Bùi Tín - Chữ ký của người Cộng
sản
Thiếu tá phi công VNCH
Lý Bửng lái L19 đáp xuống HKMH USS Midway https://www.youtube.com/watch?v=wfUj6udXAGU
Thứ Năm, ngày 01 tháng 5 năm 2014
Cố vấn đặc biệt Lê
Đức Thọ, đại diện đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cố vấn đặc biệt của Tổng
thống Hoa Kỳ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt. (Người đứng giữa,
phía sau là Thư ký đoàn VNDHCH Lưu Văn Lợi)
|
Có
Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 rồi mới có ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hai ngày
lịch sử ấy liên quan đến nhau rất chặt chẽ, tác động đến số phận của cả dân
tộc, đến số phận của mỗi một gia đình người Việt, đến số phận mỗi một con người
Việt Nam, cho đến tận hôm nay.
Nghĩ
lại để mà xót xa, luyến tiếc, để tủi hận và thức tỉnh, làm bài học cho mỗi
người Việt mình.
Nhớ
lại những ngày đầu năm 1973. Sau đợt ném bom Hà Nội những ngày Giáng Sinh tháng
12 năm 1972. Hội nghị Paris họp lại. Hai bên ngả ngũ rất nhanh. Không khí Hà
Nội hân hoan, mọi việc khẩn trương, ngừng bắn, hòa bình đến nơi rồi. Trong tầm
tay. Phía Mỹ mệt mỏi ra mặt, chỉ muốn quên 2 chữ Việt Nam cho sớm nhất. Phía
‘’ta’’ lúc ấy cũng mệt mỏi, Bắc Kinh hòa hoãn với Mỹ, thậm chí chìa tay bè bạn
để cô lập Liên Xô.
Ngày
23 tháng 1 tôi được chỉ định sẽ tham gia Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ VN
DCCH trong Ban Liên hợp Quân sự 4 bên, làm việc tại Sài Gòn trong 60 ngày. Đoàn
do thiếu tướng Lê Quang Hòa làm trưởng đoàn, ông Lưu Văn Lợi vụ trưởng bộ ngoại
giao làm phó đoàn, mang quân hàm đại tá, một phó đoàn là đại tá Hoàng Hoa (tên
thật là Hồ Quang Hóa). Tôi được giao nhiệm vụ làm Người phát ngôn của đoàn,
trong quan hệ với giới thông tin báo chí trong và ngoài nước.
Ngay
đêm đó tôi được đọc trước bản Hiệp Định đã được ký tắt, sẽ được ký chính thức
vào ngày 27/1 ở Paris. Ngay sau đó đoàn miền Bắc sẽ được máy bay Mỹ ra đón vào
Sài Gòn.
Những
ngày bận rộn, hối hả. Tôi phải vào bộ tổng tham mưu, Cục tác chiến, theo dõi kỹ
tình hình chiến sự mới nhất từng khu vực trên hàng loạt bản đồ. Tôi nghiên cứu
hầu như thuộc lòng bản Hiệp định Paris gồm 4 chương và 14 điều. Chương I: Các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN. Chương II: Chấm dứt chiến sự- Rút quân.
Chương III: Trao trả tù binh . Chương IV : Thực hiện quyền tự quyết của nhân
dân miền Nam VN.
60
ngày sống ở Sài gòn thật sôi nổi, mới lạ, thú vị. Máy bay Hoa Kỳ C-130 ra Hà
Nội đón chúng tôi vào Sài Gòn, ở trong trại Davis - trại cũ của bộ đội truyền
tin Mỹ, nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất. Chúng tôi ra phòng họp của Ban Liên Hợp
Quân sự 4 bên hàng ngày.
Tôi
có hàng chục lượt xuống trung tâm Sài Gòn gặp Ủy ban Quốc tế (Ấn Ðộ, Canada,
Inđonésia, Hungari, Balan), dự chiêu đãi, văn nghệ ở Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc
trong sân bay. Tôi cũng đi Biên Hòa, Cần Thơ, Bình Định, Lộc Ninh, gặp các Tổ
LHQS 4 bên tại đó, đặc biệt là dự cuộc rút toán quân nhân Hoa Kỳ cuối cùng ngày
29/3/1973 tại sân bay, tôi trao tặng quân nhân Max Bielke bức tranh kỷ niệm
bằng tre vẽ tháp Rùa Hà Nội (sau này anh M. Bielke bị chết trong cuộc máy bay
bọn khủng bố tiến công Lầu Năm Góc tháng 9/2001 trong khi anh đang làm công tác
xã hội thiện nguyện tại đây). Trong 60 ngày ở Sài Gòn, tôi có 5 cuộc họp báo
quốc tế hằng tuần và 11 cuộc trả lời phỏng vấn riêng của báo chí miền Nam và
quốc tế.
Nhớ
lại cả thời gian ấy, rồi trong cả 2 năm 1973 và 1974, chúng tôi vẫn cho rằng
việc thống nhất đất nước sẽ còn gay go và lâu dài, cho tận cuối năm 1974 khi
trận Bình Long đang diễn ra không một ai nghĩ rằng chiến tranh sẽ ngả ngũ trong
năm 1975, thậm chí trong năm 1976. Tôi nhớ cuối năm 1974 khi nhìn vào tấm bản
đồ lớn trong Sở chỉ huy, chỉ mới có 3 quận được ‘’giải phóng’’ là Lộc Ninh, Đắc
Tô và Cam Lộ, 3 điểm nhỏ xiú trên bản đồ mênh mông. Năm 1972 ý đồ chiến lược là
mở rộng một vùng giải phóng rộng ‘’vài ba tỉnh để đặt trụ sở Chính phủ Cách
Mạng Lâm thời miền Nam VN’’ vẫn còn trong mơ tưởng.
Cũng
trong 60 ngày ở Sài Gòn và đi gần khắp miền Nam, nhiều anh em thân quen với tôi
đều cho rằng cuộc đọ sức quân sự khó ngả ngũ trong thời gian ngắn, vì đối phương
còn sức mạnh trong thế và lực với ta. Chúng tôi thấy rõ không quân VN Cộng hòa
lớn mạnh. Bộ binh VNCH đông, thiện chiến, chỉ huy dày dạn. Con đường chiến đấu
còn dài, gian nan.
Trong
quân đội nhân dân và trong đảng CS sau Hiệp định Paris đã có lúc có luồng suy
nghĩ rằng nên chăng chuyển sang hẳn cuộc đấu tranh chính trị. Tôi nhớ đó cũng
là ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với đoàn LHQS chúng tôi trước khi lên
đường. Câu ‘’thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, qua thi đua kinh tế
giữa 2 miền là một khả năng" cũng được ghi trong nghị quyết trung ương đầu
năm 1973.
Tư
tưởng muốn nghỉ ngơi ít lâu sau cuộc chiến đấu lâu dài gần 30 năm là dễ hiểu.
Chính tướng Đinh Đức Thiện, em ruột ông Sáu Búa Lê Đức Thọ gặp chúng tôi ở Câu
lạc bộ quân nhân, nói bỗ bã rằng :’’ Hăng máu vịt, nhưng con cái các ông lớn có
ai vào chiến truờng đâu. Sinh Bắc tử Nam toàn là con cháu nông dân thấp cổ bé
họng ’’, tôi nhớ mãi câu ông nói thêm : ‘’ Mỹ nó rút hết càng là lý do để ta hạ
súng nói chuyện anh em với nhau, nếu không sẽ còn giết nhau bao lâu nữa, bao
nhiêu ngàn, vạn bao tải (đựng xác chết) đều là con em nông dân nhà ta cả ‘’.
Công bằng mà nói ông Thiện có quan điểm khác với Sáu Búa, ông từng tham gia
đoàn trung ương, cùng các ông Tố Hữu và Nguyễn Thọ Chân bộ trưởng Lao động vào
Nam phổ biến nghị quyết TW ngay sau khi ký Hiệp Định Paris, nói rõ ta cũng thực
hiện ngừng bắn, có thời gian nghỉ ngơi, củng cố hàng ngũ, chuyển sang đấu tranh
chính trị . Tố Hữu vui miệng gọi đây là thới kỳ ‘’ gò cương, vỗ béo ‘’, nhưng
chỉ kéo dài được vài ba tháng. Tôi nhớ từ tháng 7 tháng 8 năm 1973 chiến sự lại
rộ lên, nhất là ở quân khu IX.
Dầu
sao lúc ấy với tôi, ý định chuyển sang đấu tranh chính trị cũng rất hấp dẫn. Tôi
thật sự chán ngán cuộc chiến. Tôi nhớ đến bà chị ruột tôi, em gái út tôi đang ở
cùng gia đình trong Sài Gòn, còn không ít anh họ tôi, em họ tôi, cháu họ tôi,
bè bạn tôi sống trong đó.
Nay
đọc lại bản Hiệp Định Paris tôi vẫn còn đau xót, coi như chính bản thân mình bị
lừa, bị móc túi. Ngay trong Phần mở đầu đã có câu ‘’Các bên cam kết tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN và quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam VN’’, xin nhớ: ‘’quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam‘’, điều mà
đảng CS lập tức phớt lờ một cách cố tình, tận tình, triệt để.
Ở
Điều 2 Chương 2, ghi rõ ‘’Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện khắp miền Nam VN
kể từ 24 giờ GMT 27/1/1973. Việc chấm dứt chiến sự nói trong điều này ‘’là vững
chắc, không thời hạn’’. Các lực lượng mỗi bên sẽ ở nguyên vị trí, sẽ quy định
vùng mỗi bên và thể thức trú quân, phải ngừng mọi hoạt động tiến công nhau, và
triệt để tuân theo quy định ngăn cấm mọi hành động vũ lực và ngăn cấm mọi hành
động đối địch, khủng bố, trả thù.
Có
cả một chương IV nói về ‘’ Thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN‘’,
ghi rõ‘’ Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ VNDCCH cam kết tôn trọng những nguyên
tắc thực hiện quyền tự quyết thông qua tổng tuyển cử tự do dân chủ, có giám sát
quốc tế, các nước ngoài không được áp đặt ; Ngay sau khi ngừng bắn 2 bên Nam VN
sẽ thực hiện hòa giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù, Hiệp thương để thành lập Hội
Đồng Hoà giải hòa hợp dân tộc, với 3 thành phần ngang nhau.’’
Sau
60 ngày đầu tiên sau Hiệp Định Ban Liên Hợp QS 4 bên được thay bằng Ban LHQS 2
bên ở miền Nam VN, nhưng thực tế là của 2 bên VNDCCH và Cộng Hòa VN.
Có
thể nói sang năm 1974 vụ án chính trị ở Hoa Kỳ Watergate đã có tác dụng quyết
định đến tình hình VN, với tổng thống Nixon rất kiên định bị mất chức, một tổng
thống không được dân bầu lên là G. Ford thay thế, với một quốc hội chán chường,
mệt mỏi, bẳn tính, đến độ keo kiệt, thắt chặt hầu bao đến độ vô cảm nhẫn tâm.
Xin nhớ trong 10 năm tham chiến từ 1963 – 1973 Hoa Kỳ bỏ ra hàng 670 tỷ đô la
(theo thống kê của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ) vào cuộc chiến xa xôi, đến năm 1973
còn chi 3,2 tỷ, năm 1974 cắt xuống còn 700 triệu, rồi thiến bớt chỉ còn 300
triệu kiểu nhỏ giọt, trong khi VNCH chỉ cần vài tỷ US$ để tồn tại và cầm cự,
nghĩa là chỉ yêu cầu không đầy 1% chi phí thời gian trước đó. Thật là cạn tàu,
ráo máng. Tham gia bức tử người bạn của mình.
Không
phải chỉ là bỏ rơi một đồng minh, phản bội một tình bạn, nuốt chửng lời cam kết
danh dự, còn là tê bạc với vong linh hơn 60 ngàn quân nhân bỏ mình trên chiến
trường xa, phản bội ý nghĩa cao quý của sự hy sinh tham chiến của hàng triệu
lượt con em mình cho lý tưởng dân chủ, nền tảng tinh thần vô giá của Hoa Kỳ.
Sau
hơn 40 năm nhìn lại, các phía đều có phần chua chát đắng cay của mình. Nhân dân
Việt Nam nói chung bị chia rẽ, bị phản bội từ nhiều phía, nhưng sâu cay nhất là
từ đảng CS đã bội thực một chiến thắng bất xứng, không tiêu hóa nổi một món quà
ngẫu nhiên từ trời rơi xuống quá nhanh, bị nghẹn đến tắc thở, trở thành một
tầng lớp tư bản đỏ cực kỳ gian tham hung bạo, bị nhân dân xa rời khinh bỉ, bị
cả thế giới văn minh chỉ trích chê trách và nay đứng trước nguy cơ sụp đổ bất
cứ lúc nào.
Với
thời gian mọi người có dịp nhìn rõ hơn tâm địa CS khi họ cam kết và hạ bút ký
các văn kiện ngoại giao, đó là ký mà biết trước là sẽ không tôn trọng chữ ký
của mình, ngay từ khi chữ ký chưa ráo mực.
Tuy
trong Hiệp định không có điều khoản nào về QĐND miền Bắc rút ra khỏi miền Nam,
nhưng điều 13 nói rõ :’’Hai bên miền Nam VN sẽ giải quyết vấn đề các lực lượng
vũ trang của mình trên tinh thần hòa giải, hòa hợp, bình đẳng và tương kính
không có sự can thiệp ở bên ngoài. Hai bên miền Nam VN sẽ bàn việc giảm quân và
giải ngũ số quân ấy càng sớm càng tốt‘’. Ông Nguyễn Duy Trinh và bà Nguyễn Thị
Bình có bao nhiêu thành tâm đối với điều 13 này khi đặt bút ký trên văn bản
ngày 27/1/1973?
Năm
nay nhắc lại việc ký kết năm xưa để ghi nhớ rằng thương lượng với CS, ký kết
với CS phải hết sức dè chừng, sự tráo trở, cạm bẫy của họ rất nguy hiểm, tệ
hại, hiển nhiên.
Cam
kết để được vào làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, cam kết thay
đổi luật lệ để được vào khối Xuyên Thái Bình Dương TPP, cam kết cải cách thể
chế kinh tế- chính trị để được nhận tiếp 2 vòi hỗ trợ và đầu tư ODA và FDI có ý
nghĩa sống còn, cam kết sẽ chống tham nhũng quyết …liệt, diệt sâu từ nhỏ đến
lớn, cam kết công khai hóa minh bạch hóa tài sản, thu nhập của cán bộ cấp cao …
Để
chứng minh tài ba thiện nghệ tuyệt đỉnh của lừa dối, phải nói là của bịp bợm,
xin trích ra một câu ít ai để ý trong bản Hiệp Định Paris, đó là Trong Chương
IV, Điều 9, mục a) ghi rõ: ‘’Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa coi quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm ‘’(…the South Vietnamese people‘s right to self determination is
sacred, inaleable).
Thiêng
liêng, bất khả xâm phạm. Vâng, họ từng cam kết trên giấy trắng mực đen như vậy
đó.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.