Những gì Việt Nam cần học hỏi.
Khi nào bộ
trưởng phải từ chức?
Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com
Thứ tư, 9 tháng 4, 2014
Các nghị sỹ Anh được dùng tiền công thuê hoặc trả phí
tín dụng mua nhà ở London
Tuần này, lại có thêm một bộ trưởng ở Anh phải từ chức
vì các cáo buộc liên quan đến chi tiêu công quỹ.
Bà Maria Miller, dân biểu vùng Basingstoke, Bộ trưởng Văn
hóa - Thể thao trong chính phủ liên minh Bảo thủ và Tự do Dân chủ, đã
mất chức sáng 9/4/2014.
Nhân chuyện này tôi muốn chia sẻ với các bạn câu chuyện
về 'căn bệnh cơ chế' ở Anh nơi có nền dân chủ lâu đời nhất thế giới
nhưng cách ưu tiên về chi tiêu công cho chính các nghị sỹ quốc hội lại
dễ gây hà lạm, khai man.
Ngược lại, ở Anh cũng có cơ chế cho phép hạ bệ quan chức
chính phủ khá hòa bình mà không cứ phải lôi nhau ra các vụ án chồng
chất như ở Việt Nam hay các vụ xử kín rùng rợn tại Trung Quốc.
Tất nhiên, mọi việc chỉ có thể diễn ra nhờ vai trò rất
mạnh của báo chí độc lập, tạo sức ép không ngừng nghỉ lên quan chức
chính phủ, buộc họ từ chức ngay khi phạm lỗi hoặc bị mất tín
nhiệm.
Cơ chế hạ bệ
Vụ bà Maria Miller đã có nguyên do từ tháng 12/2012 khi tờ
Daily Telegraph nói bà khai khống chi tiêu tới 90 nghìn bảng để trả
tiền tín dụng cho một căn nhà ở London để cư ngụ trong nhiệm kỳ dân
biểu.
Theo quy định ở Anh, các dân biểu được nhận khoản bù tiền
nhà hoặc tín dụng địa ốc ở hai nơi: địa phương họ sống, có thể ở
rất xa thủ đô, và một căn nhà nữa phục vụ việc công ở London, nơi họ
về họp hành hàng ngày.
Báo Anh đòi bộ trưởng Maria Miller từ chức sau vụ khai
khống tiền nhà
Nhưng ai ở Anh cũng biết tiền một căn nhà ở London có giá
khác hẳn nhà ở tỉnh.
Và đây là lỗ hổng cho chuyện chính khách đòi bù tiền
nhà hay tiền mua nhà.
Dư luận cũng không hài lòng với chuyện 'tráo nhà' hay gọi
là 'flipping home' để chọn khai nhận khoản tiền cho căn nhà đắt giá
hơn.
Có dân biểu còn nhận căn nhà bằng tiền công để cho thuê.
Tờ Daily Telegraph khi đó chỉ tố cáo bà Maria Miller khai
lạm tiền nhà vì lãi suất cho tiền tín dụng địa ốc (mortgage rate)
đã xuống mà bà vẫn khai nhận theo mức cao hơn.
Ủy ban Tư cách Đại biểu của Quốc hội Anh năm 2013 đã xem
xét vụ này sau khi có dân biểu khác yêu cầu bà Maria Miller trả lại
toàn bộ khoản chênh lệch chi phí lãi suất, 45 nghìn bảng Anh.
Nhưng Ủy ban của Quốc hội lại chỉ yêu cầu bà Miller trả
lại 5800 bảng và đã làm chuyện đó.
Nhưng dư luận khó chịu vì lời xin lỗi của bà quá ngắn,
chỉ có mấy chục giây và có vẻ không 'hối lỗi'.
Báo Anh đã không buông tha và liên tiếp chạy các tựa đề
đòi bà từ chức.
Cơ chế 'bù tiền nhà' cho các nghị sỹ tại Anh đã bị dư
luận phê phán từ lâu và cũng đang gây hại cho nhiều quan chức và cả
chính phủ Anh qua mấy nhiệm kỳ.
Nhưng cũng ở Anh có cơ chế 'uy tín và niềm tin' khiến
người ta có thể cách chức dễ dàng một bộ trưởng.
Quy trình này khá đơn giản.
Theo chế độ thủ trưởng thì thủ tướng Anh là người phải
gián tiếp chịu trách nhiệm về mọi hành vi của thành viên nội các
cầm quyền.
Bị báo chí xúm vào 'đánh', thường chỉ sau vài ngày, vị
bộ trưởng phải được nghe rằng ông ta hay bà ta 'vẫn còn được thủ
tướng tín nhiệm' để không bị buộc phải ra đi.
Cựu và tân thủ tướng Anh: hai ông Tony Blair và David Cameron
nói chuyện
Vì khi uy tín của một bộ trưởng bị sút giảm, để giữ
chức, họ như phải 'vay' uy tín từ thủ tướng, người có thực quyền cao
nhất ở Anh - do Nữ hoàng tuy là nguyên thủ quốc gia nhưng không điều
hành chính phủ mà chỉ có vai trò tượng trưng.
Đem uy tín của mình cho vay mà không có gì bù vào, và cơn
giông tố trên báo vẫn chưa ngớt, uy tín của thủ tướng sẽ sứt mẻ theo
và lời nói sẽ giảm trọng lượng, đề xuất về chính sách đưa ra sẽ
bị chống đối.
Cứ đà đó, vị bộ trưởng từ 'vốn quý' (assets) của chính
phủ hoặc đảng của mình dần trở thành 'gánh nặng' hoặc 'món nợ'
(liability), kéo thấp uy tín của thủ tướng hoặc lãnh đạo đảng xuống
theo.
Cũng cơ chế đảng phái ở Anh cho phép một khi uy tín của
lãnh tụ đảng hoặc thủ tướng quá giảm sút, một nhân vật cùng đảng
có thể tuyên bố thách thức tranh chức vị cao nhất, gọi là 'leadership
challenge'.
Hiện nay, Phó Thủ tướng Nick Clegg, lãnh tụ đảng Tự do Dân
chủ chỉ vì thua điểm trong cuộc tranh luận trên truyền hình BBC với
nhân vật cánh hữu Nigel Farage nên đ̣ang có nguy cơ gặp thách thức chức
lãnh đạo từ trong đảng.
Nếu hội tụ đủ số phiếu của các nghị sỹ trong đảng ủng
hộ, một dân biểu kỳ cựu có thể yêu cầu đảng bỏ phiếu chọn mình
thay cho người đương chức.
Chính hồi năm 1974, bà Margaret Thatcher đã thách thức chức
lãnh tụ đảng Bảo thủ của ông Edward Heath và thắng lợi.
Đến năm 1979, đảng của bà thắng cử và Margaret Thatcher
trở thành nữ thủ tướng đầu tiên ở Anh cho tới năm 1991, khi chính bà
bị thách thức trong nội các Bảo thủ và đã quyết định từ chức.
Tuần này, vào tối 8/4 Thủ tướng David Cameron đã nói
chuyện với Bộ trưởng Miller và hai bên đồng ý rằng bà từ chức.
Lý do là trước buổi chất vấn thủ tướng diễn ra hàng
tuần, PM's Questions vào thứ Tư 9/4, ông Cameron không muốn bị công kích
bởi vụ Maria Miller.
Đảng cầm quyền đang bị đảng Độc lập Anh Quốc (UKip) giành
cử tri trước bầu cử châu Âu và bầu cử toàn quốc 2015, nên ông Cameron
muốn dân Anh lắng nghe thông điệp của mình chứ không bị rối trí bởi
vụ chi tiêu của một bộ trưởng.
Không phải duy nhất
Đây không phải là lần đầu tiên và duy nhất chính trị gia
Anh dính vào các vụ bê bối chi tiêu và thanh toán tiền công.
Với quan chức cả ba đảng Bảo thủ, Lao động và Tự do Dân
chủ, đa số bị mất chức vì quan hệ làm ăn, gia đình, tình ái, hoặc
khai khống tiền chi tiêu công.
"Bộ trưởng
Quốc phòng Anh, ông Liam Fox mất chức khỏi nội các vì nhầm lẫn giữa
quan hệ công và quan hệ cá nhân"
Vào tháng 10/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Anh, ông Liam Fox
(đảng Bảo thủ) từ chức khỏi nội các vì như chính lời ông là “đã
nhầm lẫn giữa quan hệ công và quan hệ cá nhân”.
Báo Anh tố cáo ông Liam Fox đã đưa một doanh nhân người Scotland,
ông Adam Werritty đi cùng các chuyến công vụ 18 lần từ 2009 đến 2011.
Ông Fox cũng làm luôn chức chủ tịch một trung tâm nghiên
cứu do ông Werritty lập ra gọi là The Atlanticist Bridge.
Tháng 5/2010, Quốc vụ khanh Tài chính Anh, ông David Laws
(đảng Tự do Dân chủ) cũng bị buộc phải từ chức vì dùng công quỹ
trả cho tiền thuê nhà của người tình nam James Lundie.
Không chỉ phải công khai xin lỗi công chúng, ông David Laws
đã phải hoàn trả công quỹ 40 nghìn bảng Anh và rời nội các.
Hồi 2006, bà Tessa Jowell, bộ trưởng thuộc đảng Lao Động
bị dính vào vụ scandal mà báo chí Anh gọi là ‘Jowellgate’.
Lý do là chồng của bà, ông David Mills là luật sự từng
làm việc cho tỷ phú, thủ tướng Ý, Silvio Berlusconi và đã bị toà Ý
kết án vì đã nhận 600 nghìn USD để ‘đưa ra bằng chứng không đúng’
bảo vệ ông Berlusconi.
Dù không liên quan trực tiếp đến các chuyện làm ăn của
chồng, bà Tessa Jowell đã bị tố cáo là vi phạm quy tắc hành xử của
bộ trưởng vì đã ký vào giấy tờ cùng chồng dùng khoản 600 nghìn USD
đó để mua nhà.
Bà Thatcher lên lãnh đạo đảng Bảo thủ Anh năm 1974 sau khi
thách thức chức của ông Edward Heath
Hai ông bà sau đó đã chính thức ly thân và sự nghiệp
chính trị của bà Tessa Jowell vẫn tiến triển nhưng vụ việc đã gây
tổn hại về uy tín cho Thủ tướng Anh khi đó, ông Tony Blair, bản thân
ông cũng là bạn ông Silvio Berlusconi.
Nhưng đôi khi quan chức phải từ nhiệm không chỉ vì tiền
bạc hay vì quan hệ 'gây nghi ngờ' và có khi chỉ vì vô tình không biết
đã phạm luật.
Hồi tháng 2/2014, Thứ trưởng phụ trách di dân, ông Mark
Harper cũng từ chức sau khi báo chí đưa tin người dọn nhà cho ông đã
làm việc mà không có giấy phép lao động tại Anh.
Dù Phủ Thủ tướng nói ông Harper “đã không biết là người
ông tuyển là di dân bất hợp pháp”, nhưng vì di dân là chủ đề nóng
bỏng, một thứ trưởng có vi phạm dù không cố ý cũng có thể khiến uy
tín của chính phủ giảm sút.
Rút lui nhanh khỏi chính phủ, các thứ bộ trưởng, quốc vụ
khanh có cơ hội chờ dư luận quên đi về bê bối còn nhỏ để quay lại
cầm quyền trong một lần khác, điều mà ông David Laws đã làm.
Trái lại, nếu không có cơ chế cho các quan chức cao cấp
sớm từ chức khi vụ việc chưa nghiêm trọng nổ ra, họ có thể tiếp tục
vi phạm, và lấn sâu vào các hành vi có thể dẫn tới mức phạm tội
hình sự, thậm chí bị tù đầy.
Trong thập niên 1990, sự nghiệp chính trị của một quan
chức cao cấp Anh tụt dốc không phanh vì cố chống đỡ, thậm chí đòi
kiện lại báo chí.
Từ chức sớm là cách quan chức không bị kết thúc sự
nghiệp tại toà án Anh
Đó là câu chuyện về dân biểu kiêm bộ trưởng thuộc đảng
Bảo thủ Jonathan Aitken.
Năm 1995, báo The Guardian và đài truyền hình Granada chạy
bài nói về các vụ làm ăn bất minh của ông Aitken với Ả Rập Saudi,
dẫn tới vụ ông kiện lại báo chí bôi nhọ nhằm bảo vệ danh dự.
Nhưng vụ kiện của ông Jonathan Aitken bị bác bỏ và chương
trình World in Action tiếp tục chạy một phóng sự về ông.
Sau mấy năm giằng co về pháp lý, sang năm 1999, ông Aitken
bị tòa xử tội khai gian và xử tù 19 tháng.
Tất cả những điều này chứng tỏ chuyện quan chức khai
thác các mối lợi nhờ quan hệ, nhờ cơ chế lỏng lẻo xảy ra ở mọi
nơi, kể cả ở ở một nền dân chủ lâu đời như Anh.
Điều quan trọng là có cơ chế nào nhanh chóng hạ bệ họ
ngay khi bê bối còn nhỏ, để họ không rơi vào chuyện nghiêm trọng tới
mức hình sự.
Và thay vì chỉ rao giảng đạo đức chung chung, nền chính
trị nào cũng cần có cơ chế cụ thể nhằm lọc lựa hàng ngũ vì sự
tồn tại lâu dài hơn của hệ thống.
Những gì cản trở tiềm lực
Việt Nam?
Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân
Nghĩa, RFA
2014-04-09
2014-04-09
Ảnh minh họa chụp một con đường ven sông Sài Gòn, hướng về trung
tâm TPHCM hôm 19/11/2013.
AFP
Báo cáo về tình hình kinh tế Đông Á Thái Bình Dương do Ngân hàng
Thế giới vừa công bố hôm Thứ Hai mùng bảy tại Singapore có một số lượng định
rất đáng chú ý về những trở ngại khiến kinh tế Việt Nam chưa đạt hết tiềm lực
của mình. Những trở ngại ấy là gì, Vũ Hoàng nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế
Nguyễn-Xuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề hàng tuần như sau:
Những bất trắc toàn cầu
Vũ Hoàng: Xin
kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, Ngân hàng Thế giới vừa công bố một
báo cáo định kỳ về tình hình kinh tế của các nước thuộc khu vực Đông Á Thái
Bình Dương, trong đó có phần lượng định về những thành tựu và nhiều mặt tiêu
cực của kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin đề nghị ông lược duyệt cho tài liệu này
và nhấn mạnh đến những khuyến cáo dành cho Việt Nam. Trước tiên thưa ông nội
dung tổng quát của báo cáo đó là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết là sự lạc quan của Ngân hàng Thế giới về triển vọng hồi
phục của kinh tế toàn cầu, do bốn yếu tố. Đó là lực đẩy của các nền kinh tế
công nghiệp hóa, với bất trắc về chính sách đã giảm, yêu cầu chấn chỉnh ngân
sách bớt khắt khe và sự nhờ sự năng động mới của khu vực tư nhân. Trong bối
cảnh đó, sản lượng kinh tế thế giới từ năm nay qua năm 2016 sẽ tăng từ 3 đến
3,4%, với đà tăng trưởng cao hơn của khối công nghiệp hoá từ 2,1 lên 2,4%, và
của các nước đang phát triển sẽ tăng từ 5% lên 5,6%. Đó là vài con số về đại
thể.
Kinh tế có ổn định hơn với lạm phát dưới 7% so với trên 9% hay 18%
vào năm 2011 và tỷ giá đồng bạc so với đô la vẫn ở mức cũ chứ khỏi sa sút thêm.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Trong khối đang phát triển, thì các nước Đông Á Thái Bình Dương,
mà tôi xin được gọi tắt là Thái-Á cho gọn, sẽ có mức tăng trưởng 7,1%, tức là
cao nhất trong các nước thuộc loại mới nổi của toàn cầu. Trong nhóm Thái-Á đang
lên, thì ta chú ý nhất tới Trung Quốc và 10 nước của Hiệp hội ASEAN.
Ngân hàng Thế giới có vẻ lạc quan về khả năng cải cách sắp tới của
Trung Quốc, và dự đoán tốc độ dù có chậm hơn thì cũng ở khoảng 7,5 hay 7,6%
trong vài năm tới. Riêng về khối ASEAN có 600 triệu dân thì định chế này phân
biệt bốn nền kinh tế lớn là Indonesia, Philippines, Thái Lan và Malaysia với
các nền kinh tế nhỏ hơn hay yếu hơn. Việt Nam thuộc loại nhỏ yếu đó và ở trong
nhóm quốc gia thuộc tiểu vùng Mekong, cùng Miến Điện, Lào, và Cam Bốt. Để dành
thời lượng cho Việt Nam, tôi xin khỏi nhắc đến phần hai của phúc trình cập nhật
này với ba đề tài khác, trong đó có một tiểu luận nức nở ngợi ca ý chí và khả
năng chuyển hướng của Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Thưa
ông, riêng về Việt Nam, thì Ngân hàng Thế giới là định chế tài chính quốc tế
chuyên yểm trợ các nước đang phát triển đã có những lượng định gì là đáng chú
ý?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Cũng lại ngợi khen và cảnh báo. Về đại thể, năm qua kinh tế Việt
Nam có cải thiện so với một hai năm trước, mà vẫn thấp hơn tiềm lực vì ba lý do
là vấn đề cơ cấu trong lĩnh vực quốc doanh và ngân hàng, là lệch lạc chính sách
gây trở ngại cho đầu tư của tư nhân và cho sức cạnh tranh trong nhiều khu vực
then chốt. Năm qua kinh tế xứ này có tăng chút đỉnh, qua năm nay e rằng vẫn cứ
như vậy, ở khoảng 5,4 tới 5,5%, nếu không xử lý các vấn đề nói trên. Ngoài ra,
có lẽ cũng phải nói tới một trở ngại khác cho Việt Nam là những bất trắc toàn
cầu.
Công trình xây dựng đường xe điện trên cao (sky train) tại trung
tâm thành phố Hà Nội hôm 26 tháng 2 năm 2014. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.
Vũ Hoàng: Như
vậy thì Ngân hàng Thế giới cho rằng năm 2013, tình hình kinh tế Việt Nam có khá
hơn 2011 và 2012, mà thưa ông khá hơn như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:Trước hết là kinh tế có ổn định hơn với lạm phát dưới 7% so với
trên 9% hay 18% vào năm 2011 và tỷ giá đồng bạc so với đô la vẫn ở mức cũ chứ
khỏi sa sút thêm. Kế đó là xuất khẩu có tăng vào thị trường công nghiệp hoá nhờ
ngành thâm dụng nhân công như áo quần, giày dép, bàn ghế và mới nhất là nhờ
loại sản phẩm có trình độ công nghệ và trị giá đóng góp cao hơn, như điện thoại
di động, phụ tùng điện tử, và cả cơ phận xe hơi. Sức xuất cảng đó chủ yếu đến
từ khu vực đầu tư nước ngoài, tức là Việt Nam làm gia công và được nước ngoài
mở thị trường bán hàng qua đó. Nhờ các yếu tố tích cực này, cán cán thương mại
có cải thiện và cán cân vãng lai đã từ thâm hụt nặng năm 2008 nay đạt được
thặng dư. Nhưng báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng nhắc là số thặng dư ấy sẽ
giảm khi nhập khẩu tăng theo đà phục hồi kinh tế.
Cảnh báo kinh tế Việt
Nam
Vũ Hoàng: Bây
giờ, bước qua phần cảnh báo về những trở ngại khiến kinh tế Việt Nam không thể
hiện được tiềm lực của mình, thưa ông, Ngân hàng Thế giới đã khuyến cáo những
gì trong bản báo cáo vừa qua?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu nhìn vào tiềm năng thực tế thì đáng lẽ Việt Nam phải đứng bên
các nền kinh tế lớn của khối ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philippines, hay
Thái Lan. Sự thật bẽ bàng là sức tăng trưởng bền vững của Việt Nam vẫn bị cản
trở vì tốc độ cải cách quá chậm. Ngân hàng Thế giới nêu ra năm nhược điểm sau
đây. Thứ nhất, số cầu trong thị trường nội địa vẫn yếu vì khu vực tư doanh mất
niềm tin, một từ khá lịch sự của họ để nói về tình trạng chật vật của doanh
nghiệp tư nhân. Thứ hai là mức nợ quá lớn của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba là phần vốn quá mỏng của ngân hàng. Thứ tư là sự co cụm của khu vực ngân
sách nhà nước. Về mặt cung thì tình hình còn đáng ngại hơn do khả năng cạnh
tranh kém của Việt Nam nếu so với các nền kinh tế có cùng kích thước và trình
độ, cụ thể là các nước ASEAN nói trên.
Muốn giải trừ những yếu kém ấy để có đà tăng trưởng mạnh hơn trong
trung hạn, Ngân hàng Thế giới cho là Việt Nam cần lại chú ý, tôi nhấn mạnh vào
chữ "lại", đến một số cải cách về cơ cấu. Và phải đặt trọng tâm vào
ba lĩnh vực, là tái cấu trúc hay chấn chỉnh các 1) ngân hàng, 2) doanh nghiệp
nhà nước, và 3) tháo gỡ những rào cản cho nguồn đầu tư của tư nhân ở trong nước.
Vũ Hoàng: Thưa
ông, báo chí ở trong nước có nói đến một vấn đề được đại diện của Ngân hàng Thế
giới nhắc tới là những khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng như sự tắc nghẽn
khiến kinh tế Việt Nam không đạt tiềm năng của mình.
Phải đặt trọng tâm vào ba lĩnh vực, là tái cấu trúc hay chấn chỉnh
các: ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và tháo gỡ những rào cản cho nguồn đầu tư
của tư nhân ở trong nước.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi mừng là báo chí có tường thuật khuyến cáo của giới hữu trách
thuộc Ngân hàng Thế giới về những khoản nợ không sinh lời, khó đòi và sẽ mất.
Họ cũng nói về số liệu mơ hồ của núi nợ, nhiều ít thế nào thì chưa ai rõ, và
còn nêu nghi vấn về khả năng giải quyết của Công ty Quản lý Tài sản VAMC được
lập ra năm ngoái. Trong phúc trình, Ngân hàng Thế giới cho là cơ quan này thiếu
phương tiện đắp vốn cho ngân hàng và có tiến độ chấn chỉnh quá chậm. Họ cảnh
báo về các vấn đề phá sản, vỡ nợ và việc bảo vệ chủ nợ như những chướng ngại
cần khai thông để tái cấu trúc khoản nợ của doanh nghiệp.
Trong phạm vi tài chính công quyền đó, ta còn thấy ra khả năng
xoay trở rất hẹp của lãnh đạo kinh tế Việt Nam vì giới hạn của ngân sách. Thứ
nhất, tiêu chí về bội chi ngân sách năm 2013 đã được nâng từ 4,8% lên tới 5,3%
Tổng sản lượng GDP, tức là cao gấp bội so với chỉ tiêu 4,5%. Lý do bội chi ở
đây là thất thu về thuế khóa do việc giảm thuế doanh nghiệp để kích thích sản xuất.
Việc cải tổ tài chính công, trong đó thuế khóa phải tăng và các khoản công chi
phải giảm, là một sự thúc bách khó xử. Nếu kết hợp thêm loại nợ nước ngoài thì
ta mới thấy ra vấn đề về dài.
Vũ Hoàng: Thưa
ông vấn đề về dài ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ 20 năm nay, Việt Nam được quốc tế cho vay theo tinh thần viện
trợ, với điều kiện ưu đãi, cụ thể là lãi suất hạ, thời gian ân hạn là chỉ trả
tiền lời chưa phải trả vốn cao hơn, được vay dài hạn hơn. Nhưng khi lợi tức
quốc dân đã tăng thì loại tín dụng có tính chất nâng đỡ ấy phải giảm, khiến nhà
nước và cơ quan được nhà nước bảo lãnh để vay tiền bên ngoài sẽ càng ít hơn.
Khi ấy, nếu cần vay thì phải phát hành trái phiếu trong thị trường tín dụng nội
địa. Khác với tín dụng viện trợ, tín dụng nội địa thường đòi tiền lãi cao hơn
trong hạn kỳ ngắn hơn. Tức là Việt Nam phải rà lại chính sách công trái, vì
việc vay nợ của công quyền từ nay sẽ đắt hơn và khắt khe hơn.
Khi kết hợp hai chuyện là nợ xấu đã vay mà sẽ mất và các khoản vay
mượn của nhà nước sẽ đắt hơn sau này, ta thấy ra một sự éo le. Trong giai đoạn
quá lâu, được vay tiền quá dễ, nhà nước Việt Nam đã chẳng lo xa mà để doanh
nghiệp của mình vay tiền bừa phứa và chất lên một núi nợ sẽ sụp đổ. Khi phải
kiện toàn tài chính, cụ thể là lập ra công ty tung tiền chuộc nợ, thì ngân sách
nhà nước lại bị giới hạn vì thâm hụt quá cao. Trong tương lai, nhà nước bị bội
chi mà đi vay thì sẽ trả tiền lời nhiều hơn và nhu cầu vay mượn đó cũng khiến
tư doanh khó vay hơn, phải trả lãi đắt hơn. Tức là nhà nước làm bậy mà đầu tư
của tư nhân bị thiệt và kinh tế lại gặp chướng ngại.
Vũ Hoàng: Câu
hỏi cuối cho đề tài hấp dẫn này, thưa ông, bản báo cáo vừa rồi của Ngân hàng
Thế giới có lời khuyên gì cho Việt Nam ngay trong giai đoạn tới hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ngay năm nay, Việt Nam cần thuyết phục thị trường về quyết tâm
sửa sai bằng cách đẩy mạnh việc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Việc thiết thực
là giải tư, tức là bán lại, những tài sản không thuộc khu vực chủ đạo then chốt
của hệ thống kinh tế nhà nước, và cổ phần hoá, tức là tư nhân hóa, một số lớn
các cơ sở quốc doanh. Song song, Việt Nam phải thanh toán núi nợ xấu của hệ
thống ngân hàng dù rằng đấy là việc tốn kém và phức tạp.
Sau khi ca ngợi Việt Nam đã có chút ổn định vĩ mô, Ngân hàng Thế
giới cho rằng những tiến bộ ấy vẫn còn bấp bênh và kinh tế xứ này còn gặp nhiều
rủi ro. Rủi ro lớn nhất là giảm đà cải cách khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn,
và gây thêm gánh nặng cho ngân sách trong trường kỳ.
Vũ Hoàng: Xin
cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/obstacles-to-vnese-potentials-nxn-04092014101844.html
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.