô quan ngại Mỹ ném bom các cảng Bắc Việt và về khả năng Hoa Kỳ có thể
thực hiện các bước để đóng các cảng Bắc Việt bằng thủy lôi hoặc phong tỏa. Qua
nhiều lần phản đối mạnh mẽ, Liên Xô đã tìm cách cho thấy rằng, Liên Xô xem việc
đi vào các cảng Bắc Việt là quan trọng đến lợi ích của Liên Xô.
Vào mùa xuân năm 1967,
có khả năng hải quân Liên Xô được hướng dẫn chuẩn bị các kế hoạch bất ngờ về
một nỗ lực của Liên Xô có thể phá vỡ một cuộc phong tỏa giả định của Mỹ ở Hải
Phòng – để việc thi hành như một vấn đề mở ra cho Bộ Chính trị quyết định.
Bộ
trưởng Quốc phòng Tiệp Khắc Lomsky báo cáo với các đồng sự trong Bộ rằng Liên
Xô đã ra lệnh cho hải quân Liên Xô hộ tống các tàu buôn của Liên Xô trong
trường hợp Hải Phòng bị phong tỏa hoặc một tàu của Liên Xô bị đánh bom tại cảng
Hải Phòng. Lệnh này cũng được cho là đã kêu gọi những nỗ lực để phá vỡ bất cứ
sự phong tỏa nào, gồm các bước để quét mìn. Lomsky, vừa trở về từ Moscow cho
biết, Liên Xô đã nói với ông rằng họ sẽ chống lại bất cứ hành động nào của Mỹ
ngăn chặn các tàu của Liên Xô đi Hải Phòng. Lệnh của Liên Xô được cho là đã ban
hành vào thời điểm khi các tuyên bố của Mỹ nhắm vào khả năng phong tỏa Hải
Phòng.
Liên bang Xô viết cho
biết, một số các vũ khí mà Bắc Việt yêu cầu đã bị từ chối. Các tài liệu của
Đảng Cộng sản Liên Xô về viện trợ quân sự cho Việt Nam lưu hành trong nội bộ
những người cộng sản nước ngoài ở Moscow vào tháng 11 năm 1967, nói rằng “Liên
Xô đã nhanh chóng đáp ứng tất cả các yêu cầu thực tế của Bắc Việt trong việc
cung cấp các thiết bị quân sự”. Bắc Việt đã không nhận được các tàu tuần tra
loại KOMAR hoặc loại OSA, có hướng dẫn bắn tên lửa, loại mà VN muốn và rõ ràng
tại một thời điểm họ nghĩ rằng họ sẽ nhận được. Thất bại vì không được nhận
loại tàu đó, đặc biệt gây phiền nhiễu cho Bắc Việt, vì trong thập kỷ trước,
Liên Xô đã phân phối KOMARs và OSAs cho hàng chục quốc gia trên thế giới, gồm
cả một số nước mà Bắc Việt xem như là ít xứng đáng để được nhận hơn chính mình.
Sau cuộc chinh phục
miền Nam Việt Nam hồi năm 1975, Hà Nội tìm cách để giữ trạng thái cân bằng như
trong quan hệ thời chiến với cả Trung Quốc và Liên Xô, nhưng căng thẳng gia
tăng với Bắc Kinh, lên đến cực điểm là sự mất viện trợ của Trung Quốc
trong năm 1978, buộc Hà Nội càng tìm đến Moscow để được viện trợ kinh tế và
quân sự.
Bắt đầu từ cuối năm
1975, một số thỏa thuận quan trọng đã được ký kết giữa hai nước. Các kế hoạch
phối hợp phát triển kinh tế quốc gia của hai nước, và một kế hoạch khác kêu gọi
Liên bang Xô Viết cam kết tài trợ cho Việt Nam về Kế hoạch 5 năm lần đầu tiên sau
khi thống nhất. Liên minh chính thức đầu tiên đã đạt được trong tháng 6 năm
1978 khi Việt Nam gia nhập Comecon*.
Nguồn: http://www.globalsecurity.org/military/world/vietnam/hist-2nd-indochina-ussr.htm —
with Ngọc Thu
Một phần của
các Viện trợ của Nga
Nguồn FaceBook NamChi Tran photo
—————————————————————–
Thế là đã rõ: Đảng CSVN
không phải là lực lượng duy nhất giành công lao chống quân xâm lược Mỹ như lâu
nay kể công. Đảng đã mời 320.000 quân Trung Cộng và một số lượng không rõ lính
Bắc Triều Tiên và Liên Xô đến Miền Bắc trong thời gian 1964-1975 để cùng nhau
chống giặc Mỹ.
Bài duới đây điểm sách có
nhiều phân tích và tường thuật chi tiết
►”Trung
Quốc đã gửi 320.000 quân đến giúp Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, ” – Trung
Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975
————————————————————-
Để tìm bài báo dưới
đây (hay bất cứ bài nào), các bạn vào google.com,
copy các chữ này vào ô
hình chữ nhật nơi hộp search: China admits 320,000 troops fought in
Vietnam;
và nhấn nút ENTER trên
keyboard, Các bạn sẽ tìm thấy hàng trăm báo đăng tin này.
hoặc ở tờ báo này:
Toledo Blade.
CHINA
ADMITS IT SENT TROOPS TO FIGHT THE U.S. IN VIETNAM
Published: Tuesday,
May 16 1989 12:00 a.m. MDT
China has admitted for
the first time that it sent more than 300,000 combat
troops to Vietnam to fight against U.S. forces and their South
Vietnamese allies.
Th semiofficial China
News Service said Tuesday in a report monitored in Hong Kong that China
sent 320,000 soldiers to Vietnam during the 1960s.
It also spent over $20 billion to support Hanoi’s regular
North Vietnamese Army and Viet Cong guerrilla units.The agency report
cited “The History of the People’s Republic of China,” published by the
official State Archives Publishing House, as saying that more than 4,000
Chinese soldiers were killed in the war.
Fighting finally ended
when victorious North Vietnamese tanks battered their way into the grounds of
Doc Lap Palace in Saigon on April 30, 1975.
During the war China
repeatedly denied U.S. allegations that its soldiers were operating in Vietnam.
U.S. intelligence
reports at the time spoke of U.S. combat units finding soldiers dressed in
Chinese combat gear and wearing Chinese insignia.
During the 10 years of
direct U.S. involvement American troop levels reached over 500,000. Estimates
of North Vietnamese Army units varied, but Hanoi maintained throughout the war
its soldiers went only as volunteers to help the southern Viet Cong guerrilla
movement.
Units from South
Korea, Australia and New Zealand fought alongside U.S. and South Vietnamese
soldiers, with logistical support from Thailand and the Philippines.
Both presidents Lyndon
Johnson and Richard Nixon were extremely wary of allowing U.S. aircraft to bomb
too close to the Chinese border with North Vietnam for fear of involving the
Chinese on a larger scale.
But pressure groups
seeking news on Americans listed as missing-in-action in Indochina say a small
handful of U.S. pilots bailed out over Chinese territory after their planes
were hit by Vietnamese ground fire.
Báo Deseret News đăng ngày
16-05-1989
Posted by: Quang Nguyen
Danh sách trên 300 Cán Bộ CSVN
Chúng nó bây giờ chỉ lo chuyển hết những số tiền ăn cắp,
cuop', và của cải của chúng ra ngọai quốc (Tây , Mỹ) và lo tìm bãi đáp an
toàn cho vợ con chúng trước ngày trao dâng toàn cõi đất nước cho Tàu khựa, cũng chẳng còn bao lâu nữa, độ 5-6 năm nữa VN sẽ là quận huyện
của tỉnh Quảng Đông như đã được xếp đặt giữa Trung Cong và
tay sai Việt cộng.
Danh
sách trên 300 Cán Bộ CSVN
có tài sản vài trăm triệu Mỷ Kim
Theo Cánh
Thép
CSVN tham nhũng kinh khũng như vầy mà quý vị còn nói chuyện chống tham nhũng ! Hãy xem lại những số tiền khổng lố của những tên quan chức CSVN. Làm sao chống tham nhũng khi CSVN là những tên tham nhũng chưa từng thấy trong lịch sữ !
Một tài liệu cũ trong báo Quốc gia, Montreal, Canada từ tháng 2/1996 trích tin Nữu Ước cho biết :
“ Một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch
Việt - Mỹ tiết lộ đảng CSVN được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới vào
năm 1995 với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla…VN hiện nay có khoảng từ 80
đến 100 người có tài sản trên 300 triệu đô la, tất cả các tỉ phú này đều là
cán bộ cao cấp của đảng.
“Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các bộ trưởng và thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty. Theo ông J Shapiro, do việc chính phủ cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên đến 500000 đô la, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi. "Vẫn theo ông Shapiro, có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la. Đây là con số do một nhân vật cao cấp của ngân hàng trung ương cung cấp cho ông. Những đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la khoảng 2000 người…Tất cả những con số về tài sản của đảng CSVN là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch quốc tế. Số tài sản lớn lao trên do thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cũng nêu lên nhiều thí dụ điển hình như vợ bé của tổng cục phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc tổng cục kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston. Trong niên khóa 94-95, hàng trăm du học sinh là con cái đảng viên tự túc. Niên khóa 95-96, con số này tăng lên gấp 3…” Một tài liệu khác trong website mà tôi tạm dịch là mạng điểm ( cf. địa điểm, thời điểm) Hận Nam Quan tháng 5/2002 tựa là “Giai cấp mới trong các chế độ CongSan“ cho biết :
"Theo tin của hãng thông tấn Reuter đánh
đi từ Hà nội ngày 4 tháng 3 năm 2002 thì ĐCSVN sau khóa họp TƯ Đảng từ
18-2-đến 2-3-2002 đã chính thức ban hành một chính sách mới về kinh tế rất
táo bạo: Đảng viên CSVN được phép làm kinh doanh tư nhân. Phạm Chi Lan, Phó
Chủ tịch Phòng Thương mại và kỹ nghệ tuyên bố với phóng viên của hãng thông
tấn Reuter rằng:”… Đại hội đã quyết định là các đảng viên đang quản trị các
xí nghiệp tư nhân có quyền ở lại trong Đảng".
"Thật ra thì từ nhiều năm nay, các đảng viên cao cấp tuy không chính thức sở hữu một xí nghiệp tư nào cả nhưng thân nhân bà con của họ đã là chủ nhân của những xí nghiệp tư lớn nhất trong nước. "Cứ hỏi vợ con các ông Phan văn Khải, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng…là sẽ biết ai là chủ nhân của các sân golf, các khách sạn hạng sang, hãng xe taxi, hãng hàng không, nhà máy chế biến hải sản, hãng xuất nhập cảng, siêu thị lớn nhất nước. "Ai mà không thấy sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo CS tại VN. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đôla tiền mặt. Giới tư bản đỏ nhờ phù phép XHCN đã biến tài sản của quốc gia thành tư sản một cách thần tình, biển thủ công quỹ, buôn lậu hàng quốc cấm thế mà cứ hò hét diệt tham nhũng đến cùng. "Theo tài liệu FYI ( Poliburos network) ngày 19/12/2000 thì các cán bộ và nhân viên cao cấp của nhà nước CS Hà nội hiện làm chủ những số tiền to lớn gửi tại các ngân hàng ngoại quốc cộng với những bất động sản tọa lạc trong nước. - Lê Khả Phiêu : cựu tổng bí thư ĐCSVN và gia đình có 5 khách sạn (2 ở Hànội và 3 ở Saigon), tài sản và tiền mặt trị giá 1 tỉ 170 triệu Mỹ kim (US$ 1.170.000.000)
Ngoài ra, còn một số cán bộ và công chức có 1 tỉ và trên 100 triệu MK trong danh sách liệt kê của bảng FYI này là hơn 20 người nữa. Gần đây nhất, theo điện thư Câu lạc bộ dân chủ số 39 tháng 2/2005 trong mạng điểm Y kiến thì:
"Một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ
mới đây từ một quan chức cao cấp Bộ Công an cho biết số tiền khổng lồ mà các
quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ. Đáng chú ý là:
Ngoài ra, nguồn tin cũng cho biết một danh sách dài các quan chức có số tiền gửi hàng trăm triệu USD…” |
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.