Với tiêu chuẩn ngày kiếm 1 đô
cũng là... có nghiệp thì:
Những
bà Mẹ Dân Oan miền nam khóc kêu cứu - mất đất, mất nhà
Bộ LĐ-TB & XH: VN thuộc nhóm có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới!
Thuỳ Dung
(TBKTSG Online) - Theo bà Nguyễn
Thị Lan Hương, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội, tỉ lệ thất nghiệp
của cả nước trong quí 2-2014 chỉ khoảng 1,84%, thấp nhất trong vòng một năm qua
và Việt Nam vẫn nằm trong số quốc gia có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới.
Tại buổi công bố bản tin
cập nhật thị trường lao động Việt Nam số 3-2014 diễn ra chiều ngày 3-9, bà
Hương cho hay tính đến ngày 1-7-2014 cả nước có 871.800 người trong độ tuổi lao
động bị thất nghiệp, giảm gần 174.000 người so với quí 1-2014 và giảm 155.000
người so với quí 2-2013.
Trong tổng số hơn
870.000 người thất nghiệp này, số người thất nghiệp thuộc nhóm không có chuyên
môn kỹ thuật (CMKT) chiếm phần lớn, gần 60% tổng số lao động thất nghiệp, đạt
521.400 người. Tiếp đến là lao động có bằng đại học và trên đại học, chiếm gần
17% với 147.000 người.
Mặc dù vậy, số lượng lao
động thất nghiệp trong nhóm không có chuyên môn kỹ thuật và nhóm có bằng đai
học trở lên đã giảm đi rõ rệt, lần lượt giảm 10,37 và 1,47 điểm phần trăm so
với quí 1-2014.
Lý giải về việc tỉ lệ
thất nghiệp giảm, bà Lan Hương cho hay số việc làm tạo ra trong quí 2-2014 tăng
chậm so với các quí trước nhưng do cung lực lượng lao động tăng chậm hơn nên đã
làm giảm áp lực lên tỉ lệ thất nghiệp.
Theo bản tin, trong quí
2-2014 nguồn lao động đạt 69,3 triệu người, tăng 134.000 người (0,2%) so với
quí 1-2014 và tăng 361.000 người (0,5%) so với quí 2-2013.
Bà Lan Hương cho hay,
cung lao động phản ánh xu thế già hoá dân số. Lực lượng lao động thanh niên
giảm mạnh, giảm 385.000 người (4,84%) so với quí 2-2013; trong khi lực lượng
lao động cao tuổi tiếp tục tăng nhanh, tăng 203.000 người (3,33%) so với quí
2-2013.
“Tỉ lệ già hoá dân số sẽ
làm giảm áp lực cho việc tạo công ăn việc làm nhưng lại làm tăng gánh nặng cho
vấn đề an sinh xã hội về sau” – bà Hương nói.
Số việc làm ở công nghiệp chế biến, chế tạo và xây dựng tăng
Đóng góp lớn cho sự tăng
trưởng việc làm trong quí 2-2014 là sự phục hồi khá ấn tượng của các ngành
“công nghiệp chế biến, chế tạo” và “xây dựng”. Theo bản tin, số việc làm tăng
thêm của những ngành này tương ứng là 154.800 và 190.800 so với quí trước đó.
Tuy nhiên, các ngành
giảm việc làm bao gồm tài chính ngân hàng và bảo hiểm, giảm 66.600 người do tác
động của cải cách ngành tài chính ngân hàng; ngành bán buôn, bán lẻ và sửa chữa
ô tô, xe máy và xe có động cơ khác, giảm 23.500 việc làm.
Đáng chú ý là việc làm
trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm mạnh nhất, 101.000 người. Điều
này một phần do đà khởi sắc của nền kinh tế nên lao động khu vực này đã quay
trở lại khu công nghiệp và khu chế xuất.
Quí 2-2014, có trên 22
triệu người không có chứng chỉ bằng cấp đang làm những nghề đòi hỏi có CMKT,
phản ánh cung lao động không đáp ứng cầu CMKT, đặc biệt là các nghề “lao động
có kỹ thuật trong nông nghiệp”, “thợ thủ công có kỹ thuật” và “thợ có kỹ thuật
lắp ráp và vận hành máy móc”.
Trái lại, có tới 0,75
triệu người có trình độ đại học và trên đại học đang làm các nghề yêu cầu CMKT
thấp hơn, phản ánh cung lao động đã vượt cầu, đặc biệt các ngành nghề “nhân
viên dịch vụ cá nhân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và bán hàng có kỹ thuật”,
“nhân viên, chuyên môn sơ cấp, kỹ thuật làm việc tại văn phòng, bàn giấy” và
“chuyên môn kỹ thuật bậc trung”.
Nghề gì "hot" trong tương lai?
Đánh giá về triển vọng
thị trường lao động, ông Phạm Minh Huân, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, cho rằng kinh tế tiếp tục phục hồi sẽ có tác động tích cực đến thị
trường lao động.
Dự kiến, nhu cầu lao
động tiếp tục tăng mạnh trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất
phân phối điện, khí đốt; thông tin và truyền thông; hoạt động y tế và trợ giúp
xã hội.
Dự báo mức tăng trưởng
đối với những ngành nghề trên khoảng từ 3,5% đến 4% so với 6 tháng đầu năm
2014.
Lao động trong lĩnh vực
tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tiếp tục giảm. Tuy nhiên, chất lượng lao động
đáp ứng yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế vẫn là thách thức đối với thị trường
lao động trong thời gian tới.
TẶNG NHỮNG BẠN KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN CHÍNH TRỊ - Ảnh cuối tuần
Bức hình này được chụp lại trên SCTV8 - một kênh truyền hình của
nhà nước Việt Nam. Bạn chỉ cần nhớ 90 triệu dân Việt Nam đang cùng nhau gánh số
nợ là hơn 83 tỷ đô la Mỹ - tương đương 1,765,832,040,000,000 VND.
Việc tiếp theo của bạn là vẫn nên tiếp tục không quan tâm đến
chính trị và con số nợ riêng bạn sẽ phải trả giùm Nhà nước tại thời điểm này
30/08/2014 là 19,620,356 VND.
Nếu ngày mai bạn sinh con, xin đừng nói cho cháu biết rằng ngay khi cháu chào Việt Nam, cháu đã vinh dự được gánh con số nợ trên.
Nguồn: Trên mạng
Nếu ngày mai bạn sinh con, xin đừng nói cho cháu biết rằng ngay khi cháu chào Việt Nam, cháu đã vinh dự được gánh con số nợ trên.
Nguồn: Trên mạng
Đặt lại những vấn đề căn bản của quyền lực ở VN hiện nay: Quyền
lực phát ra từ nòng súng!
Âu Dương Thệ (Danlambao) - Suốt 69 năm qua những
người CS tự nhận là chống phong kiến, nhưng chính họ lại khai triển với mức độ
tinh vi và bạo ngược hơn về cách cầm quyền độc đoán của chế độ phong kiến của
các vua chúa, coi nhân dân như nô lệ, đất nước thuộc tài sản riêng của đảng độc
quyền. Thời con người còn ăn lông ở lỗ, kẻ có sức mạnh hơn người đã dùng sức
mạnh của mình để đè nén người khác. Thời phong kiến kẻ thắng được làm vua. Thời
XHCN cũng bắt chước thời phong kiến, coi nhà nước là của riêng của đảng (vua
tập thể), quân đội, công an là phương tiện độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng
dùng bộ máy công an mật vụ đàn áp người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ -
người canh gác tư tưởng- để bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm
bút. Như vậy, những người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của
thời kỳ Trung cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là
những người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực theo
tiêu chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng!...
*
Tại sao “Cách mạng Mùa
thu” biến thành chế độ toàn trị coi dân như nô lệ?
Sau 69 năm cướp chính
quyền: Đặt lại vấn đề ĐCS còn tư cách cầm quyền hay không?
Thời con người còn ăn
lông ở lỗ, trong những cuộc tranh giành phẩm vật thường kẻ nào có sức mạnh sẽ
thắng, có thể giết chết đối thủ và chiếm toàn bộ chiến lợi phẩm. Đây là thời kỳ
con người sống theo "luật rừng xanh", theo kiểu "chúa tể sơn
lâm", cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh giết kẻ yếu!
Tới thời phong kiến sự
thay đổi quyền lực trong xã hội cũng dựa trên bạo lực, kẻ nổi loạn thường nêu
cao chính nghĩa trừ vua bạo ngược, khi đánh thắng được vua chúa đương thời thì
tự mình xưng làm vua chúa mới. Người chiến thắng tự coi các tài sản thiên nhiên
và sinh mạng của người dân trong nước là tài sản riêng của giòng họ mình, không
những thế còn tự giành quyền cha truyền con nối hết đời nọ đến đời kia. Khi
người chiến thắng trở thành vua, lập quân đội riêng chỉ biết trung thành với
mình, định ra các luật lệ để bảo vệ ngai vàng, sẵn sàng dùng các lực lượng quân
sự đàn áp những cuộc chống đối của nhân dân, coi dân như sở hữu riêng, thậm chí
như cỏ dại!
Sau nhiều thế kỷ cầm
quyền nhiều chế độ phong kiến từ Đông sang Tây đã xây dựng các ngai vàng trên
dối trá, bạo ngược và tội ác. Nhân loại đã chứng kiến và cũng là nạn nhân của
sự tham lam quyền lực và tha hóa đạo đức của các vua chúa và bọn quí tộc. Các
nhà khoa học xã hội đã rút ra được bài học lịch sử: Quyền lực, tiền bạc, danh
vọng có sức quyến rũ rất lớn và dễ đưa con người tới sa ngã. Nếu không có sức
cản lại thì nó như ngựa không cương, xe không thắng rất nguy hiểm. Các nhà khoa
học còn nhận thấy, nơi nào quyền lực càng lớn thì chính nơi đó dễ dẫn tới sự
lạm dụng quyền lực càng cao, càng thô bạo.
Ở nhiều nước trên thế
giới người dân đã nhận rõ được là, nhiều bạo chúa thường quên đi những lời hứa
ban đầu và tự dựng lên các thuyết phản khoa học để biện minh cho những hành
động tàn nhẫn và các tội ác của họ để tiếp tục giữ quyền lực, trở thành bạo
chúa cực kỳ tàn bạo và vô đạo đức, chỉ lo đàn áp và bòn rút tài sản của đất
nước và nhân dân, coi sinh mạng của dân như thú vật. Vì vậy đã nổ ra những cuộc
Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền 1789 ở Pháp và 1776 ở Mỹ đòi các quyền tự do
nguyên thủy của con người là tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận,
tự do đi lại... Đồng thời để ngăn cản sự lạm dụng quyền lực của giới cầm quyền,
các cuộc cách mạng này còn thiết lập một hệ thống cơ chế tổ chức xã hội mới với
ba cơ cấu quyền lực căn bản trong một quốc gia là lập pháp, hành pháp và tư
pháp trên cơ sở độc lập và bình đẳng. Để thực hiện các quyền này các cuộc cách
mạng trên còn thừa nhận là, người dân có các quyền tự do hội họp, tự do bầu cử,
ứng cử; đồng thời còn xác nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Từ
đó chấm dứt chế độ vua chúa độc tôn, cha truyền con nối và thực hiện chế độ Dân
chủ Cộng hòa, trong đó người dân làm chủ vận mệnh của đất nước và quyền lực
được hạn định rõ ràng cả thời gian lẫn mức độ!
Các cuộc Cách mạng Dân
quyền và Nhân quyền chấm dứt chế độ nhân trị - luật lệ được giải thích tùy tiện
theo ý riêng của kẻ nắm quyền - và thay bằng chế độ pháp trị. Tức là chấm dứt
quyền sinh sát nhân dân tùy lòng tốt, tùy sự vui buồn, hỉ nộ của kẻ có quyền
lực và thay bằng cơ chế luật pháp từ giai đoạn soạn thảo, tới ban bố và thi
hành phải do những cơ quan và nhân sự độc lập, có khả năng chuyên môn, có tinh
thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp đảm trách.
Trải qua hơn hai thế kỷ
các xã hội Pháp, Mỹ, Bắc Âu và Tây Âu đã không ngừng hoàn thiện chế độ Dân chủ
đa nguyên và cơ chế kinh tế thị trường tiến bộ theo hướng mở rộng các quyền tự
do dân chủ, thượng tôn pháp luật... Nhờ vậy nhân dân các nước này thực sự đang
được hưởng các quyền dân chủ tự do căn bản, đồng thời sống trong phồn vinh. Các
quốc gia này đang trở thành gương sáng về chế độ Dân chủ đa nguyên và Kinh tế
thị trường trên hoàn cầu. Nhiều nước Á châu, Úc và Nam Mỉ cũng đã tự tin và
sáng tạo thực hiện chế độ Dân chủ đa nguyên và Kinh tế thị trường đang trở
thành các nước dân chủ có nền công nghiệp tiên tiến... Như thế Dân chủ đa
nguyên và Kinh tế thị trường tiến bộ không còn là đặc thù của một xã hội nào,
trái lại trở thành tài sản trí tuệ và sáng tạo chung của nhân loại.
Từ khi loài người kết
hợp thành những xã hội và quốc gia, nhiều học thuyết chính trị và kinh tế đã
được khai sinh và đã được thử thách từ thời Thượng cổ với luật rừng xanh, thời
Trung cổ với chế độ phong kiến, tới các chế độ độc tài cá nhân, quân phiệt và
đảng trị như các đảng Cộng sản và chế độ Dân chủ Đa nguyên. Nhưng đa số nhà
khoa học xã hội đã nhận định, chế độ Dân chủ đa nguyên là chế độ gần với con
người văn minh nhất.
Tuy nó chưa phải là chế độ tuyệt hảo, nhưng nhờ có những
cơ chế tổ chức quyền lực được phân chia độc lập và bình đẳng giữa ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, nên những lạm dụng quyền lực đã bị giới hạn triệt
để. Không những thế, trong Dân chủ đa nguyên các quyền tự do dân chủ căn bản về
dân quyền và nhân quyền của người dân được tôn trọng thực sự.
Trong Dân chủ đa
nguyên các chính đảng - ngay cả đảng cầm quyền và từ tổng thống tới thủ tướng -
không có quyền đứng trên tất cả, nó bị theo dõi và kiểm soát nghiêm ngặt và
thường quyên qua nhiều hệ thống công quyền và dân quyền. Tóm lại, Dân chủ đa
nguyên rất phù hợp với xã hội loài người, biết triển khai và phát triển mặt
mạnh của con người, đồng thời biết những phương pháp thích hợp và hữu hiệu để
ngăn chặn những tệ trạng của quyền lực... Vì thế nơi nào các định chế Dân chủ
đa nguyên được thực thi triệt để thì nơi đó người dân có nhân phẩm cao, đất
nước văn minh!
***
Vào tiền bán Thế kỷ 20
cả dân tộc VN đang sôi sục đánh đuổi thực dân Pháp đang đè đầu sĩ phu, bóc lột
nhân dân và bòn rút tài nguyên VN. Mục tiêu chung của nhân dân ta khi ấy là
giành độc lập và xây dựng một xã hội Dân chủ Cộng hòa theo chiều hướng chung
của nhiều xã hội văn minh. Nhiều tổ chức chính trị đã tham gia, trong đó có
nhóm những người CS do Hồ Chí Minh cầm đầu và được sự đỡ đầu của Đệ tam Quốc tế
Cộng sản dưới sự lãnh đạo của CS Liên xô đứng đầu là Stalin. Nhờ biết tổ chức
và có sách lược phù hợp, những người CSVN đầu tiên đã tránh không đả động tới
chủ nghĩa CS mà chỉ tuyên bố cùng với toàn dân và các lực lượng dân tộc đoàn
kết đánh đuổi thực dân giành độc lập, tự do và thiết lập chế độ Dân chủ Cộng
hòa. Đây là ý nguyện của toàn dân, được nhiều giới tin theo, nên nhóm ông Hồ đã
thành công trong cuộc "Cách mạng mùa Thu" cách đây đúng 69 năm. Chính
ngay trong đoạn mở đầu "Tuyên ngôn độc lập" ngày 2.9.1945 Hồ Chí Minh
đã xác nhận mục tiêu cuộc Cách mạng mùa Thu với nội dung như Cách mạng Dân
quyền và Ngân quyền ở Mỉ và Pháp gần hai thế kỷ trước. Ông Hồ đã trích dẫn
Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mỹ:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."[1]
Và ông cũng đề cao Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp:"Người ta sinh ra
tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi!"[2] Chính
ông Hồ đã đồng ý và còn nhấn mạnh thêm, đó là những chân lý: "Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được!"[3]
Như vậy không ai có thể
nói khác là, vào thời điểm đó Hồ Chí Minh đã thừa nhận mục tiêu Cách mạng mùa
Thu của VN cũng giống như mục tiêu Cách mạng Dân chủ, Dân quyền và Nhân quyền
của Pháp và Mỹ. Cho nên khi thành lập chính phủ đầu tiên, ông Hồ đã dùng tên
chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhưng từ sau hai chiến
thắng chống thực dân Pháp và chống Mỹ (riêng cuộc chiến chống Hoa Kỳ phải
nghiêm túc đặt lại: Đây là cuộc nội chiến Bắc-Nam và chiến tranh ý thức hệ, chứ
không phải "chiến tranh giải phóng") những người chiến thắng (ĐCS) đã
nghĩ rằng, đây là công lao và thành công của riêng mình. Cho nên sau khi tiếp
thu miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) các chiến lợi phẩm nắm được
coi như sở hữu riêng của họ: Chính quyền là độc quyền của ĐCS, quân đội và công
an cũng là phương tiện độc quyền của họ, ruộng đất và tài nguyên của đất nước
cũng đặt dưới quyền quản trị độc quyền của đảng (với tên mới "sở hữu của
nhà nước", nhưng nhà nước là của riêng đảng.)
Như thế không ai có thể
phủ nhận được là, đây chính là quan điểm của thời phong kiến, người nổi dậy
đánh thắng một triều đình rồi lên ngôi vua nắm quyền và tự ý coi mọi thứ trong
xã hội là tài sản riêng của mình. Quyền lực phát ra từ nòng súng! Một câu nói
từ cửa miệng Mao Trạch Đông, người sáng lập chế độ toàn trị tàn bạo ở Trung
quốc, đồng thời cũng là người đỡ đầu cho chế độ toàn trị ở VN, chính nó mở ra
những cơ hội cho Bắc kinh can thiệp thô bạo vào chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
VN suốt mấy thập kỷ qua, với các đỉnh cao là Hội nghị bí mật Thành đô (1990) và
giàn khoan HD 981 (2014).
Tư duy và tâm lý về
quyền lực đi ra từ sức mạnh của bạo lực bắt nguồn từ thời kỳ còn sơ khai của
con người trong thời ăn lông ở lỗ; giữa một số người tranh giành nhau một lợi
phẩm, kẻ nào giành được nó trở thành tài sản riêng. Một số người tranh giành
một mảnh đất, ai đánh bại được những người khác thì sẽ giành được mảnh đất và
coi đó là tài sản riêng, tự do sử dụng bao nhiêu lâu cũng được từ cha con cháu
chắt…! Đây là quan điểm và tâm lý theo "luật rừng xanh", "chúa
tể sơn lâm", kẻ mạnh ăn hiếp người yếu như đã trình bày ở trên. Nó đã được
triển khai trên một qui mô rộng lớn hơn và tàn bạo hơn dưới thời phong kiến
Nhưng trong thời đại
tiến bộ hiện nay thì quan điểm và tâm lý này của những người cầm quyền chế độ
toàn trị ở VN chứa đựng những sai lầm căn bản so với tiến trình phát triển
chung của nhân loại:
1. Sai lầm vì nhầm lẫn
giữa việc của một cá nhân với việc chung của toàn dân tộc. Đất nước không phải
là tải sản riêng, nhân dân không phải là tôi tớ hay nô lệ của người chiến
thắng.
2. Sai lầm về thời đại:
Kéo dài quan điểm bạo lực đẻ ra quyền lực của con người thời còn ăn lông ở lỗ
và thời phong biến vào thời đại mới của thế giới văn minh và khoa học. Trong
thời đại văn minh và khoa học hiện nay, chính quyền (nhà nước) không phải là sở
hữu riêng của một cá nhân hay một chính đảng, nó thuộc sở hữu chung của toàn
dân.
3. Họ quên và bội ước
với nhân dân nên đã chống lại những lời thề trước Ba đình của người sáng lập
đảng trong Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945, như đã trình bày ở phần trên.
Suốt 69 năm qua những
người CS tự nhận là chống phong kiến, nhưng chính họ lại khai triển với mức độ
tinh vi và bạo ngược hơn về cách cầm quyền độc đoán của chế độ phong kiến của
các vua chúa, coi nhân dân như nô lệ, đất nước thuộc tài sản riêng của đảng độc
quyền. Thời con người còn ăn lông ở lỗ, kẻ có sức mạnh hơn người đã dùng sức
mạnh của mình để đè nén người khác. Thời phong kiến kẻ thắng được làm vua. Thời
XHCN cũng bắt chước thời phong kiến, coi nhà nước là của riêng của đảng (vua
tập thể), quân đội, công an là phương tiện độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng dùng
bộ máy công an mật vụ đàn áp người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ - người
canh gác tư tưởng- để bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm bút. Như
vậy, những người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của thời kỳ
Trung cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là những
người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực theo tiêu
chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng !
***
Dưới chế độ toàn trị
công an thả cửa mớm cung, bắt nạn nhân phải nhận tội và người đứng đầu chế độ
toàn trị tự do mớm lời và bịa đặt bảo đó là nhân dân muốn như vậy, biến trắng
thành đen, giả thành thực. Để biện minh cho việc cầm quyền độc đoán và vô hạn
từ suốt 69 năm qua, những người cầm đầu chế độ toàn trị từ thế hệ này sang thế
hệ sang đã không ngừng dùng lý luận độc đoán của kẻ chiến thắng bằng bạo lực ép
mọi người phải theo, bất chấp những sự thực khách quan đã diễn ra trên thế
giới. Vì có bạo lực trong tay nên những người cầm đầu chế độ toàn trị đã tự do
mớm lời và quyết định thay cho nhân dân. Chính Nguyễn Phú Trọng đã tự dựng đứng
lên với tuyên bố "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta“![4] và “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem
lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các
dân tộc." [5]
Cũng vẫn giọng điệu của
kẻ cầm súng trong tay, ông Trọng còn nói cao ngạo và bất chấp sự thực: "Từ thực tế thì
thấy là chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất" và còn hống hách tước quyền tự quyết của
nhân dân VN: "Chúng tôi nói là ở Việt Nam chưa thấy sự
cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng".[6] Những
người tiền nhiệm của ông Trọng cũng nói theo kẻ cầm dao trong tay. Ngay trong
Báo cáo chính trị của Đại hội 7 (1991) dưới thời Đỗ Mười - một người cực kỳ bảo
thủ và đã từng gây ra nhiều sai lầm nghiêm trọng - cũng đã khẳng định rất độc
đoán:
“Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan
để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối
lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp
pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt
động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.”[7]
Nhưng về những lời tuyên
bố chống lại Dân chủ đa nguyên như vậy, Đỗ Mười và Nguyễn Phú Trọng phải trả
lời thẳng thắn trước nhân dân: Họ đang chống lại những lời thề của Hồ Chí Minh
trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 với các nội dung rất rõ như đã trình bày phần
đầu? Hay họ đang thừa nhận là, người sáng lập chế độ đã đánh lừa nhân dân? Và
như thế, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê
bán thịt chó?
Tuy Nguyễn Phú Trọng vừa
vẽ ra một bức tranh thiên đàng cực lạc của xã hội XHCN ở VN như vừa trình bày ở
trên, nhưng hình ảnh thực sự của xã hội ấy sau 69 thực hiện như thế nào? Cũng
chính Nguyễn Phú Trọng phải xác nhận chế độ độc đảng đang gây nên những bất
công khủng khiếp, không chỉ đối với nhân dân mà cả trong đảng:
“Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có
quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;... đất nước lại phát
triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản
chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác
động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có những
người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu
có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng
nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia
Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”[8]
Ông Trọng cũng phải nhìn
nhận, nay nhân dân rất oán ghét chế độ toàn trị XHCN:
"Đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng
oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự
suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng." [9]
Cũng vào dịp kỷ niệm 69
năm đi theo con đường XHCN Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phải mỉa mai dùng
lời đàm tiếu của người dân về sự suy thoái đạo đức trong chính sách cơ cấu cán
bộ của chế độ toàn trị là "Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn
trí tuệ...”[10]
***
Mặc dầu thừa nhận bất
công với nhân dân, tha hóa đạo đức của những kẻ có quyền trong cơ chế XHCN, tức
là công nhận kết quả hoàn toàn trái với mục tiêu sau 69 năm cai trị, nhưng nhóm
cầm đầu chế độ toàn trị lại vẫn ép buộc nhân dân phải tiếp tục tuân theo. Mâu
thuẫn đa chiều giữa lời nói và hành động của nhóm cầm đầu toàn trị càng thấy
thêm rất rõ trong phong trào tuyên truyền với khẩu hiệu“45 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đang phát động rầm rộ trong dịp 69 năm cướp chính quyền. Trong
việc này họ làm như rất kính trọng ông Hồ, nhưng thực ra chỉ là mục tiêu chính
trị nhằm phục vụ ý đồ riêng của họ. Họ muốn dùng hình ảnh ông Hồ để bảo vệ chế
độ, bảo vệ quyền lực cho cá nhân và phe nhóm. Vì nếu kính trọng ông Hồ thực sự
thì họ phải thực hiện trung thực những lời thề của ông với nhân dân được ghi
trong Tuyên ngôn Độc lập là thực hiện đầy đủ và toàn vẹn Dân quyền và Nhân
quyền như trong Tuyên bố của Cách Pháp 1789 và Tuyên ngôn Độc lập của Mỉ 1776 -
như đã trình bày ở trên - đồng thời họ cũng phải tôn trọng và thực hiện những
ước nguyện cuối cùng liên quan tới cá nhân của người sáng sập đảng đã ghi trong
Bản di chúc.
Hai việc liên quan trực
tiếp tới cá nhân Hồ Chí Minh ông đã viết rõ trong Bản Di chúc là:
1. Ông mong được hỏa
táng.
2. Khi đất nước thống
nhất những người có trách nhiệm trong đảng phải thực hiện một phong trào chỉnh
đốn đảng nghiêm túc và toàn diện để trong sạch hóa và phục vụ nhân dân.
Cho tới nay sau 45 năm
cả hai ước mơ cá nhân của Hồ Chí Minh đã hoàn toàn không được những người có
trách nhiệm trong đảng qua nhiều thế hệ không thèm đếm xỉa tới, thế thì nay làm
sao lại nói là “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”?
Về hai điểm liên quan
tới ước nguyện cá nhân ông Hồ, Bộ chính trị thời Nguyễn Văn Linh đã giải thích:
“Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về yêu cầu hỏa táng là
vì thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác
để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè quốc tế có điều
kiện tới viếng Bác...” [11]
Nhưng rõ ràng đây chỉ là
cách mớm lời để phục vụ mục tiêu chính trị riêng cho Đảng của Bộ chính trị khi
ấy, chứ tuyệt nhiên không phải ý muốn của Hồ Chí Minh. Tiếp theo bản Thông báo
này còn nói thêm “Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về
điểm này được làm khác với lời Bác dặn”.[12].
Khi ấy ông Hồ đã mất, cho nên đây không phải Bộ chính trị “xin phép” mà chính
Bộ chính trị đã tự ý tẩy xóa Bản Di chúc của ông sao có lợi nhất cho Đảng mà
thôi! Không những vậy, 45 năm sau các Bộ chính trị sau vẫn từ chối lời ước muốn
cá nhân của người sáng lập chế độ. Họ yêu và kính Hồ Chí Minh như vậy sao? Đã
thế Bộ chính trị hiện nay vẫn mở miệng dối trá với chính mình và hô hoán đánh
lừa nhân dân “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”!
Còn về điểm trong Di
chúc Hồ Chí Minh yêu cầu chỉnh đốn Đảng sau khi thắng Mỹ, như “chỉnh đốn lại Đảng,
chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân...”[13] Họ
cũng đã tìm cách lấp liếm, tự ý hủy bỏ và giải thích rất tùy tiện:“Việc chưa công bố một
số đoạn Bác viết thêm năm 1968 về những việc cần làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu
nước giành được thắng lợi hoàn toàn, đó là vì năm 1969 khi Bác qua đời, cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn đang gay go ác liệt, chúng ta chưa giành
được thắng lợi cuối cùng. Nên việc công bố những đoạn nói trên lúc ấy là chưa
thích hợp.”[14]
Nhưng từ sau chiến thắng
1975 vẫn chưa có lần nào các Bộ chính trị sau này đã “chỉnh đốn lại Đảng” triệt
để và toàn diện theo lời khuyên của ông Hồ.
Điều chính họ muốn nhắm
tới trong phong trào “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” là câu sau
trong Di chúc của ông Hồ: “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo
Đảng, rất trung thành với Đảng.”[15] Nghĩa là đảng chỉ
đâu thì dân phải nhắm mắt tuân theo, như theo con đường Marx-Lenin và cúi đầu
trước bá quyền Bắc kinh!
Nhưng ở đây họ đã cố
tình quên một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong sinh hoạt của một quốc gia là,
không một cá nhân nào dù đứng ở vị trị nào và không một tổ chức nào có quyền áp
đặt đất nước và nhân dân theo những ước muốn riêng chủ quan và sai lầm. Cho nên
cách làm hiện nay của những người cầm đầu chế độ toàn trị, đứng đầu là Nguyễn
Phú Trọng, trong phong trào “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” đã
lại cho thấy sự lẫn lộn, sự cố tình cầm nhầm quyền của toàn dân tộc với ước
muốn riêng chủ quan của một cá nhân hay một tổ chức. Điều này chỉ có thể xảy ra
dưới chế độ phong kiến và chế độ toàn trị: Quyền lực phát ra từ nòng súng!
Thông thường, chính trị
gia nào cũng muốn mớm lời cho lợi ích riêng của họ. Nhưng khác biệt căn bản ở
điểm, trong các xã hội Dân chủ đa nguyên mọi chuyện đều phải minh bạch và hoạt
động của các chính khách luôn luôn bị theo dõi thường xuyên của các cơ quan
công quyền độc lập và của các tổ chức dân sự độc lập, nên họ không dám tẩy xóa
hoặc xuyên tạc các văn kiện quan trọng. Còn trong chế độ toàn trị độc đảng thì
các vua tập thể trong Bộ chính trị có quyền tuyệt đối, kể cả thủ tiêu đối thủ,
nên họ hầu như toàn quyền tẩy xóa và thêu dệt các văn kiện thế nào có lợi nhất
cho sự độc quyền của họ. Bắt dân phải “thực hiện Di chúc” Hồ Chí Minh, nhưng
chính họ đã phủ nhận lời hứa của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945,
họ tự ý tẩy xóa và giải thích tùy tiện Di chúc của Hồ Chí Minh theo lợi ích
riêng và cũng không thực hiện các ước nguyện cá nhân của Hồ Chí Minh, như đã
trình bày.
Chẳng những thế, họ còn
đang bắt nhân dân phải trung thành với một đảng vẫn đang mù quáng theo chủ
nghĩa Marx-Lenin, mặc dầu chủ nghĩa này đã gây ra bao nhiêu tang tóc và thiệt
hại cho nhân dân! Họ còn phủ nhận một thực tế là, gần ¼ thế kỷ Liên xô, cái nôi
của Thế giới CS, đã tự sụp đổ và các nước CS Đông Âu đã tan rã. Chính Nguyễn
Phú Trọng cũng phải thừa nhận, không biết bao giờ có thể thực hiện được chế độ
CS ở VN! Một con đường sai lầm không chỉ ở VN mà cả trên toàn thế giới, nhưng
nhóm cầm đầu toàn trị ở VN lại ngoan cố tiếp tục bắt cả dân tộc 90 triệu người
cứ nhắm mắt phải theo. Thật là ý muốn ngông cuồng và điên rồ của nhóm cầm đầu
hiện nay vẫn tin rằng quyền lực phát ra từ nòng súng!
***
Nói tóm lại, nhân dịp 69
năm cướp chính quyền áp đặt chế độ toàn trị, Bộ chính trị, đứng đầu là Nguyễn
Phú Trọng, hãy nghiêm túc trả lời công khai với nhân dân ba câu hỏi:
- Có nhìn nhận trong
Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 chính Hồ Chí Minh đã thừa nhận các nguyên tắc Dân
quyền và Nhân quyền, tức là nền tảng của chế độ Dân chủ đa nguyên ngày nay?
- Hay thừa nhận lời hứa
trên của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê bán thịt chó?
- Chế độ toàn trị theo
mô hình Marx-Lenin đã được áp đặt 69 năm ở VN, đang đẩy đất nước tụt hậu về
kinh tế so với hầu hết các nước trong khu vực, nhân dân vẫn phải sống trong
nghèo đói, lạc hậu và không được hưởng các quyền tự do dân chủ căn bản. Trong
khi ấy những kẻ có quyền lực thì tham nhũng, đàn áp và tha hóa đạo đức. Chẳng
những thế, chế độ toàn trị còn đang xô đẩy đất nước vào lệ thuộc bá quyền Bắc
kinh!
Tình hình cực kỳ bi đát
trong mọi mặt và cả nguy cơ bị lệ thuộc phương Bắc ai cũng biết, các Ủy viên Bộ
chính trị còn biết rõ hơn. Vậy các người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay, đứng
đầu là Nguyễn Phú Trọng, còn có quyền tiếp tục ôm lấy các ghế cao và ra lệnh
bắt 90 triệu nhân dân cứ phải tiếp tục cúi đầu vâng lệnh độc đoán và mù quáng
của các ông nữa chăng?
Ba câu hỏi cực kỳ quan
trọng trên liên quan trực tiếp tới vấn đề căn bản là, quyền lực của ĐCS có còn
chính đáng hay không?
Ở đây tính tự trọng và
lòng thành thực vừa là thử thách vừa là thước đo cho toàn thể Bộ chính trị,
đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng. Nhân dân cả nước, kể cả những đảng viên tiến bộ,
đang theo dõi và sẽ có thái độ cương quyết trước những việc làm của các ông!
2.9.2014
Quá
tồi, quá tệ
Bùi Tín (VOA) -
Phiên tòa xử 3 chiến sĩ dân chủ chống bành trướng Trung Quốc ở Đồng Tháp đã kết
thúc chiều 26/8 với những bản án quá nặng nề, so với tội danh 'cản trở giao
thông'. Cô Bùi Thị Minh Hằng bị tuyên án 3 năm tù giam, anh Nguyễn Văn Minh 2
năm rưỡi, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 2 năm.
Dư luận trong nước và
quốc tế cùng chung một thái độ cực kỳ phẫn nộ trước sự xét xử quá đáng, đến mức
không ai nghĩ đến của tòa án Đồng Tháp. Theo sự thú nhận của địa phương, đây là
quyết định của Bộ Chính trị đảng CS, tòa án Đồng Tháp chỉ đóng kịch theo sự chỉ
đạo từ Hà Nội.
Không ít người theo dõi tình hình đã phán đoán rằng lãnh đạo sẽ
buộc phải tỏ ra nới tay đôi chút so với trước đây, sau khi họ buộc phải cam kết
tôn trọng nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc, hứa hẹn với các quan chức cấp cao
của Hoa Kỳ, Liên Âu 'sẽ giương cao lá cờ dân chủ', 'sẽ thực thi dân chủ và pháp
quyền là 2 thành quả song sinh của thời đại'. Từ lời nói đến việc làm của họ có
cả một hàng rào sắt thép. Ðiều bất ngờ là Bộ Chính trị lần này đã lật lọng quá
sớm, đã có thái độ tráo trở và tự phản bội một cách ngang ngược, tàn nhẫn chưa
từng có.
Phiên tòa ô nhục, bản án bất nhân, chính quyền tội ác, hành động
côn đồ, chính trị lưu manh, nhà nước tiểu nhân… là những lời nhận định, phê
phán, lên án… lập tức nổi lên khắp nơi, từ các blogger tự do, từ những tấm lòng
yêu nước, thương dân, bảo vệ lẽ phải, công lý, phẫn uất trước bạo quyền.
Sau cơn phẫn nộ chính đáng, dư luận toàn xã hội cần trao đổi ý
kiến để hiểu rõ vì sao lãnh đạo lại chỉ đạo cho phiên tòa Đồng Tháp giải quyết
vụ án như đã diễn ra, để có phương án đấu tranh tiếp thích hợp và có hiệu quả.
Từ gần 25 năm nay, sau cuộc họp bí mật ở Thành Đô tháng 9/1990,
Bắc Kinh luôn coi Bộ Chính trị CS ở Hà Nội là đàn em, là phiên thuộc, là chư
hầu tự nguyện. Ai nấy đều biết từ đầu tháng 5/2014, khi Bắc Kinh ngang nhiên
đưa giàn HD-981 vào vùng biển nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ngỏ lời
xin sang Bắc Kinh để gặp lãnh đạo cao nhất của phía TQ, nhưng họ đã ngạo mạn từ
chối. Sau khi rút dàn khoan về, họ cử Dương Khiết Trì, nguyên là bộ trưởng
ngoại giao, nay là ủy viên Quốc vụ viện đặc trách đối ngoại (một chức vụ cao
hơn ngoại trưởng), sang Hà Nội với một sứ mạng được Tân hoa xã và Nhân dân nhật
báo Bắc Kinh mô tả là 'để khuyên đứa con hư hỏng bỏ nhà quay về'.
Bị sỉ nhục như vậy, nhưng Bộ Chính trị Hà Nội vẫn im thin thít.
Phía Trung Quốc cao ngạo lấn tới là lẽ tất nhiên. Nay họ bỗng nhiên triệu tập
đại diện Bộ Chính trị sang Bắc Kinh gấp. Thế là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cử
ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính trị kiêm Thường trực Ban Bí thư Trung ương
đảng, mang danh nghĩa Phái viên đặc biệt của Tổng Bí thư, sang ngay Bắc Kinh
trong 2 ngày 26 và 27 tháng 8 năm 2014.
Theo những tin tức được công bố và theo lời người phát ngôn của 2
bên Lê Hải Bình và Hồng Lỗi sau 3 cuộc gặp tại Bắc Kinh, không có gì mới trong
quan hệ giữa 2 bên được thỏa thuận, chỉ toàn nhắc tới những thỏa thuận cũ. Điều
mới chăng là cả 2 bên không ai nhắc đến '16 chữ vàng' và mối 'quan hệ bốn tốt'
đã trở nên mỉa mai chua chát. Và điều rõ nhất là phía VN đã tỏ ra lép vế, nhũn
như con chi chi. Ông Lê Hồng Anh đã không hề nhắc đến việc phía TQ ngang nhiên
đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển VN, giết hại bắt bớ, khủng bố ngư dân ta,
không hề yêu cầu chấm dứt những hành động tương tự trong tương lai.
Đã vậy phía VN còn tỏ ra nhún nhường quá đáng khi cam kết sẽ đền
bù (!) những tổn thất mà các công ty TQ đã gánh chịu khi có những vụ bạo loạn
nổ ra. Ông cũng hứa hẹn sẽ nghiêm trị (!) những “kẻ tội phạm” và cử các đoàn
đại biểu của Hội Hữu nghị Việt-Trung đến thăm hỏi ủy lạo những gia đình TQ là
nạn nhân trong các cuộc bạo loạn đã xảy ra.
Có thể phỏng đoán không sai rằng gần đây Bắc Kinh rất khó chịu
thấy Bộ Chính trị Hà Nội cử đặc phái viên đi Washington, rồi ngay sau đó một
loạt cán bộ cấp cao, nhiều thượng nghị sỹ có thế lực, cho đến cả Đại tướng chủ
tịch Ủy ban tham mưu liên quân Hoa Kỳ sang Hà Nội. Họ lo sợ, bực mình, thấy cần
ra oai để ngăn chặn một sự 'trở mặt' của VN, 'xoay trục' hướng sang phương Tây,
đi tìm những mối liên kết, liên minh mới.
Và thế là cô Bùi Thị Minh Hằng bị kết án 3 năm tù, anh Nguyễn Văn
Minh bị 2 năm tù rưỡi, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị 2 năm tù. Đây là những bản
án làm quà của Bộ Chính trị đàn em dâng lên đúng lúc cho Thiên triều, để biểu
thị thật rõ tấm lòng trung thành vô hạn của kẻ phiên thuộc. Đó cũng là lời trần
tình, phân bua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, của đa số Bộ Chính trị quyết
một lòng gắn bó keo sơn với phương Bắc.
Gần đây, trong một buổi gặp mặt cử tri Sài Gòn, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sangđã tiết lộ rằng 'ta khỏi lo gì về kinh tế khó khăn, nợ công chồng chất, các đồng
chí Trung Quốc vừa mới hứa khi cần sẽ cho ta một khoản cho vay ưu đãi ODA lên
đến 20 tỷ đô la, và còn có thể giúp một gói đầu tư cực lớn FDI lên đến 100 tỷ
đô la'. Đây là theo lời kể của Phó Đô đốc Lê Kế Lâm, nguyên Viện trưởng
Viện Nghiên cứu của Hải quân VN, hiện về hưu sống tại Sài Gòn và có mặt trong
buổi gặp đó ( xin đọc bài “Người dân VN sẽ ra sao khi Nhà nước vỡ nợ?” trên báo
Thông Luận ngày 25/8/2014).
Dưới ánh sáng của những diễn biến thời sự nóng hổi, câu hỏi liệu
cuộc họp trưởng đoàn của Khối kinh tế Xuyên Thái Bình Dương TPP 12 nước sẽ diễn
ra ở Hà Nội từ 1 đên 10/9 này có thể chấp nhận VN tham gia khối này như dự kiến
hay không, sẽ được giải đáp. Và câu hỏi liệu việc nâng cấp trong quan hệ toàn
diện Việt Nam - Hoa Kỳ có sẽ thành hiện thực trước mắt với việc Hoa Kỳ hủy bỏ
cấm vận bán vũ khí sát thương cho VN hay không, cũng sẽ được giải đáp.
Có thật chăng trong Bộ Chính trị có một nhóm đã lựa chọn dứt tình
với kẻ bành trướng để đi với nhân dân, với dân tộc, để kết bạn với các nước dân
chủ ở châu Á như Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản, với Liên Âu và Hoa Kỳ, trong khi
vẫn giữ quan hệ láng giềng bình thường, bình đẳng với Trung Quốc?
Nhân dân đang nóng lòng chờ xem thực hư ra sao. Hay là họ chỉ diễn
tuồng thôi. Tất cả đều thuộc bản chất giáo điều, bản chất tư lợi, chỉ ở mức độ
khác nhau. Chẳng có nhóm nào có thể gọi là cấp tiến, là đổi mới, là cải cách
trong Bộ Chính trị cổ lỗ, bảo thủ, kiên định học thuyết Mác -Lênin, kiên định
chủ nghĩa xã hội ảo tưởng và chủ nghĩa CS viễn vông. Thái độ đàn áp, hãm hại
những người yêu nước, thương dân, tàn ác với phụ nữ tay không gan góc là thái
độ quá ư tồi tệ. Thái độ quỵ lụy hàng phục kẻ nuôi dã tâm bành trướng gặm nhấm
đất nước cũng là thái độ quá ư tồi tệ của kẻ đương quyền.
Vụ án Đồng Tháp và chuyến đi của ông Lê Hồng Anh diễn ra cùng một
ngày phơi bày nỗi nhục nhã của kẻ đương quyền đang cai trị nước ta, sẽ kích
thích suy nghĩ của mọi công dân yêu nước, kể cả những đảng viên có trí tuệ, có
công tâm, để chung sức tìm lối ra khỏi cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội trầm
trọng đã kéo dài quá lâu của đất nước.
Ông Lê Hồng Anh, Ủy viên
Bộ Chính Trị và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Bùi Tín
Đời Mồ Côi
Em sinh ra đã không hề biết mẹ
Hàng ngày Em theo chị để ăn xin
Ngày đầu đường đêm ghế đá công viên
Sống lay lắt nhờ đồng tiền thiên hạ.
Nhiều khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai chị em vật vã dạ cồn cào
Dế ve Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong trời sáng xin cơm thừa hàng quán.
Cha chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang bên Tàu vào động bán dâm
Nhà cửa ruộng nương
Đảng qui hoạch chẳng bồi thường
Nghe người nói cán bộ phường chia chác
Mình sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ cha đời đói rét bơ vơ
Đừng khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.
Chuyện xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị tông xe nằm ngất bên đường
Khi mọi người đưa chị đến nhà thương
Chị đã chết từ trên đường nhập viện.
Kẻ tông chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên quan chúng đã biến vào đêm
Hết họ hàng giờ chỉ còn mình em
Nên ánh mắt mới buồn lên đến thế.
Anh xin lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn mày không được đảng yêu thương
Nhưng còn có những trại cô nhi viện
Đây là thời đại siêu xa lộ tin tức, đâu phải chúng muốn làm gì thì làm.
Linh Nguyên
Cán Ngố Gộc đi thanh tra kiểm soát ....Pó tay pó tay ! hết ý hết ý
Cùng nếm, ngửi, gõ với
các bộ trưởng: Kim Tiến - Khôi Nguyên - La Thăng:
Anh Phạm Khôi Nguyên, bộ chưởng bộ Tài Nguyên và
Môi trường và bầu đoàn đi kiểm tra chất lượng môi trường"
Chỉ bọn quan chức
Việt Nam mới có hành động kỳ quặc và ngu xuẩn thế này!
Ối trời ơi là ông Tiến
sĩ ! Ông nghè Phạm Khôi Nguyên ơi
Anh Đinh La Thăng,
bộ chưởng bộ Rao Thông đi kiểm tra độ lún của mặt đường
CHÂN DUNG 'CÁC ĐẦY TỚ NHÂN DÂN'
Ngạo mạn, dâm ô chính là Lê Duẩn
Già mà lắm con là lão Đỗ Mười
Mưu mô quỷ quyệt là Lê Đức Anh
Nhẫn nhục sống lâu là Võ Nguyên Giáp
Chưa nói đã cười là Nguyễn Minh Triết
Giả danh Mác xít là Lê Khả Phiêu
Cái gì cũng nhặt là Tô Huy Rứa
Không bộ nào chứa là Nguyễn Thiện Nhân
Vì gái quên thân là Nông Đức Mạnh
Thức thời, né tránh là Nguyễn Hải Chuyền
Miệng lưỡi dịu mềm là Vương Đình Huệ
Thiểu năng trí tuệ là Đinh La Thăng
Ghét trung yêu nịnh là Lê Hồng Anh
Phát biểu lăng nhăng là Phạm Vũ Luận
Quen đánh giặc miệng là Trương Tấn Sang
Hán tặc chính danh là Hoàng Trung Hải
*
Thầy gét bạn khinh là Hồ Đức Việt
Đổi trắng thay đen là Trương Vĩnh Trọng
Triệt suy phù thịnh là Trần Đình Hoan
Đã dốt lại tham là Lê Thanh Hải
Ăn vụng nói dại là Đinh Thế Huynh
Juda phản chúa là Nguyễn Đức Tri
Tình duyên lận đận là chị Kim Ngân
Vừa béo vừa dâm là Tòng Thị Phóng
Dối gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Lên chức nhờ cha là Nguyễn Thanh Nghị
Mặt người dạ thú là Phạm Quý Ngọ
Tính tình ba phải là Phạm Gia Khiêm
Chưa từng thanh liêm là Nguyễn Thế Thảo
Ăn tiền tàn bạo là Nguyễn Đức Nhanh
Chạy trốn an toàn là Dương Chí Dũng
Nghìn tỉ tham nhũng là Vinashin
‘Bà con’ Thủ Tướng là Phạm Thanh Bình
Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979
Battlefield Vietnam -
Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu
TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
Coi Tây Tạng trong tay
Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
Preview
by Yahoo
|
|||||
Bà con hãy tìm đường chạy ra nước ngoài
cho sớm như hồi 1975 kẻo bọn Tàu cộng đến cai trị thì chạy không kịp
nữa!
Một vị ni sư bị đối
xử tàn nhẫn:
Coi
Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...
Chiến
tranh biên giới Việt Trung năm 1979
Battlefield Vietnam -
Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
|
|
Ha ha ha !
Hố hố hố !
Không biết làm thịt em nào trước đây?
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Sốc - Lính Trung cộng hành
hạ tra tấn tù binh VN vô cùng tàn bạo dã man
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.