Thư ngỏ gửi
lãnh đạo Đảng và Nhà nước yêu cầu đình chỉ ngay toàn bộ dự án khai thác bô-xít
ở Tây Nguyên
Hà
Nội ngày 24-04-2014
Kính gửi:
§ Ông
Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam,
§ Ông
Trương Tấn Sang – Chủ tịch, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
§ Ông
Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng, Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
§ Ông
Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
§ Ông
Nguyễn Thiện Nhân – Chủ tịch, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.
Đồng kính gửi:
§ Toàn
thể quốc dân đồng bào,
Chúng tôi, những người
Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước ký tên trong thư ngỏ này, khẩn thiết
yêu cầu quý vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận (dưới đây gọi tắt là quý vị
lãnh đạo) quan tâm và có quyết định giải quyết dứt điểm vấn đề khai thác bô-xít
Tây Nguyên trên cơ sở 5 năm thực hiện kết luận của Bộ Chính trị, Đảng Cộng Sản
Việt Nam được nêu trong Thông báo số 245-TB/TƯ ngày 24-04-2009 về “Quy
hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn
2007-2015, có xét đến năm 2025” (dưới đây viết tắt là thông báo số
245).
Thưa quý vị lãnh đạo,
trước tiên, chúng tôi hiểu “…Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là
chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai
các nghị quyết đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra
các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp
bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần
phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên nói riêng…”như đã được nêu trong Thông báo
số 245.
Chúng tôi đặc biệt quan
tâm đến quan điểm của Bộ Chính trị về khai thác bô-xít Tây Nguyên được nêu
trong Thông báo số 245, bao gồm:
“- Quy hoạch và kế hoạch
triển khai các dự án phải trên cơ sở hiệu quả tổng thể, gồm cả hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội; trong đó, chú ý đúng mức đến việc tiết kiệm tài nguyên, nhu
cầu thị trường, sản phẩm phải có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế
giới…
- Khai thác bô-xít, sản
xuất alumin có tác động lớn đến môi trường từ khâu khai thác, chế biến, vận
chuyển đến xử lý chất thải, nếu không được quản lý tốt không tính hết đến tác
động môi trường thì sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà việc khắc phục phải mất
nhiều năm với chi phí tốn kém lớn.
- Kết cấu hạ tầng Tây
Nguyên còn thấp kém, nguồn nước và nguồn điện hạn chế, nên cần phải đẩy mạnh
phát triển để vừa đáp ứng yêu cầu khai thác bô-xít, sản xuất alumin, vừa bảo
đảm yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội vùng này.
- Việc lựa chọn công
nghệ là một nội dung quan trọng; yêu cầu là phải sử dụng thiết bị và công nghệ
hiện đại trên thế giới.
- Quan tâm đúng mức đến
đời sống và giữ gìn bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên; tạo công ăn việc
làm cho nhân dân địa phương; việc sử dụng lao động nước ngoài phải đúng quy
định của pháp luật.
- Tây Nguyên là khu vực
nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt
và lâu dài, đến môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá…”
Đối chiếu giữa một bên
là tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị như trong thông báo nêu trên, và một bên
là những gì đã diễn ra trong quá trình xây dựng nhà máy, khai thác, chế biến
bô-xít để sản xuất alumina suốt 5 năm qua tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ
(Đắc Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản (dưới đây gọi tắt là tập
đoàn TKV) thực hiện, chúng tôi thấy nổi lên những vấn đề rất đáng lo ngại sau
đây:
- Một
là: Toàn bộ việc xây dựng nhà máy và triển khai mỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ đã
diễn ra theo một quy trình ngược, dựa trên các nghiên cứu và quy hoạch có rất
nhiều sai sót.
Thực tế cho thấy việc
triển khai 2 nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ chỉ dựa trên những nghiên cứu, khảo sát
kém chất lượng và không đủ độ tin cậy. Các tính toán, thông số kinh tế – kỹ
thuật trong qui hoạch của các dự ánvà trong thực tế thực thi công trình đều có
chênh lệch lớn.
Các khâu liên quan đến kết cấu hạ tầng đều không được chuẩn bị
trước với sự tính toán chu đáo. Hệ quả là: Việc xây dựng nhà máy alumina và
khai thác các mỏ bô-xít được tiến hành trước khi có các phương án khả thi về
giao thông vận tải, còn nhiều khó khăn trong cân đối các nguồn cung ứng cho quá
trình sản xuất đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, dẫn tới những ách tắc, việc
sau chờ việc trước…
Nhà máy Tân Rai đã xây dựng xong được 2 nămnhưng vì những
yếu kém nêu trên nên không thể thực sự đi vào sản xuất có hiệu quả.Đến nay hầu
như không thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế – tài chínhđã được TKV cam
kết.Nhà máy Nhân Cơ đang xây dựng, tiến độ thực hiện chậm 3 năm so với kế
hoạch.
Nhà máy Tân Rai đã đi
vào sản xuất từ 2 năm nay, song cho đến nay vẫn chưa có phương án khả thi nào
cho vấn đề giao thông vận tải (vận chuyển nguyên liệu, nhiên liệu cho sản xuất
alumina ở nhà máy và chở sản phẩm xuống cảng để xuất khẩu). Dự án cảng Kê Gà đã
phải hủy bỏ và phương án vận tải cho dự án alumina Nhân Cơ lại càng bế tắc.
Việc sử dụng hệ thống đường sá và cảng hiện có cho yêu cầu vận tải của 2 nhà
máy đòi hỏi phải mất thêm nhiều thời gian, và ngân sách nhà nước phải có khoản
đầu tư mới để nâng cấp hệ thống này (sẽ đắt không kém xây dựng mới) mà vẫn
không tránh khỏi ách tắc giao thông trong vùng.
Giả thiết có sẵn một hệ thống
vận tải như thế, giá thành alumina của 2 nhà máy này cũng sẽ không thể chịu
đựng nổi chi phí vận tải đường bộ 2 chiều cho khoảng cách trên 200 km để có
thểcạnh tranh đượctrên thị trường. Nếu thêm nhà máy Nhân Cơ đi vào vận hành,
ách tắc trong vấn đề giao thông vận tải sẽ trở nên bất khả kháng hơn.
Do công nghệ lạc hậu,
mức sử dụng nước theo cam kết của nhà thầu cho tuyển quặng và sản xuất alumina
nhiều gấp 1, 4 lần so với mức cao nhấtcủa thế giới. Cho đến nay, chủ đầu tư
vẫncòn gặp khó khăn về nguồn cân đối bổ sung chonhu cầu sử dụng nước để sản
xuất alumina tại 2 nhà máy. Tây Nguyên vốn khan hiếm nước, đặc biệt vào mùa khô
kéo dài hơn 6 tháng / năm, nếu duy ý chí cấp đủ nước cho 2 nhà máy này sẽ dẫn
đến hao hụt lớn nguồn nước cung cấp cho cây công nghiệp và dân sinh trong vùng
và các khu vực hạ lưu. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho
việc khai thác bô-xít và sản xuất alumina trên Tây Nguyên rất không khả thi.
Việc đảm bảo nguồn nhiệt
năng cho sản xuất alumina tại 2 nhà máy cũng đang đòi hỏi những khoản đầu tư
tốn kém và làm tăng chi phí vận hành. Thực tế cho thấy việc điện phân nhôm trên
Tây Nguyênsẽ không có hiệu quả, vì 2 lẽ: (1) giá điện ở Việt Nam và ở Tây
Nguyên không rẻ (dù là thủy điện hay nhiệt điện); (2)nền kinh tế hiện rất mất
cân đối về năng lượng, điện phải được ưu tiên sử dụng cho các dự án kinh tế
mang lại nhiều giá trị gia tăng và lợi nhuận hơn, thân thiện môi trường hơn.
Việc áp dụng công nghệ
của cả 2 dự án alumina không phù hợp và lạc hậu đã dẫn đến những hệ quả như: Tỷ
lệ tổn thất tài nguyên (quặngbô-xít) lên tới trên 50%, công nghệ khí hóa than ở
Tân Rai và Nhân Cơđã lạc hậu hơn nửa thế kỷ và chứa đựng nhiều rủi ro kỹ thuật.
Chất lượng sản phẩm alumina khó được kiểm soát (về độ ẩm, tỷ lệ dưới cỡ).Khâu
nghiệm thu/bàn giao công trình đang bị kéo dài và còn để lại nhiều câu hỏi về
chất lượng nhà máy, công suất, khả năng vận hành liên tục, mức độ tiêu hao
nguyên vật liệu và năng lượng cho đầu vào.Các giải pháp thiết kế, bố trí mặt
bằng sân công nghiệp của cả hai nhà máy có nhiềubất cập, gây lãng phí trong sản
xuất…
Đặc biệt, cả 2 nhà máy
đều áp dụng công nghệ thải bùn đỏ “ướt” (nghĩa là vẫn phải thải cả dung dịch
xút ăn da- NaOH ra hồ chứa sau một thời gian mới thu hồi về lại nhà máy). Với
công nghệ thải ướt – chờ khô như vậy, trong suốt quá trình vận
hành của cả 2 dự án thường xuyên vẫncó các hồ bùn đỏ ướt độc hại ở Tây Nguyên
với độ cao 700 – 800m, đe dọa nghiêm trọng các vùng xung quanh và hạ lưu.
Thiên
tai và biến đổi khí hậu sẽ làm cho hiểm họa bùn đỏ càng trở nên khó lường, nhất
là thời tiết Tây Nguyên khắc nghiệt và có nhiều hiện tượng cực đoan trong thời
gian gần đây. Việc sử dụng bùn đỏ để sản xuất sắt xốp có thể khả thi trong
phòng thí nghiệm, nhưng hoàn toàn không khả thi về mặt kinh tế.Trên thế giới
chưa có nơi nào triển khai được ở qui mô công nghiệp cho sắt xốp như vậy.Việc
sản xuất các vật liệu xây dựng khác từ bùn đỏ cũng gặp những khó khăn tương tự.
Hai năm khai thác bô-xít
vừa qua cho thấy việc hoàn thổ không diễn ra hoặckhông thể diễn ra như trong
báo cáo của luận chứng kinh tế kỹ thuật.Việc khai thác và hoàn thổ theo qui
trình “cuốn chiếu” như dự tính của TKV trước đây không thể thực hiện được bởi
vì địa hình thực tế của Tây Nguyên chủ yếu là các đồi:ở đỉnh đồi quặng bô-xítđã
bị phong hóa, dưới chân đồi quặng bô-xít đã bị rửa trôi, chỉ còn lại đất sét.
Quặng bô-xít chỉtập trung ở các sườn đồinên việc khai thác đòi hỏi phải chiếm
nhiều diện tích.Công nghệ khai thácđang được áp dụng chủ yếu là bóc các lớp
quặng ở sườn đồi (giống như làm đường giao thông trong vùng đồi núi), đất bị
gạt xuống chân đồi vốn là nơi có khả năng canh tác nông nghiệp ở Tây Nguyên.Vì
vậy, việc hoàn thổkhông thể thực hiện được, toàn bộ cân bằng của tự nhiên được
tạo ra trong suốt quá trình kiến tạo địa lý hàng chục triệu năm đang bị phá
vỡ.
Thực tế cho thấy, không thể dự báo được các hệ lụy của việc xâm hại đến môi
trường tự nhiên như thế và cái giá phải trả sẽ rất đắt.Kể từ khi bô-xít được
khai thác đến nay, trên thực tế TKV chưa thể thực hiện hoàn thổ, phục hồi môi
trường đất.Trong khu vực trồng cây thử nghiệm trên đất đã khai thác bô-xít ở
Tân Rai không có loại cây công nghiệp nào có thể phát triểnđược.
Về mặt tài chính: Vốn Đầu
tư ban đầu dự tính khoảng 350 triệu USD cho mỗi nhà máy, sau đã phải điều chỉnh
lên đến 466 triệu USD cho nhà máy Tân Rai, và 499, 2 triệu USD cho nhà máy Nhân
Cơvới cùng một công suất là 650. 000 tấn alumina/năm.Cả 2 dự án thử nghiệm đều
được giao cho một nhà thầu thực hiện.
Theo kinh nghiệm, với cùng một công nghệ
và cùng một nhà thầu lẽ ra nhà máy sau phải rẻ hơn nhà máy trước ít nhất 15%,
nhưng thực tế đã ngược lại, nhà máy Nhân Cơ (sau) đắt hơn nhà máy Tân Rai
(trước) trên 33 triệu USD.Tổng mức đầu tưtheo dự toán cập nhật cho chương trình
bô-xít ở 2 nhà máy này khoảng 1, 6 tỷ USD. Sản phẩm của cả 2 dự án chủ yếu(hơn
95%) để xuất khẩudưới dạng nguyên liệu và cả 2 dự án sẽ không có đóng góp đáng
kể vào nguồn thu của ngân sách cũng như tạo công ăn việc làm cho người dân địa
phương. TKV cho biết nhà máy Tân Rai năm 2013 lỗ 258 tỷ VNĐ, năm 2014 sẽ lỗ 176
tỷ VNĐ, từ 2016 mới thôi không lỗ (?).
Nhà máy Nhân Cơ nếu đi vào sản xuất dự
kiến sẽ lỗ liên tiếp trong khoảng 5 – 6 năm đầu… Tại các hội thảo phản biện do
Liên hiệp các hiệp hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)tổ chức, dự báonhu cầu
alumina trên thế giới tương đối ổn định và giá sẽ có xu hướng tăng, nhưng do
công nghệ lạc hậu và chi phí vận tải quá cao sẽ khiến2 nhà máy Tân Rai và Nhân
Cơ nếu chạy hết công suất, mỗi năm sẽ lỗ từ 50 – 100 triệu USD.
Xin lưu ý: Các
con số tính lỗ này, dù là của TKV hay là của VUSTA cũng mới chỉ dựa trên tính
toán đơn thuần bên trong nhà máy, chưa bao gồm chi phí từ ngân sách nhà
nướcphải bỏ ra để nâng cấp / xây dựng mới và duy tu, bảo dưỡng hàng năm cho
khoảng 200 km đường giao thông và cảng, ước tính sẽ lànhiều trăm triệu USD nữa
mà nền kinh tế của đất nước phải gánh chịu.
- Hai
là: Toàn bộ việc khai thác bô-xít Tây Nguyên vừa qua cho thấy TKV không
tuân thủ các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị nêu trong thông báo số 245.
Trong điều kiện hiện nay của đất nước việc khai thác bô-xít Tây Nguyên chỉ đem
lại những thua lỗ nặng nề cho nền kinh tế, gây ra nhiều hệ lụy về môi trường,
xã hội cho Tây Nguyên nói riêng và cho cả nước nói chung.
Trước hết, nói về
TKV:
Có sự thật khách quan là
thông báo số 245 được ban hành giữa lúc đã triển khai xong việc quy hoạch khai
thác bô-xít cho nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ. Trong đó, nhà máy Tân Rai đã thực
thi xong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Tuy nhiên, lẽ ra phải bám sát quan điểm chỉ
đạo của thông báo số 245 để điều chỉnh kịp thời các việc tiếp theo, nhưng TKV
chỉmột mựcđẩy mạnh thực hiện kế hoạch đã có.
Trong thời gian kể từ khi có thông
báo số 245 (24-04-2009) đến khi xây dựng xong nhà máy Tân Rai (2011), trong cả
nước tiếp tục có các hội thảo phản biện về đề tài bô-xít Tây Nguyên. Song hầu
như các ý kiến phản biện đều không được tiếp thu.
Từ khi nhà máy Tân Rai
đi vào sản xuất cho đến nay đã 2 năm, TKV cũng chưa một lần đánh giá lại toàn
bộ tình hình công việc theo tinh thần chỉ đạo của thông báo số 245, thậm chí
còn đẩy mạnh việc xây dựng tiếp nhà máy Nhân Cơ giữa lúc TKV thiếu vốn và gặp
phải rất nhiều khó khăn trong dự án nhà máy Tân Rai. Cũng trong 2 năm qua đã có
nhiều đoàn của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành đến Tân Rai và Nhân Cơ kiểm
tra, giám sát. Nhưng vì thiếu những thông tin khách quan và đầy đủ của chủ đầu
tư, nên việc giám sát / kiểm tra không đạt kết quả xác thực.
Hệ quả là: Việc xây dựng
2 nhà máy và khai thác bô-xít tại Tân Rai và Nhân Cơ hoàn toàn không tuân thủ
tinh thần chỉ đạo của thông báo số 245 là chỉ làm thí điểm, phải đảm bảo khắt
khe các yêu cầu mọi mặt về phát triển kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên, phải gìn
giữ môi trường tự nhiên. Việc khai thác bô-xít để chế biến alumina như đang
diễn ra ở Tây Nguyên đứng trước thực tế: Cả 2 nhà máy sẽ không thể vận hành
đúng công suất nếu vấn đề giao thông vận tải và việc cung ứng nước và than đá
không được đảm bảo. Giả định những khó khăn này được khắc phục, việc sản xuất alumina
vẫn không tránh khỏi thua lỗ (vì công nghệ lạc hậu và chi phí vận tải quá lớn);
những hiểm họa do bùn đỏ, do thiên tai, hoặc do cả bùn đỏ và thiên tai vẫn
thường trực và không thể lường trước được.
Việc khai thác
bô-xít để sản xuất alumina hiện nay ở Tân Rai và Nhân Cơ đang đặt ra cho cả
nước nhiều vấn đề:
Trước hết, hai nhà máy
Tân Rai và Nhân Cơ và việc khai thác bô-xít như đang làm đã đặt đất nước đứng
trước tình trạng bỏ thì thương, vương thì tội.Duy trì để sản xuất
thì lỗ nặng và tích tụ nhiều hiểm họa không thể kiểm soát được về các mặt kinh
tế, môi trường, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… cho cả nước. Dẹp bỏ thì
tổn thất lớn và chồng chất thêm nợ công mới cho cả nền kinh tế.
Việc khai thác bô-xít
trên Tây Nguyên như đang diễn ra là sai lầm nghiêm trọng về chiến lược phát
triển kinh tế (phát triểntheo chiều rộng: dựa trên đầu tư để bóc lột tài
nguyên và tận dụng lao động rẻ, hủy hoại môi trường). Trong khi nền kinh tế
đất nước đang đòi hỏi phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu trong quá
trình đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng (chiến lược phát triển
chủ yếu phải dựa trên phát huy chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng các lợi thế
địa kinh tế, tận dụng sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật).
Tình hình còn trở nên đặc biệt nghiêm trọng ở chỗ nền kinh tế nước ta từ nhiều
năm nay lâm vào khủng hoảng cơ cấu sâu sắc, giữa lúc này việc huy động một
nguồn lực lớn cho bô-xít Tân Rai và Nhân Cơ chẳng những không hợp lý mà còn gây
ra những ách tắc mới và gánh nặng mới cho nền kinh tế cả nước. Điều này đi
ngược với định hướng phát triển kinh tế bền vững đã ghi trong nghị quyết đại
hội XI của ĐCSVN.Hơn nữa, việc khai thác bô-xít để sản xuất alumina như đang
tiến hành sẽ dẫn tới trong thực tế cuối cùng sẽ chỉ có một người sử dụng duy
nhất là Trung Quốc; sản phẩm alumina Việt Nam sẽ phải đối mặt với một sự lệ
thuộc rất nguy hiểm và không có lối ra; sản xuất càng nhiều, sự lệ thuộc càng
lớn. Trong khi đó bài toán dùng alumina để sản xuất nhôm trong nước không có
lời giải trên các phương diện kinh tế, kỹ thuật, các lợi thế so sánh.
Có thể dễ dàng so sánh,
nếu sử dụng nguồn tiền ước tínhkhoảng 1, 6 tỷ USD đầu tư vào bô-xít Tây Nguyên
để phát triển các đề án kinh tế theo hướng phát triển Tây Nguyên xanh,
bền vững(các công trình thủy lợi và kết cấu hạ tầng, các dự án kinh tế nông
nghiệp công nghệ cao và công nghệ sinh thái, các dự án kinh tế dịch vụ…) sẽ tạo
ra nhiều công ăn việc làm mới, sẽ có thể đem lại những kết quả gì và tránh được
những hệ lụy gì cho Tây Nguyên nói riêng và cho cả nước nói chung.
Vấn đề bô-xít – alumina
hiện nay ở Tân Rai và Nhân Cơ còn phải được xem xét trong bối cảnh sự phát
triển của Tây Nguyên trong những thập kỷ vừa qua chủ yếu dựa trên sự khai thác
các yếu tố tự nhiên; sự khai thác này đã tới ngưỡng không được phép vượt qua.
Thực trạng hiện nay ở Tây Nguyên: đất đai, rừng, nguồn nước đã bị khai thác cạn
kiệt, tới hạn và không thể chịu đựng thêm những dự án khai thác mới; môi trường
tự nhiên trên thực tế không thể phục hồi lại được. Trong khi đó, ở Tây Nguyên
kết cấu hạ tầng vẫn rất lạc hậu; dân trí và chất lượng nguồn nhân lực nói chung
thấp; chênh lệch giàu nghèo ngày càng rộng trong quá trình phát triển và tạo ra
những bất công mới; người chịu thua thiệt nhất trong quá trình phát triển này
là cộng đồng các dân tộc tại chỗ. Cho đến nay Tây Nguyên vẫn là một trong những
vùng nghèo và có chênh lệch giàu nghèo lớn nhất của cả nước.
Trong bối cảnh này cần
đặc biệt nhấn mạnh: (1)Tây Nguyên là quê hương tự nhiên của cộng
đồng các dân tộc tại chỗ, (2)Tây Nguyên là mái nhà của Đông Dương cả về mặt tự
nhiên và về mặt địa chính trị, và (3)Tây Nguyên trong tương lai rất gần còn là
không gian sinh tồn mới của cả nước khi biến đổi khí hậu (nước biển dâng) sẽ
làm thu hẹp diện tích đất đai sinh sống của cả nước. Bất kể sự phát triển nào ở
Tây Nguyên xâm phạm 3 đặc điểm này, đất nước sẽ phải trả giá.Ngay từ bây giờ,
sự phát triển của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung nếu không tính
đến 3 đặc điểm này của Tây Nguyên, sự bình yên và an ninh của đất nước bị uy
hiếp.
***
Kính thưa quý vị lãnh đạo,
Toàn bộ những vấn đề
trình bàytrong thư ngỏ này đã được dự báo trước, đã được làm rõ nhiều lần trong
rất nhiều hội thảo khắp cả nước, trong các thư và các kiến nghị của các tầng
lớp nhân dân khác nhau. Điều đáng tiếc là những ý kiến phản biện như thế đều
không được tiếp thu và đáng tiếc hơn nữa là thực tế đã diễn ra ở Tân Rai và
Nhân Cơ đang xác nhận tính đúng đắn của các dự báo, các tính toán đã được nêu
trong những ý kiến đóng góp, phản biện. Sự việc dẫn tới kết quả hai nhà máy Tân
Rai (đã hoàn thành) và Nhân Cơ (đang trong giai đoạn xây dựng) trở thành việc
đã rồi, hai nhà máy này đang gây ra những hậu quả không thể cứu chữa đối với
đất nước.
Chúng tôi, những người
soạn thảo và ký vào Thư ngỏ này một lần nữa cùng nhau đánh giá lại toàn bộ vấn
đề khai thác bô-xít như đang tiến hành ở Tây Nguyên, nhất trí
bằng thư ngỏ này kiến nghị với các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ra quyết
địnhđình chỉ ngay việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Đóng cửa nhà máy Tân Rai
và dừng việc xây dựng tiếp nhà máy Nhân Cơ. Việc khai thác bô-xít Tây Nguyên
trong tương lai sẽ chỉ được đặt ra khi đất nước có nhữngđiều kiện kinh tế và
khoa học kỹ thuật mới.
Chúng tôi hiểu đây là
một quyết định rất khó khăn, nhưng là một quyết định có trách nhiệm vì cái giá
phải trả sẽ vẫn còn rẻ hơn rất nhiều cho Tây Nguyên, cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân và cho cả nước nói chung so với những tổn thất đã xảy ra, đang xảy ra
và sẽ còn tiếp tục xảy ra nếu duy trì hoạt động của 2 nhà máy này. Chúng tôi đề
nghị quý vị lãnh đạo kêu gọi nhân dân cả nước phát huy sáng kiến của nhân dân
để giảm bớt những tổn thất phải chấp nhận của quyết định này, kể cả việc bán
đấu giá các thiết bị của 2 nhà máy này (không bán mặt bằng, càng không nên cổ
phần hóa để không “rơi” vào tay những đối tác ngoài mong đợi).
Thưa quý vị lãnh đạo,
Chúng tôi tin rằng quyết
định đầy tinh thần trách nhiệm này của quý vị lãnh đạo sẽ được nhân dân cả nước
đồng tình, hậu thuẫn.Nhân dân cả nước sẽ kề vai sát cánh với các vị lãnh đạo và
đồng bào Tây Nguyên khắc phục những khó khăn trong việc thực hiện quyết định
này đểchung tay xây dựng Tây Nguyên phát triển bền vững. Chúng tôi kính mong
các vị lãnh đạo cho nhân dân cả nước được biết ý kiến của quý vị về đề nghị nêu
trong thư ngỏ này của chúng tôi.
Kính thưa toàn thể quốc
dân đồng bào,
Vì tầm quan trọng sống
còn đối với đất nước và vì nhiệm vụ phát triển bền vững Tây Nguyên, chúng tôi
hy vọng toàn thể quốc dân đồng bào sống ở trong nước cũng như ở nước ngoài đồng
tình ủng hộ kiến nghị của chúng tôi bằng cách ký tên vào thư ngỏ này. Sự đồng
tình hưởng ứng như vậy của quốc dân đồng bào sẽ tăng thêm ý nghĩa quan trọng
của thư ngỏ này và củng cố tình đoàn kết của nhân dân cả nước trong giải quyết
những việc khó của đất nước.
Kính thư
NHỮNG
NGƯỜI THAM GIA KÝ TÊN
1.
Nguyên Ngọc, nhà văn, Hà Nội và Hội An
2.
Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, Hà Nội
3.
Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công
nghệ & Môi trường, Hà Nội
4.
Nguyễn Thành Sơn, TS, Giám đốc Ban Quản lý các
dự án than Đồng bằng sông Hồng– Vinacomin, Hà Nội
5.
Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, thành viên Viện IDS,
nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi trẻ, Hội An, Quảng Nam
6.
Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Phó Tổng thư ký Hội
Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội
7.
Lê Đăng Doanh, TS Kinh tế, nguyên thành viên Ban
Nghiên cứu của Thủ Tướng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
8.
Trần Nam Bình, PGSTS, Đại học New South Wales,
Sydney, Australia
9.
Ngô Vĩnh Long, GS, Khoa Sử, Đại học bang Maine,
Hoa Kỳ
10.
Nguyễn Đăng Hưng, GS danh dự thực thụ, Đại học
Liège, Bỉ, TP HCM
11.
Vũ Giản, chuyên gia Kinh tế, Tài chính, nguyên
Tư vấn cho Bộ Kinh tế Thụy Sĩ, Genève, Thụy Sĩ
12.
Trần Văn Thọ, GS, Đại học Waseda, Tokyo, Nhật
Bản
13.
Phạm Toàn, nhà giáo,
Hà Nội
14.
Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, Hà Nội
15.
Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông
tin, Pháp
16.
Trần Hữu Dũng, cựu GS kinh tế, Đại học Wright
State,Dayton, Ohio, Hoa Kỳ
17.
Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh triết,
Hà Nội
18.
Trần Thị Băng Thanh, PGSTS, Văn học cổ trung đại
Việt Nam, Hà Nội
19.
Trần Ngọc Vương, GSTS, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội
20.
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Xã hội học, nguyên
thành viên Ban Nghiên cứu Thủ tướng,
TP HCM
21.
Võ Thị Thắng, nguyênỦy viên Trung ương Đảng,
nguyên ĐBQH, nguyênTổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam, TP HCM
22.
Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội,TP HCM
23.
Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia khoa học khí quyển,
Office of Environment & Heritage,New South Wales, Australia
24.
Phạm Tư Thanh Thiện, nguyênPhó Ban Việt ngữ –
đài RFI, Pháp
25.
Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo về hưu, Pháp
26.
Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu
Khoa học (CNRS), Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Pháp
27.
Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM,
TP HCM
28.
Nguyễn Phương Chi, Biên tập viên chính, nguyên
Phó phòng Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Hà Nội
29.
Nguyễn Trác Chi, TP HCM
30.
Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Phó chủ tịch Hội Cơ học
Thủy khí Việt Nam, giảng viên Đại học Đà Nẵng, Thành phố Đà Nẵng
31.
Nguyễn Đình Nguyên, TS, Bệnh viện St Vincent,
Sydney, Australia
32.
Phan Thị Hoàng Oanh, TS Hóa học, Tân Phú, TP HCM
33.
Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao
Động, TP HCM
34.
Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu
của Thủ tướng, Hà Nội
35.
Vũ Minh Khương, TS, Hải Phòng và Singapore
36.
Hoàng Xuân Phú, GSTSKH, Hà Nội
37.
Đỗ Đăng Giu,
nguyên Giám Đốc Nghiên Cứu CNRS – Đại học Paris Sud,
Pháp
38.
Hồ Uy Liêm, PGS TS, nguyên quyền Chủ tịch Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
39.
Nguyễn Ngọc Sơn, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp
chí Thế giới trong ta (Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam), Hà Nội
40.
Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
41.
Đinh Hữu Thoại, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, TP
HCM
42.
Khương Quang Đính,
chuyên gia tin học, Paris, Pháp
43.
Nguyễn Quang A, TS, nguyên Viện trưởng Viện IDS,
Hà Nội
44.
André Menras Hồ Cương Quyết, nhà giáo, tù chính
trị chế độ cũ, Pháp
45.
Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, TP
HCM
46.
Nguyễn Trung Tôn, Quảng Xương, Thanh Hóa
47.
Lê Đức Triết, Thành phố Đà Nẵng
48.
Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
49.
Nguyễn Bắc Truyển, TP HCM
50.
Phan Tấn Hải, nhà
văn, California, Hoa Kỳ
51.
Huy Đức, nhà báo độc lập, TP HCM
52.
Lê Xuân Khoa, nguyênGS thỉnh giảng Đại học Johns
Hopkins, Hoa Kỳ
53.
Phan Đắc Lữ,
nhà thơ, TP HCM
54.
Đặng Hùng Võ, GS TSKH, nguyên Thứ trưởng, Bộ Tài
nguyên & Môi trường, Hà Nội
55.
Huỳnh Tấn Mẫm, Bác sĩ, Ủy viên Ủy ban MTTQVN
TPHCM, nguyên Tổng Biên tập báo Thanh Niên, TP HCM
56.
Nguyễn Tử Siêm, GS TS, nguyên Phó Viện trưởng
Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Hà Nội
57.
Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu
Thủ tướng, Hà Nội
58.
Trần Thị Lành, Chủ tịch sáng lập Trung tâm
Nghiên cứu kiến thức bản địa và phát triển Quảng Bình, Hà Nội
59.
Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
60.
Nguyễn Đình Cống, GS, Đại học Xây dựng, Hà Nội
61.
Nguyễn Đình Bin, nguyên Đại sứ, Ủy viên Trung
ương Đảng khóa VIII, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm
Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội
62.
Trần Đình Nam, nguyên Trưởng ban biên tập Nhà
xuất bản Kim Đồng, Hà Nội
63.
Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
64.
Nguyễn Thanh Hằng,
dược sĩ, Pháp
65.
Hoàng Ngọc Biên, nhà văn, California, Hoa Kỳ
66.
Lê Trung Hiếu, công nhân, Đà Nẵng
67.
Vũ Thư Hiên,
nhà văn, Paris, Pháp
68.
Bùi Chát, nhà thơ, TP HCM
69.
Maily Nguyen, Illinois, Hoa Kỳ
70.
Lê Mạnh Đức, hưu trí, TP HCM
71.
Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, Vinh,
Nghệ An
72.
Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP
HCM
73.
Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
74.
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
75.
Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP
HCM
76.
Lê Ngọc Thanh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP
HCM
77.
Đinh Hữu Thoại, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP
HCM
78.
Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hoá
lịch sử, Huế
79.
Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nhà báo, nguyên Chủ tịch
hội văn học nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt, Lâm Đồng
80.
Nguyễn Kim Cương, Thạc sĩBác sĩ, giảng viên đại
học, Hà Nội
81.
Võ Văn Cần, hưu trí, Canada
82.
Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Ban nghiên cứu
Thủ tướng, TP HCM
83.
Võ Văn Thôn, nguyên
Giám đốc Sở Tư pháp, TP HCM
84.
Nguyễn Trí Nghiệp, Công ty nông trang Island,
Vĩnh Long
85.
Phạm Minh Vũ, Hội Anh em Dân chủ, Quảng Trị
86.
Hà Văn Thùy, nhà văn, TP HCM
87.
Nguyễn Đắc Diên, Bác sĩ nha khoa, TP HCM
88.
Thái Văn Cầu, chuyên gia khoa học không gian,
Hoa Kỳ
89.
Nguyễn Đăng Nghĩa, TS, Trung tâm nghiên cứu Đất,
Phân bón và Môi trường phía Nam, TP HCM
90.
Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn kinh tế độc
lập, nguyên thành viên tổ tư vấn của Thủ tướng, Hà Nội
91.
Phạm Quang Tuấn, PGS TS, Đại học New South
Wales, Sydney, Australia
92.
Hà Thúc Huy, PGS TS Hóa học, giảng dạy đại học,
TP HCM
93.
Vũ Trọng Khải, PGS TS, chuyên gia kinh tế Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, TP HCM
94.
Nguyễn Văn Tạc, nhà giáo hưu trí, Hà Nội
95.
Nguyễn Mai Oanh, chuyên gia nông nghiệp, nông
thôn, TP HCM
96.
Nguyễn Đăng Quang,
Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
97.
Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng
thư ký Lực lượng nhân dân sinh viên học sinh tranh thủ dân chủ Đà Lạt, Nha
Trang, Khánh Hòa
98.
Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội
99.
Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TP HCM
100.
Ngô Thanh Hà, cán bộ hưu trí, TP HCM
101.
Dương Tường, nhà thơ – dịch giả, Hà Nội
102.
Mai Nghiêm, chuyên gia sinh học và giáo dục,
Canada
103.
Trần Tiến Đức, nhà báo, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo
dục- Truyền thông Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
104.
Nguyễn Thị Từ Huy, TS Văn học, TP HCM
105.
Nguyễn Văn Cường, kỹ sư xây dựng, TP HCM
106.
Trần Minh Thảo, Viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng
107.
Trần Hải, kỹ sư xây dựng, TP HCM
108.
Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân
viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại TPHCM, TP HCM
109.
Vũ Thị Phương Anh, TS, nguyên giảng viên Đại học
Quốc gia TPHCM, TP HCM
110.
Phùng Hoài Ngọc, Thạc sĩ, nguyên Trưởng bộ
môn Ngữ Văn Trường Đại học An Giang, An Giang
111.
Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
112.
Phạm Bá Hải, Thạc sĩ kinh tế, TP HCM
113.
Nguyễn Xuân Nghĩa, TS,giảng viên đại học,TP HCM
114.
Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, Hà Nội
115.
Hà Sĩ Phu, TS, nhà văn, Đà Lạt, Lâm Đồng
116.
Phạm Chí Dũng, nhà báo, TP HCM
117.
Mai Thái Lĩnh, nhà giáo nghỉ hưu, Đà Lạt, Lâm
Đồng
118.
Huỳnh Nhật Hải, cán bộ hưu trí, Đà Lạt, Lâm Đồng
119.
Huỳnh Nhật Tấn, cán bộ hưu trí, Đà Lạt, Lâm Đồng
120.
Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, TP HCM
121.
Trần Thế Việt, nguyên Bí thư thành ủy Đà Lạt,
Lâm Đồng
122.
Lê Công Giàu, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến
Thươngmại và Đầu tư, TP HCM
123.
Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
124.
Lê Thăng Long, doanh nhân,TP HCM
125.
Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư kinh tế biển, TP HCM
126.
Lê Anh Hùng, dịch giả, Hà Nội
127.
Nguyễn Mạnh Hùng, mục sư, Dĩ An, Bình Dương
128.
Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nghỉ hưu,
California, Hoa Kỳ
129.
Trần Hữu Khánh, cán bộ hưu trí, TP HCM
130.
Đặng Bích Phượng, cán bộ hưu trí, Hà Nội
131.
Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo,TP HCM
132.
Trần Hữu Kham, thương binh, cựu tù chính trị Côn
Đảo, TP HCM
133.
Phạm Duy Hiển, kỹ sư đã nghỉ hưu, Vũng Tàu
134.
Bùi Ngọc Thanh, cán bộ hưu trí, Geneva, Thụy Sỹ
135.
Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí, Đà Lạt, Lâm
Đồng
136.
Hoàng Thị Hà, cán bộ hưu trí, Hà Nội
137.
Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, TP HCM
138.
Trần Quốc Trọng, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội
139.
Trương Anh Thụy, nhà văn, Hoa Kỳ
140.
Lê Mạnh Chiến, nhà nghiên cứu ngôn ngữ,Hà Nội
141.
Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt, Lâm Đồng
142.
Chân Phương, nhà thơ, Boston, Hoa Kỳ
143.
Đỗ Khiêm, nhà văn, California, Hoa Kỳ
144.
Trần Công Thạch, nhà giáo hưu trí, TP HCM
145.
Nguyễn Lương Thúy Kim, nghề tự do, TP HCM
146.
Huỳnh Minh Nguyệt, cán bộ hưu trí, TP HCM
147.
Trần Văn Bang, kỹ sư, TP HCM
148.
Lê Vĩnh Trương, Vận tải, TP HCM
NGUYỄN PHÚ TRỌNG
thăm giàn khoan HD 981
Các bạn có biết tại sao Nguyển Phú Trọng câm miệng không ?
Hảy xem hình dưới đây thì biết tên hèn nầy đả bán nước bán biển rồi.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG thăm giàn khoan 981 khi TC khánh thành
Mời xem hình giàn khoan TQ HD 981 của TC, đả được xây từ tháng 4/2008 tại Thượng Hải với mục đích rõ rệt là khoan dầu tại Biển đông đã nói lên dã tâm xăm lăng của họ,vậy mà chính quyền CS VN lại làm lơ để giặc ngang nhiên vào nhà mình là Hoàng Sa để khai thác dầu khí đây là bằng chúng CS VN yếu hèn để mất đất và hải đảo của tổ tiên,vậy là bán nước cho chệt,mà chệt không mất một viên đạn nào,cái nhục nầy làm sao mà rửa ...
Mời xem hình giàn khoan TQ HD 981 của TC, đả được xây từ tháng 4/2008 tại Thượng Hải với mục đích rõ rệt là khoan dầu tại Biển đông đã nói lên dã tâm xăm lăng của họ,vậy mà chính quyền CS VN lại làm lơ để giặc ngang nhiên vào nhà mình là Hoàng Sa để khai thác dầu khí đây là bằng chúng CS VN yếu hèn để mất đất và hải đảo của tổ tiên,vậy là bán nước cho chệt,mà chệt không mất một viên đạn nào,cái nhục nầy làm sao mà rửa ...
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.