Từ Khủng Hoảng Kinh Tế Đến Khủng
Hoảng Xã Hội Pháp Luật: Những Mô Hình Đổ Vỡ : Một Xã Hội Bế Tắc, Luật
Pháp Tụt Dốc Và Khủng Hoảng Công Lý
Chính quyền cộng sản Việt
Nam cướp đất của dân (Phần 1)
https://www.youtube.com/watch?v=7YaYeYRxPuk
Chính quyền cộng sản Việt Nam cướp đất của dân (Phần 2) https://www.youtube.com/watch?v=RYhZ10eVVUk
----------------------------------------------------
Tham Nhũng Trong Chế Độ Cộng Sản
Vi Anh
August 21, 20140 Bình Luận
Tham nhũng chế độ
nào cũng có ít nhiều thôi vì cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng là lợi dụng, lạm
dụng, hối mại quyền thế của những kẻ có chức có quyền. Quyền hành mà không có
giám sát, ngăn chận là sẽ hủ hoá.
Thời
vua chúa độc quyền ở VN, người dân Việt coi bọn quan lại tham nhũng là “cướp
ngày” và bọn “cướp đêm” là giặc qua câu ca dao dạy con “Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.” Còn thời CS độc quyền, ở VN cũng như bên
Tàu, tham nhũng là quốc nạn vì độc tài CS là độc tài cả một giai cấp, độc tài
đảng trị toàn diện, giành lấy cả quyền tư hữu của người dân, nghiệt ngả hơn độc
tài vương quyền nhiều. Nên tham nhũng trong chế độ CS là hết nói nổi, đảng viên
cán bộ CS lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ.
Tham nhũng thành bịnh trầm kha,
kinh niên hết thuốc chữa vì Đảng CS toàn quyền không ai kiểm soát, ngăn cản nên
trở thành cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng. CS dùng việc trị tham nhũng để triệt
hạ phe nhóm, chớ không phải để bài trừ làm sạch chánh quyền, ích nước lợi dân
vì bài trứ hết tham nhũng thì Đảng đâu còn ai để xài vì chống tham nhũng cũng
như chống Đảng.
Tin Đài Truyền hình
IBC ở Little Saigon, gần đây cho biết tại VNCS Báo Đời Sống và Pháp Luật VNCS
hôm 4 tháng 8, 2014 có đăng lời tuyên bố của ông Chu Văn Vẻ, cựu thẩm phán tòa
tối cao VNCS tuyên bố tại hội nghị thảo luận về công tác chống tội phạm 6 tháng
đầu năm 2014 được tổ chức ở Hà Nội. Rằng “Cứ nhìn vào các lực lượng thanh tra,
kiểm tra thì thấy ngay bộ mặt tham nhũng và chỉ cần gõ cửa là được nhả phong
bì.”
Ông nói “nhân viên ngành tư pháp Việt Nam bị mua chuộc bằng tiền bạc, hiện
vật có giá trị và kể cả bằng tình cảm không phải là hiện tượng mới lạ, mà đã
trở thành đại họa trong công cuộc chống tham nhũng tại Việt Nam hiện nay. Ông
Chu Văn Vẻ kể về một nhân viên cấp thấp của một tòa án, hưởng lương “ba cọc ba
đồng” nhưng lại có xe riêng để đi. Theo ông Vẻ, đây là một ví dụ điển hình cho
thấy, “viên chức chính quyền Việt Nam không tham nhũng thì lấy đâu ra tiền mà
mua xe hơi để đi.”
“Ông Chu Văn Vẻ
khẳng định rằng, những người được gọi là nhân viên làm công việc “cầm cân nảy
mực” ở Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tham nhũng. Ông nói, “Người có chức vụ
trong bộ máy công quyền nói chung chứ không riêng gì ngành tòa án, thường tự
tung tự tác. Họ muốn thêm vào, hoặc bỏ bớt tình tiết nào trong vụ án là quyền
của họ. Khi họ đã bị mua chuộc thì mọi tình tiết tăng nặng, hoặc giảm nhẹ đều
bị thay đổi hết.” Ông Chu Văn Vẻ còn tố các lực lượng cán bộ thanh tra và kiểm
tra muốn có phong bì, thì chỉ cần đi gõ cửa nhà người dân.
Tin thêm cũng của
Đài Truyền hình IBC, tựa đề có vẽ ví von về những người mà vua CSVN là Hồ chí
Minh gọi là “đầy tớ của nhân dân”, nhưng hiện tại giàu nức đố đổ vách. Tin rằng
“Quan chức CS Việt Nam giỏi ‘để dành’ nên bị trộm viếng thăm. “Trong thời gian
qua các quan chức CSVN thường bị trộm viếng…” Ông nào ông nấy, từ Miền Nam ra
Miến Trung, đến Miền Bắc, lên Cao Nguyên cũng bị trộm mất bạc tỷ VN, hàng chục
ngàn Mỹ Kim, và cả trăm cây vàng y.
Tiêu biểu như “ông Phạm Minh Tú, Trưởng Ban
Quản trị dự án huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, khai báo bị trộm xâm nhập tư gia,
lấy mất 1.5 tỷ đồng và 4,000 Mỹ kim. Người ta nhận định, thủ phạm vụ đột nhập
tư gia ông Tú để ăn trộm, cũng là kẻ hoặc là những kẻ từng viếng nhà hàng loạt
viên chức các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, Trà Vinh… Đặng Xuân
Thọ, Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Kon Tum, có vợ là Trưởng Phòng Tổ chức của Cục Thuế
tỉnh Gia Lai khi hai vợ chồng ông Thọ đi du lịch. Sau này khi cảnh sát bắt được
băng trộm bốn tên đã xâm nhập tư gia của vợ chồng ông Thọ, người ta mới biết
hai vợ chồng “để dành” được một va li vàng, số vàng chứa trong va li đó tương
đương… 2.7 tỉ… Ông Đồng Xuân Thọ, Phó Ban Chỉ đạo Phòng – Chống tham nhũng tỉnh
Đồng Nai, lấy một chiếc Toyota Altis trị giá khoảng 800 triệu…Ông Trương Công
Chiến, Đội trưởng Chi cục Thuế quận Bình Tân, Sài Gòn làm nhiều người choáng
khi số tiền, vàng, Mỹ kim mà hai vợ chồng ông để dành được lên tới 6 tỉ đồng.”
Trên dây chỉ là
những cán bộ đảng viên ở tỉnh, huyện, tức thường thường bậc trung thôi, mà tham
nhũng để dành được tiền tỷ, Mỹ kim chục ngàn và vàng hàng trăm, ngàn lượng như
vậy, thì thử hỏi các bộ đảng viên cao cấp làm bí thư tỉnh uỷ, bộ, thứ, cục, vụ,
viện trưởng, trưởng ban trung ương Đảng, thủ tướng, phó thủ tướng chánh phủ,
chủ tịch Quốc Hội, chủ tịch nước, tướng lãnh thì còn tham nhũng để dành được
bao nhiêu nữa. Cán bộ đảng viên CS khắp ba miền của đất nước VN tham nhũng và
tham nhũng bất cứ lúc nào, bất cứ việc gì.
Lời nói trên không
phải của người dân Việt bất đồng chánh kiến với CS mà CS gọi là “lực lượng thù
địch’. Lời nói ấy là lời nói của Ô. Chu Văn Vẻ, cựu thẩm phán tòa tối cao Việt
Nam, nói trong một hội nghị của Đảng Nhà Nước, được báo của Đảng Nhà Nước là
Báo Đời Sống và Pháp Luật VNCS trích dẩn và đăng. Không lẽ một viên chức CS lại
đi nói xấu chế độ; dù đã hưu Ô Vẽ một đảng viên cao cấp CS “dẫu lìa ngó ý cũng
vươn tơ lòng”, nên những tiết lộ của Ô. Vẽ chỉ một phần, thực tế còn tệ hơn
nhiều.
VNCS giao việc bài
trừ tham nhũng cho Chánh Phủ, đặc biệt là Ban Thanh Tra trung ương. Sau đó Tổng
Bí Thư và Thủ Tướng đấu đá nhau. TBT Nguyễn phú Trọng dùng đòn chống tham nhũng
để triệt hạ TT Nguyễn tấn Dũng. Tổng Trọng mở đại hội trung ương Đảng xẻ khô
tham nhũng TT Dũng.
Nhưng đa số trung ương uỷ viên kiêm nhiệm chức vụ bên Nhà
Nước, đã nhận ân sũng, quyền lợi nổi chìm của Nhà Nước mà TT Dũng dành cho rất
nhiều, nên Tổng Trọng mếu máo “báo cáo” với đại hội sau khi biểu quyết, là đại
hội không “nhứt trí kỷ luật Bộ Chánh Trị” trong đó có “đồng chí X” mà ai cũng
biết là TT Dũng.
Còn ở TC một chế độ
CS đang độc quyền đảng trị toàn diện trên một nước lớn hạng nhì về diện tich và
hạng nhứt về dân số trên toàn cầu, Chủ Tich Tập cận Bình từ khi lên ngôi cũng
dùng sách lược chống tham nhũng để diệt đối thủ, củng cố quyền hành vào tay
mình. Ông tuyên bố diệt “từ con hổ đến con ruồi” tham nhũng.
Tính ra chưa đầy
một năm rưỡi lên ngôi, Ô Tập đã hạ trên 10 ngàn đảng viên, cán bộ, công nhân
viên. Tiêu biểu là Bí Thư kiêm Chủ Tịch Trùng Khánh, Uỷ viên Bộ Chánh trị Trung
ương đảng Bạc Hy Lai. Ông Bạc này cũng là một hoàng tử đỏ như Ô. Bình, người có
tham vọng trở thành nhân vật số 1 của Đảng Nhà Nước. Ô. Chu Vĩnh Khang, là một
trong 9 người của Bộ Chánh Trị, có quyền lực nhứt của Đảng Nhà Nước TC. Ô. Chu
là người từng nắm bộ máy an ninh nội chính toàn quốc. Thượng Tướng Từ Tài Hậu là
phó chủ tịch Quân ủy Trung ương. Ô Võ Trường là Giám đốc Công an Thành phố
Thiên Tân. Tất cả bị Ô. Tập triệt hạ bằng tội danh tham nhũng.
Vi Anh
Từ Khủng Hoảng Kinh
Tế Đến Khủng Hoảng Xã Hội Pháp Luật: Những Mô Hình Đổ Vỡ: Một Xã Hội Bế
Tắc, Luật Pháp Tụt Dốc Và Khủng Hoảng Công Lý
Bề sau của khủng
hoảng Kinh tế đưa đến khủng hoảng Công lý (la Justice) phải chăng có một
khủng hoảng về Luật pháp (le Droit)? Luật «thực nghiệm» (le droit positif)
có còn «công bằng» (juste) không?
Từ đầu thếv kỷ thứ
21, từ khoảng chục năm nay, chúng ta bị tràn ngập bởi những những ngọn sóng
thần-tsunami tin tức hằng ngày – qua những mạng thông tin – về cuộc sống khó
khăn do khủng hoảng kinh tế. Chúng ta sống với khủng hoảng kinh tế, chúng ta
suy nghĩ, lý luận,vui buồn, phản ứng do biểu đồ của khủng hoảng kinh tế, và do
đó ngày nay chúng ta cùng thế hệ con cháu chúng ta sanh hoạt thích ứng với
khủng hoảng kinh tế.
Nói tóm lại, cũng từ và do khủng hoảng kinh tế ấy, mọi
hoạt đông sanh hoạt xã hội của đất nước chúng ta đang ngụ và cả thế giới đều bị
chi phối, thậm chí đến cả các cơ quan, cơ chế hành chánh quản trị điều hành ;
và cuối cùng, dẫn đến một khủng hoảng chánh trị đặt lại tất cả những quan niệm
suy nghĩ, từ nhơn sanh quan về mô hình dân chủ, đến đời sống xã hội hay quan hệ
con người hay thái độ hành xử với môi trường sanh thái…
Đâu rồi những mô
hình lý tưởng làm mẫu cho những giấc mơ dân chủ của tuổi trẻ của chúng tôi,
những học trò ngành luật, ngành quản trị hành chánh hay chánh trị học, gốc công
dân các quốc gia nhược tiểu á-phi đến du học tại thủ đô ánh sáng Paris hay các
thủ đô các quốc gia âu-mỹ tiên tiến ?
Thế giới phương tây, cái nôi của nền Dân
chủ, của những sanh hoạt dân chủ, những bài học từ Magna Carta[1] đến Serment du Jeu de Paume.
[2] Nước Pháp với cái những cải cách xã
hội của Chánh phủ Mặt trận Bình dân năm 1936[3] với nền Giáo dục
đại chúng, cưởng bách, miễn phí và thế tục-laïc của Jules Ferry (1882-1893),[4] với chuổi dài những cuộc Cách Mạng
từ Đại Cách Mạng 1789 đến Mặt trận Bình dân 1936, hay cả cuộc Cách Mạng tháng 5
năm 1968…[5] đã gieo vào chúng tôi những tư
tuởng, xác quyết chắc chắn rằng chẳng những phải có Dân chủ mới có được Tự do
mà phải có Dân chủ mới tạo được Pháp trị, tạo được Công lý và Công bằng.
Hết rồi những cơ
chế chánh trị rõ ràng với những học thuyết rõ ràng. Ngày nay những hệ thống
chánh trị đều là những hệ thống vá víu, lai căng, tư bản không ra tư bản xã hội
cũng chẳng ra xã hội, toàn những lai căng, lỡ dở, nào là Cơ đốc-Xã hôi, nào là
Dân chủ-Xã hội…thậm chí Tư bản-Cấp tiến, hay Cơ đốc-Cấp tiến …!
Những cải
cách, những cải tố là chỉ những biện pháp, những chương trình ngắn hạn để giải
quyết một vấn đề kinh tế hay xã hội, một khủng hoảng chánh trị cấp thời đang
diễn, hay những biến chuyển đột ngột. từ những mâu thuẩn xã hội, từ loại đình
công bãi chợ, cho đến những xung đột biên giới, những bạo loạn hay những biến
động quân sự, hoàn toàn thiếu hẳn một cái nhìn viễn tượng.
Chánh trị ngày nay,
và những người hoạt động chánh trị chỉ là một hảng sửa xe với những anh thợ sửa
xe đang cố lay hoay làm sao cho cổ máy ( nhà nước) hằng ngày chạy, nhưng luôn
luôn với cặp mắt chăm chú vào hai biểu đồ, một là biểu đồ chứng khoán các thị
trường chứng khoán trên thế giới, đặc biệt cái số một là Wall Stret New York
Huê kỳ, và cái biểu đồ thứ hai là biểu đồ đo lường chỉ số cảm tình viên của
mình.
Nói tóm lại, xem sức mạnh của tiền và sức thu hút quần chúng cá nhơn. Từ
Obama Huê kỳ, đến Sarkozy hay Hollande, cựu và tân Tổng thống Pháp, hay bà
Merkel Thủ tướng Đức hay ngay cả Poutine, tay độc tài Nga đều hành động theo
con tim quần chúng – mỵ dân – với sự trợ giúp của những cơ quan truyền tin đại
chúng làm công cụ tuyên truyền cho quyến lợi cá nhơn mình!
Ngay từ đấu thế kỷ
21, qua những « biến cố về luật pháp » xảy ra ở tại Pháp, như vụ án Outreau, vụ
án những nghi can giết ông Tỉnh trưởng (Préfet) Erignac, cựu Tỉnh trưởng Corse,
hệ thống Tư pháp và Luật pháp của nước Pháp đang trãi ra một giai đoạn khủng
hoảng trầm trọng. Cộng thêm ngày nay, những khủng hoảng xã hội, từ những bạo
loạn, gần như định kỳ ở các ngoại ô các thành phố lớn ở Pháp hay ở âu-mỹ hay
ngay trong tuần qua, cơn bạo loạn ở thành phố Fergusson Missouri Huê kỳ.
Các
quốc gia tiên tiến tây phương âu-mỹ cần phải đặt lại vấn đề « làm sao các cộng
đồng sống chung với nhau hòa thuận », « làm sao hòa nhập những văn hóa, tập
tục, tôn giáo khác nhau sống cạnh nhau và cùng nhau xây dựng một xã hội chung
với một quan niệm luật pháp và công lý chung?»
Nếu chúng ta định
nghĩa «công bằng pháp luật» là nền tảng của «công lý» và «hệ thống tư pháp» thì
ngày nay chúng ta nhận xét rằng hệ thống tư pháp của Cộng hòa Pháp ngày nay,
phục vụ càng ngày càng «bất công» đối với « pháp danh nhơn » (justiciables) nói
riêng và đối xã hội nói chung.
Hệ thống hoạt động chậm chạp, thủ tục tố tụng
phức tạp, luật lệ, quy chế rườm rà, lượm thượm, những án lệ lẫn lộn, và nguy
hiểm hơn nữa, những bản án sai lầm (erreurs judiciaires) trầm trọng. Những sửa
sai, những biện pháp canh tân, bổ túc chưa có đủ thời gian để chứng minh một
hiệu quả tích cực thì nay chúng ta, đúng hơn chúng tôi, những người công dân xứ
Pháp và những nhà luật học sống trên đất Pháp, đang lo và sợ hệ thống luật pháp
của đất Pháp đang đi vào những chệch hướng tiêu cực.
Ưu tư nầy không
riêng gì cho nước Pháp cả, các quốc gia dân chủ tiên tiến trên thế giới đều gặp
phải. Từ các quốc gia với những bộ luật « thực nghiệm » có quy ước, quy chế
thành văn (như nước Pháp) cho đến các quốc gia với những « luật common law »
(án lệ và tục lệ biến thành luật lệ).
Ở các quốc gia như nước Pháp, hệ thống
thẩm phán đoàn (juges) bị tắc nghẻn, và cả cá nhơn các thẩm phán cũng là một
trở ngại, tắc nghẻn cho hoạt động tư pháp và công lý.
Tiến trình hoạt
động tư pháp bị bế tắc, trở ngại ? hay công lý bị trở ngại ? nghĩa là ngày nay
chúng ta không định nghĩa được công lý , vậy thì :
1. Công lý và luật
pháp: Công lý là gì? Luật pháp là gì? ai làm luật?
Thật là vớ vẫn, đặt
một câu hỏi như vậy, một nhà luật học như chúng tôi, được đào luyện tại một
quốc gia có một bộ Luật bộ như Bộ luật Napoléon. Vậy thì …
Tất cả cái gì công
bằng, đúng với công lý là phù hợp với luật pháp! Và luật pháp là
những quy ước, quy chế thành văn. Ông thẩm phán, ông quan tòa chỉ chiếu vào quy
chế thành văn, thành luật ấy mà phán xét rằng một hành động đúng hay sai (đối
với luật). Luật lệ đo lường hành động đúng hay sai đối với quy chế biến thành
luật. Dễ quá!
Nhưng cái khó của
luật pháp là các quy chế thành văn thành luật ấy, mặc dù đã thành văn nhưng vẫn
không thể đo lường trước, tiên liệu, và giải quyết mọi tất cả mọi khía cạnh.
Các nhà đại luật gia, các thầy dạy luật học vẫn thường nhắc nhở rằng : hãy giữ
tinh thần «làm luật» (esprit de loi) hãy giữ những hướng đi, những nguyên tắc
của luật học, và đừng đi vào chi tiết của hệ thống sanh hoạt hằng ngày phức tạp
của con người.
Một luật lệ tốt là một luật lệ muôn thuở, phi thời gian tánh và
phi nhơn cách (une bonne loi est intemporelle et impersonnelle – câu định nghĩa
của một trong những thầy luật của chúng tôi không nhớ của thầy nào). Đọc giả
nào nhớ, xin nhắc tuồng dùm, muôn vàn cảm tạ.
«Mọi hành động xâm
phạm đến người khác buộc người xâm phạm phải bồi thường » (Tout fait quelconque
de l’homme qui cause à autrui un dommage, oblige celui par la faute duquel il
est arrivé, à le réparer)
Điều 1383 của bộ
Dân luật nước Pháp là một thí dụ, chỉ có hai câu để đưa ra những nguyên tắc.
Nhưng những nguyên tắc ấy đã mở rộng cho hàng trăm trang giấy cho các án lệ.
Công việc của các vị thẩm phán, các quan tòa là áp dụng những nguyên tắc ấy cho
đúng vào những trường hợp kiện tụng khác nhau, mỗi trường hợp, mỗi biệt lệ.
Công lý không cứ ở
bài viết, câu viết. Công lý là ở cái áp dụng từ cái nhản quan, góc độ nhìn của
vị thẩm phán, quan tòa, bồi thẩm đoàn với ánh sáng của thực tại.
Cái khó khăn thứ
hai, và là cái ưu tư của nhà luật học ngày nay là một điều luật (thành văn) bất
cứ ai cũng viết được và có thể viết một cách bừa bãi.
Bừa bãi, vô trách
nhiệm, chúng tôi muốn nói rằng : đáng lý một điều luật phải được viết trong
tinh thần có chiều sâu, phi thời gian tánh, minh bạch, rõ ràng, và có tánh cách
phổ thông, nhưng trái lại, ngày nay các luật lệ được viết với nhiều chi tiết,
nhiều phần linh tinh, bổ túc, biệt lệ, trái với tánh cách phổ thông.
« Ai ai
cũng phải biết luật » (Nul n’est sensé d’ignorer la loi) : nhưng làm sao biết
được khi có một sự lạm phát luật lệ, hằng trăm quy ước chồng chất lên nhau, cái
nọ bổ túc cái kia, cái nọ phản ý cái kia. Quy chế công nhơn, quy chế công dân,
cái gì cũng luật nầy luật nọ, kể cả luật giao thông, ..
Trong thời gian
nhiệm kỳ dân cử, một thời gian nhiệm kỳ Quốc hội, là một thời gian để các vị
dân cử làm luật. Những luật lệ, những quy chế sanh ra cho một nhiệm kỳ, sống
với thời gian của nhiệm kỳ của nhà dân cử làm luật có còn đủ hiệu quả không ?
Vì ai cũng làm luật được cả. Chúng tôi muốn nói đến những vị dân cử ấy. Và
quyền lập pháp được xữ dụng tối đa. Mỗi nhiệm kỳ dân biểu, thậm chí mỗi thay
đổi chánh phủ, những vị tân cử đều muốn để tên mình « lưu lại một cái gì với
núi sông ». Rồi tranh cải giữa « phe cầm quyền » và « phe đối lập ». Làm luật
để « giúp chánh phủ phe ta », nên rất nhiều luật do « chánh phủ tổ chức viết ra
»… và đau đớn thay ! … pháp trị là vậy !
Vì vậy, luật lệ
hiện hành cũng do các nhà chánh trị làm ra. Và chúng ta cũng nhớ lại câu nói
bất hủ của anh dân biểu Laignel (đệ tam cộng hòa Pháp) phán cho phe đối lập lúc
bấy giờ : « quý vị sai về mặt luật học, vì quý vị là một thiểu số chánh trị, »
( vous avez juridiquement tort parce que vous êtes politiquement minoritaires) »
Luật lệ đã biến
thành công cụ chánh quyền, và không còn phục vụ công lý và xã hội nữa.
2. Sức mạnh bất
công của Luật lệ
Câu nói bất hủ nầy
của François Mitterrand, cựu Tổng thống của nước Pháp vào cuối thế kỷ 20 qua đã
nói rõ cho chúng ta cái mâu thuẩn giữa luật lệ và công lý.
Trong quyển sách
«Luật lệ, quyền làm luật và nền tự do (Droit, Législation et Liberté) »,
Frédérick Von Hayek (1899-1992, Nobel Kinh tế học 1974) một trong những vị
thầy, thần tượng về mặt luật học và kinh tế học của chúng tôi, cho rằng những
quy chế luật pháp đang quản lý đời sống chúng ta không có gì liên hệ đến Luật
lệ cả, vì thiếu ánh sáng Công lý. Khủng hoảng về Luật và Công lý là một trong
những đề tài thầy Hayek thường nói đến.
Những quy chế luật
hiện hành (la législation) là luật thực nghiệm (droit positif). Luật thực
nghiệm là những đạo luật được đề nghị và đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp
(và những dân cử lập pháp), và những án lệ biến thành án luật hiện hành .
Quy chế luật hiện
hành (la législation) bỏ quên tinh thần làm luật bởi hai lẽ : lẽ thứ nhứt la
phe phái, lẽ thứ hai là tham vọng .
Về phe phái, dễ
hiểu thôi. Nhà làm luật phải bảo vệ phe hành pháp của mình, các người đã bầu
cho mình. Như vậy luật lệ biến thành một công cụ chánh trị bảo vệ một nhóm
người , một giai cấp, tính chất phổ thông không còn nữa, chỉ còn tính chất đặc
biệt : priva lex.
Về mặt tham vọng,
phức tạp hơn. Nhà chánh trị nào cũng có tham vọng tạo một cuộc cách mạng xã
hội, tổ chức lại xã hội, xã hội mới, con người mới .. « phải có danh gì với núi
sông ». Hai lẽ ấy đều nguy hiểm cả, vì nhà làm luật quên đi cái tánh chất phổ
thông của một điều luật, tánh chất phi thời gian tánh, phi nhơn cách. Une bonne
loi est intemporelle et impersonnelle.
Nếu người làm chánh
trị có một ý thức hệ cộng sản làm một bộ luật xâm phạm chủ quyền con người, đời
sống, tự do và tư hữu luật ấy có phải là công lý không ? Hỏi tức là trả lời.
Để kết luận
Công lý và luật lệ
là phải có những cố gắng tìm những phương cách giải quyết với những đề nghị
thích ứng ( solutions ajustées) những liên hệ giữa những con người.
Luật lệ giúp đở con
người giải quyết những khó khăn ấy. Luật lệ phải là một quá trình tiến triển
thận trọng, chín chắn, kiên trì để bảo vệ nhơn cách, nhơn phẩm va tự do cá
nhơn. Con người phải là trọng tâm của mọi ưu tư công lý, vì luật lệ, công lý là
của con người, cho con người.
Mong sao cho những
người làm luật trong và cho một Việt Nam tương lai, độc lập, tự do dân chủ và
công bằng có những suy nghĩ để có một mô hình Luật Pháp và Công Lý ấy ! Bởi vì …
Ubi lex, ubi
justicia. Ở đâu có Luật ở đấy có Công lý. Và chúng tôi cũng mong rằng Ubi jus,
ubi lex, ở đâu có luật, công lý phải được thực hành.
Mong lắm !
Hồi Nhơn Sơn
29/08/2K14 Những ngày bực mình
vì hổn loạn chánh trị tại Pháp
Phan Văn Song Tiến sĩ Công Pháp
Ghi Chú
[1] Magna Carta: Magna Carta
Libertatum hay bản Đại Công Uớc là một Công Ước gồm 63 điều lệ do các hầu tước
Anh quốc, vừa chiến thắng chiếm được London ngày 17 tháng 5 1215, sau cuộc nội
chiến ngắn giữa nhà Vua và các công thần hầu tước, buộc nhà Vua Jean ký kết
chấp nhận (tục gọi là Jean Vô Điền–Jean Sans Terre) ngày 15 tháng 6 năm 1215.
Công Ước bảo đảm quyền tự do cá nhơn, và ra luật Habeas Corpus ngăn cấm sự bắt
nhốt bừa bãi. Bản Công Ước nầy là dữ kiện xưa nhứt của một quá trình lịch sử
đem đến sự thành hình một thể chế hiến (pháp) trị và pháp trị của chế độ luật
học anh-mỹ – anglo-saxonne.
[2] Serment du Jeu de Paume: Lời thề ở Phòng
Vũ cầu. Đây là một Giao Ước làm ngày 20 tháng 6 năm 1789 tại phòng Võ thuật môn
Vũ Cầu (thủy tổ của Tennis ngày nay) ở Versailles, ngoại ô Paris Pháp, do 578
dân biểu thuộc thành phần Thứ Ba – Tiers État ( Quốc Hội Nhà Vua États Généraux
gồm ba thành phần : Quý Phái, Nhà Thờ và thành phần thứ Ba gồm các thương gia,
kỹ nghệ gia, phú nông, trí thức, nghề tự do nhà báo, viết văn, bác sĩ luật sư
…)
Tất cả thề ước quyết không tan hàng nếu không đồng thuận lập ra một bảng
Hiến Pháp. Đặt rõ vấn đề tổ quốc tối thượng – la souverineté nationale
và tam quyền phân lập – la séparation des pouvoirs, họ thành lập Quốc hội Lập
hiến – Assemblée Constituante đầu tiên của Cộng hòa Pháp đi đến bãi bỏ nền
phong kiến (4 tháng 8 năm 1789) tuyên bố Tuyên Ngôn Nhơn Quyền và Các Quyền
Công dân (26 tháng 8 năm 1789) và đưa ra những quan niệm chánh của một Hiến
Pháp (1791).
[3] Những cải cách
xã hội của Mặt Trận Bình dân 1936: Mặt trận Bình dân phái tả thắng cử, thành
lập chánh phủ Mặt Trận Bình dân. Luật lao động 40 giờ một tuần ra đời cùng với
quyền nghỉ hưởng Mùa Hè có lương-congé payé. Từ đấy bắt đầu một loạt cải cách,
mặc dù mật trận bình dân không còn nữa : 1945 các nghiệp đoàn lao động và quyền
tham gia kiểm soát lao động ra đời cùng với hệ thống và luật An Sanh Xã hội –
La Sécurité Sociale được tổ chức và Quyền Phụ nữ được phép bầu cử- droit de
vote des femmes được nhìn nhận. Năm 1946, lời mở đầu của Hiến Pháp Đệ tứ Công
hòa Pháp chấp nhận quyền lao đông – droit à l’emploi và quyền đình công – droit
de grève..
[4] Jules Ferry: Jules Ferry
1882-1893, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục từ năm 1879 đến 1783 của Đệ Tam Cộng Hòa Pháp,
cha đẻ của chế độ giáo dục phổ thông tân thời của Pháp, đã cho ra đời những
luật lệ Giáo dục Pháp buộc Giáo dục Tiểu học miễn phí (1881) bắt buộc và thế
tục-laïc (1882) cho mọi công dân Pháp.
[5] Cách mạng tháng Năm 1968: Dưới tên Tháng
Năm 68-Mai 68, lịch sử Pháp cận đại muốn nói đến một loạt dữ kiện xảy ra ở Pháp
vào tháng 5 năm 1968. Những đòi hỏi thay đổi cải cách, canh tân của giới trẻ
cho một thế giới mới đầy sáng tạo,( qua những phát biểu như xuống đường, sanh
viên biểu tình, đình công, chiếm trường học để xét lại, đặt lại những quan
điểm, nhản quan, chống chế độ và hệ thống suy nghĩ gia đình thủ cựu của chánh
phủ Tướng De Gaulle lúc ấy… …) đã đánh dấu một giai đoạn, đánh dấu một một sự
thay đổ lớn về mặt văn hóa, chánh trị và xã hội của thế kỷ 20 Pháp.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.