Ba
việc hầu như không thể, nhưng phải tìm cách làm
Đảng
Cộng Sản Việt Nam đang tan rã (P.1: Mâu thuẩn trong nền tảng lý thuyết)
https://www.youtube.com/watch?v=gX02jFfnCW0
Đảng
Cộng Sản Việt Nam đang tan rã (P.2: Mâu thuẩn trong cơ cấu)
Đảng Cộng Sản Việt Nam đang
tan rã (P.2: Mâu thuẩn trong cơ cấu)
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Bài
4 – Viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN [1]
Nguyễn Trung
* * *
Lời nói đầu
Trong bài 3 (Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?)
tôi cho rẳng để đưa đất nước ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay, đại hội XII
sắp tới nên tập trung giải quyết 3 việc lớn:
-
Cải cách thể chế chính trị toàn trị hiện nay (Bài 4 A)
- Hoàn thiện
kinh tế thị trường (Bài 4 B)
-
Đổi mới ĐCSVN để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc (Bài 4 C).
Cũng trong bài 3 tôi đã
phân tích: Nhìn vào sự thật cuộc sống đất nước hiện tại và nhìn vào quá trình
chuẩn bị đại hội XII đang diễn ra, tôi cho rằng cả ba việc phải làm nêu trên dù
bức bách sống còn đến mức nào chăng nữa đối với chế độ chính trị toàn trị hiện
hành, song tôi vẫn phải dự báo hầu như 99% là không thể làm được. Hoặc là tôi
sai?
Cho đến khi tôi viết
những dòng chữ này, cả ba nhiệm vụ nêu trên hầu như không được nói tới tại bất
cứ diễn đàn nào chính thức của ĐCSVN đang làm công việc chuẩn bị đại hội. Chủ
yếu vì lãnh đạo đảng dứt khoát đến giờ phút này vẫn không chịu thay đổi, vẫn
đang tiếp tục trấn áp các ý kiến “trái luồng”, chứ không phải vì thiếu thông
tin hay vì không nhận được những kiến nghị về đại hội XII tới này.
Sự thật là: Thế giới hôm
nay, nhất là cục diện chính trị hiện tại trong khu vực, không thèm đặt ra cho
nước ta câu hỏi “Việt Nam các ngươi có thể làm được gì và không thể làm được gì
trong cục diện quốc tế mới này?”, mà chỉ đặt nước ta đứng trước vấn đề:Việt
Nam là đột phá khẩu trong giai đoạn mới của chiến lược Trung Quốc bá chiếm Biển
Đông, và do đó trở thành đối tượng cần khuất phục! Tôi không thể chấp
nhận đất nước bị khuất phục, nên phải nghĩ tiếp. Dù chỉ còn le lói 1% thôi,
song tôi vẫn phải suy nghĩ tiếp, kiến nghị tiếp.
Nếu không cam chịu bị
khuất phục, chỉ còn con đường chúng ta phải tìm mọi cách làm cho bằng được 3
việc hầu như không thể nêu trên.
Ba việc phải làm này hầu
như là không thể, bởi vì (1) đấy là những việc rất khó, (2) chúng ta là những
người dân mong muốn đất nước thay đổi nhưng lại dốt và tay không, (3) trong khi
đó quyền lực rất ngoan cố và càng dốt về cải cách nhưng lại quá nham hiểm về
cai trị, (4) lại thêm bối cảnh đối nội và đối ngoại rất nhậy cảm. Đấy là sự
thật trần trụi.
Cuộc sống chỉ dành cho
chúng ta một con đường rất hẹp: Phải chỉ tay lên trời mà thề đất nước này dứt
khoát không bao giờ chịu khuất phục, nhất quyết thực hiện ba việc hầu như không
thể này, bắt đầu từ những bước đi nhỏ nhất. Điều này cũng có nghĩa phải nén
lòng lại, kiên gan chịu đựng tất cả để tìm cách bắt đầu sự nghiệp thay đổi đất
nước từ những bước đi nhỏ nhất, song cũng triệt để nhất. Sốt ruột, bi quan,
chán nản… sẽ chẳng giúp được gì, nếu không là làm hại thêm sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Xin nói rành rọt suy
nghĩ của tôi như vậy trước khi bàn luận.
Tôi dự kiến sẽ trình bầy
bài 4 này thành ba bài nhỏ riêng biệt, mang tính đặt vấn đề, để tất cả tham
khảo. Mỗi bài bàn một chủ đề, dựa trên những điều tôi quan sát được, và chủ yếu
là để nói lên mong mỏi của bản thân – với tính cách và trách nhiệm của một công
dân.
Công việc nghiên cứu
nghiêm túc có tính khoa học và có giá trị thực tiễn để làm cơ sở cho hành động
thực hiện, phải là nhiệm vụ của giới học thuật, của chính khách, các viện và cơ
quan đang trực tiếp gánh vác trách nhiệm đối với đất nước. Xin đặc biệt
nhấn mạnh như vậy.
♦
♦ ♦
Bài 4A. BÀN VỀ CẢI
CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
Nội dung:
I.
Thực chất của cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” - Bàn về hậu quả
của vấn đề “đảng hoá” hệ thống chính trị và đời sống đất nước. Cốt lõi của cải
cách thể chế chính trị là tách bạch ra đảng là đảng, nhà nước là nhà
nước, khắc phục chế độ đảng trị để xây dựng nhà nước pháp quyền.
II. Vấn đề
rừng luật và luật rừng – Cải cách phải quan tâm xoá bỏ luật rừng và những di
sản nặng nề của quá khứ.
III. Nội lực lớn nhất
chưa được phát huy đúng mức: Con người – Cải cách phải nhằm xoá bỏ chế độ “xã
hội được chăn dắt”; cần phải xây dựng xã hội dân sự trở thành một trong hệ
thống 3 trụ cột “kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự” tạo
ra nền móng bền vững cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
IV. Kết luận – Sự thiếu
hụt của ý chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
*
I. Thực chất của cái gọi
là “định hướng xã hội chủ nghĩa”
Xem xét khái quát về mặt
hình thức, hệ thống chính trị hiện hành của nước ta, có thể nói là một hệ thống
tương đối hoàn chỉnh, nghĩa là đầy đủ đầu mình chân tay như ở mọi quốc gia bình
thường trên thế giới ở trình độ các nước đang phát triển. Hệ thống này đại thể
bao gồm: các lực lượng tham chính, hệ thống nhà nước, các lực lượng dân sự
trong xã hội.
Song ở nước ta có những
khác biệt quan trọng là: Lực lượng tham chính là duy nhất ĐCSVN; hệ thống nhà
nước được đảng hoá cao độ nên trên thực tế trở thành bộ máy thực thi quyền lực
của đảng; các lực lượng dân sự còn lại trong xã hội được thâu tóm nốt vào trong
hệ thống đoàn thể dưới cái mũ mặt trận (MTTQVN) – cũng được đảng hoá toàn diện.
Nói một cách khái quát:
Toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước, bao gồm cả đời sống tinh thần, được
bao quát dưới cái vòm trời ý thức hệ của đảng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội” – mặc dù Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa
nhận “…đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”
– và nằm gọn trong tầm kiểm soát từ A-Z của hệ thống chính trị. Tất cả những gì
còn lại nằm bên ngoài vòm trời này hoặc vượt ra khỏi sự kiểm soát này thì được
xếp vào “lề trái” hay “trái chiều” trong đời sống tinh thần, trong đời sống xã
hội thì được xếp vào các loại (a) thành phần đối tượng của chuyên chính, (b)
thành phần đối tượng tiềm tàng của chuyên chính, (c) hoặc là ngoài vòng pháp
luật (dưới dạng xã hội đen, các nhóm lợi ích…). Vì vậy có thể nói: Toàn
bộ cuộc sống đất nước được ĐCSVN khuôn vào hệ thống chính trị đảng trị, trên
trời dưới đất có khung khổ và ranh giới rõ ràng, không được vượt qua.
Trong toàn bộ cuộc sống
đất nước, mọi chuẩn mực tinh thần và các thang giá trị đều phải được xác lập
theo các chuẩn mực thế giới quan (ý thức hệ) của ĐCSVN, nếu ngược lại đều bị
coi là “ngoại đạo”, “tà đạo”… – nhiều trường hợp được vạch mặt chỉ tên là những
hiện tượng “thoái hoá biến chất”, “suy thoái đạo đức chính trị, tư tưởng…”,
“diễn biến hoà bình”… Trường hợp quyết liệt hơn nữa thì được quy là “các thế
lực thù địch” để xác định cách đối xử.
Sự bế tắc đến gần như
sụp đổ trong quá trình thực hiện những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội đã dẫn tới
đổi mới 1986, xoá bỏ cơ bản nền kinh tế bao cấp với tính cách là con đẻ của lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, giải toả được phần nào những ách tắc trong kinh tế,
thực sự đã mở ra một bước ngoặt mới thay đổi diện mạo đất nước.
Tuy nhiên, sau khi tháo
gỡ được cái nút thắt của kinh tế bao cấp (1986), kinh tế càng phát triển càng
đi ngược với các chuẩn mực tinh thần và các thang giá trị được gọi là “chủ
nghĩa xã hội” đặt ra cho đất nước.
Đất nước rơi vào tình
hình: Toàn bộ hệ thống thượng tầng kiến trúc đang có ngày càng không thể vận
hành nổi nền kinh tế đất nước đang mạnh mẽ đi thẳng vào con đường của kinh tế
thị trường. Hệ thống chính trị qua đó ngày càng lâm vào nhiều bế tắc mới – đây
là một nguồn gốc quan trọng của những tệ nạn tham nhũng tiêu cực. Tình hình này
khiến cho cải cách chính trị để khắc phục trở thành đòi hỏi tất yếu. Nhưng nỗi
lo mất chế độ đã chống lại dứt khoát ngay từ trong trứng nước mọi ý tưởng manh
nha muốn thông qua cải cách chính trị để ra khỏi tình trạng bế tắc này (các vụ
Trần Độ, Trần Xuân Bách, v… v…), nhân danh phải giữ vững ổn định chính trị.
Những năm tháng đổ vỡ rối ren ở Liên Xô sau perestroika và glasnost càng được
coi là lý do “sống” biện minh cho thái độ cự tuyệt hay trì hoãn cải cách chính
trị. Hội nghị toàn quốc của đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (01-1994) nhấn mạnh 4
nguy cơ (1) tụt hậu kinh tế; (2) chệch hướng xã hội chủ nghĩa; (3) tham nhũng
tiêu cực; (4) diễn biến hòa bình [2]. Hội nghị này đánh dấu bước lùi nghiêm
trọng: dứt khoát gác lại nhiệm vụ cải cách chính trị, nhân danh kiên quyết
chống nguy cơ diễn biến hoà bình.
[Đổi mới đã lùi xa gần 3
thập kỷ. Nhìn lại, sự thật vẫn chỉ ra là cải cách chính trị là tất yếu và phải
làm ngay cùng thời khi tiến hành đổi mới kinh tế, vấn đề chỉ là ở chỗ làm sao
thiết kế được các bước đi phù hợp mà thôi. Song đây là thách thức quá lớn, vượt
quá tầm với của đảng ở thời điểm 1986 và sau này. Trước sau nỗi lo mất chế độ
vẫn tiếp tục trì hoãn cải cách chính trị cho đến tận hôm nay.]
Càng trốn tránh cải cách
chính trị, những mâu thuẫn không thể giải quyết nổi, giữa một bên là các chuẩn
mực của ý thức hệ và một bên là thực tiễn không thể cưỡng lại được của cuộc
sống, ngày càng trở nên bất khả kháng. Chủ trương bảo vệ chế độ đến cùng đã
buộc lý luận của đảng phải sáng tác ra khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa”
như một cái “đuôi” thêm vào những việc bắt buộc phải làm – ví dụ như xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa… Vân vân… Đơn giản vì thời bình không thể thiếu
một nhà nước pháp quyền, nhưng nó phải có tính định hướng xã hội chủ nghĩa, đối
với kinh tế thị trường sau đổi mới cũng vậy… (Gần đây lý luận của đảng có lúc
đã đề xuất “xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng đề xuất này chết
yểu ngay tức khắc).
Ngoài những thay đổi hay
cải tiến nhỏ giọt và hình thức (ví dụ: lập các “ban cán sự đảng” trong các bộ
máy của hệ thống chính trị quốc gia, lập các “đảng đoàn”, “đảng uỷ”, hoặc
“đảng uỷ khối”… trong hệ thống bộ máy nhà nước hoặc trong mọi tổ chức kinh tế
và chính trị – xã hội khác khắp đất nước, v.., v…), đảng đã bỏ không ít công
sức thổi hồn sống cho cái “đuôi” thêm vào này nhưng không thành. Ví dụ: Dù đã
thực hiện nhiều nỗ lực cải tiến, bao gồm cả những biện pháp mở rộng dân chủ cơ
sở, mở rộng dân chủ trực tiếp.., song không gặt hái được gì có thực chất. Thất
bại tiêu biểu nhất của những nỗ lực này là hiện tượng đảng viên vẫn chiếm tỷ lệ
khoảng <80% số đại biểu trong quốc hội, trên thực tế quốc hội vẫn là cơ quan
thừa hành của quyền lực đảng. Trong ngôn ngữ công khai không ít lần được nói
thẳng ra trong các kỳ họp quốc hội: Bộ Chính trị là cấp trên của quốc hội..,
…Cái này Bộ Chính trị đã cho ý kiến… Cái này chờ có ý kiến Bộ Chính trị
rồi sẽ triển khai tiếp… Phải chăng đấy là nội dung đích thực của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa?.. … Vân vân…
Cái lưỡng nan (dilemma)
là xây dựng đúng nhà nước pháp quyền thì mất đảng trị, giữ đảng trị trong nhà
nước thì không thể có nhà nước pháp quyền. Cái gốc của vấn đề là đảng muốn
“nắm” chặt trong tay mọi thứ và bằng mọi giá, chứ không muốn chỉ giữ vai trò
sống thanh khiết làm “linh hồn hay ý tưởng lãnh đạo” đất nước. Trong kinh tế và
trong mọi lĩnh vực khác đảng cũng đều rơi vào hoàn cảnh éo le như vậy: nắm, chứ
không phải lãnh đạo. Có bộ trưởng đã phải kêu lên “làm gì có cái gì là mô hình
định hướng xã hội chủ nghĩa như thế mà cất công tìm tòi và xây dựng!”. Sự
thật là tha hoá của quyền lực ngay từ sau 30-04-1975 đã từng bước cướp đi khả
năng và phẩm chất là đảng lãnh đạo của đảng, và cuối cùng ngày nay làm
cho ĐCSVN chỉ còn lại vỏn vẹn là lực lượng chính trị mạnh nhất nắm quyền cai
trị đất nước.
Công tác lý luận của
đảng cũng nỗ lực đề cao các khái niệm “dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ công
bằng văn minh”, xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, tiêu chí quốc gia
được ghi rõ là “độc lập – tự do – hạnh phúc”… Tuy nhiên, vì thiếu vắng
một thể chế pháp quyền thực thi, nên tất cả những giá trị này cũng như hầu hết
các quyền công dân đã được ghi trong hiến pháp cũng chỉ là trên giấy. Vì vậy,
nội dung thực chất của việc sáng tạo ra cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”
chỉ là duy trì ảnh hưởng quyết định của ĐCSVN trong nhà nước pháp quyền, trong
kinh tế thị trường, trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống…
Song trớ trêu là ở chỗ
trong cuộc sống thực, cái “đuôi” được gắn thêm vào này mới là cái yếu tố cuối
cùng quyết định toàn bộ sự vận động của cái thực thể mang nó trên lưng mình –
đảng quyết định tất cả. Diễn tả nôm na, đấy là hiện tượng cái đuôi con chó làm
cái chức năng điều hành toàn bộ sự vận động của con chó. Nghịch lý này đã biến
tướng nghiêm trọng mọi thứ trên đời, tạo ra không biết bao nhiêu hiện tượng
giả, diễn, hão…. Ví dụ: bầu cử là để thực hiện “đảng cử dân bầu” ở các cấp, nền
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa thực thi pháp luật bằng cách xử án theo
kiểu đã có sẵn án bỏ túi của quyền lực đảng, nhiệm vụ thanh tra/kiểm tra được
thiết kế theo kiểu vừa đá bóng vừa thổi còi, văn học thì phải là nền văn học
định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí thì phải là “lề phải”, vân vân…
Hệ thống nhà nước đảng
trị trong vận hành như vậy của toàn bộ đời sống kinh tế – chính trị – văn hoá –
xã hội của đất nước biến thành chế độ toàn trị, với đặc trưng nổi
bật là “độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, quy kết tuỳ tiện”, và quyền lực đảng
luôn luôn là yếu tố chi phối cuối cùng, bất chấp mọi mâu thuẫn và những điều
phi lý…
Hệ quả là:
- Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đậm nét kinh tế của chủ nghĩa tư
bản thân quen (crony capitalism) hoặc chủ nghĩa tư bản hoang dã (do quyền lực đảng
và các nhóm lợi ích đủ mọi mầu sắc chi phối).
- Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trở thành nhà nước đảng hoá, trên thực tế lại là công cụ
thực thi quyền lực của đảng. Điều 4 của Hiến pháp chỉ mang một nội dung đạo lý
(nghĩa là không ràng buộc và không quy định trách nhiệm giải trình) nhưng khẳng
định rất rõ vị thế đảng đứng ngoài và đứng trên hệ thống nhà nước, trên thực tế
Bộ Chính trị (BCT) là cơ quan quyền lực tối cao điều hành đất nước, nhưng lại không
phải do nhân dân bầu ra, không chịu trách nhiệm giải trình trước bất kỳ cái gì…
- Toàn thể các lực
lượng chuyên chính vũ trang và bán vũ trang (quân đội, công an, tự vệ, dân
phòng…) do quyền lực đảng nắm giữ, và trở thành công cụ chuyên chính trực tiếp
của quyền lực đảng.
- … …
Tóm lại, “định hướng xã
hội chủ nghĩa” thực chất chỉ là nỗ lực “đảng hoá” toàn bộ đời sống mọi mặt của
đất nước và phương thức điều hành quốc gia. Hệ quả chung là:
(a) Đảng bỏ mất vai trò
lãnh đạo, để trở thành trên thực tế là người trực tiếp nắm quyền với tất cả mọi
thẩm quyền, nhưng ngoài quyền lực chính trị ra, năng lực của đảng quản lý quốc
gia rất thấp hoặc gần như không có. (Trần Xuân Bách gọi đấy là hiện tượng đảng
lấy quyền lực thay cho năng lực).
(b) Trong khi đó nhà
nước thật ra phải là người điều hành toàn bộ công việc quốc gia nhưng lại bị
“đảng hoá” về mặt tổ chức và chịu sự chỉ đạo về mặt điều hành của bên đảng và
người của đảng, nên năng lực quản trị quốc gia vừa thấp vừa bị giới hạn, trên
thực tế chỉ là người thực thi lệnh của đảng.
Hệ quả chung cuộc là bộ
máy cầm quyền của quốc gia (bao gồm bên đảng và bên chính quyền) rất cồng kềnh,
chồng chéo, chất lượng thấp, tệ nạn quan liêu tham nhũng là đương nhiên và tất
yếu. Toàn bộ kết cấu tổ chức và sự vận động như vậy của bộ máy cầm quyền của
quốc gia phản ánh sinh động lỗi của hệ thống, cắt nghĩa vì sao mọi “sửa chữa”
lặt vặt hay thay đổi cục bộ không thể đem lại kết quả, thể chế chính trị ngày
càng bế tắc và kìm hãm đất nước ngày càng trầm trọng.
Để kết luận, có thể đưa
ra một bức tranh tổng hợp: Định hướng XHCN thực chất là những nỗ lực thực hiện
“đảng hoá”, để hình thành một hệ thống chính trị – nhà nước quyện
vào nhau cai quản quốc gia, trong đó đội ngũ điều hành (a) không ai có đủ năng
lực làm đúng việc của mình; (b) người phải làm đúng việc của mình vừa kém cỏi
vừa luôn luôn có khuynh hướng chủ động hay bị động bước sang việc của người
khác trong khi không làm tròn phận sự của chính mình; (c) không ai bị ràng buộc
phải có trách nhiệm giải trình; (d) đội ngũ điều hành chủ yếu
được tạo ra theo xắp xếp và phân chia quyền lực (chứ không phải thông qua đào tạo,
rèn luyện và thử thách), (e) vì đảng lấy quyền lực thay cho năng lực cho nên
sau mỗi khoá nhiệm kỳ năng lực và phẩm chất đều tụt đi một nấc; (f) toàn bộ
cuộc sống đất nước bị giam hãm trong vòm trời ý thức hệ của đảng và trong ranh
giới của chế độ toàn trị, hoàn toàn thiếu vắng sự công khai minh bạch; (g) cuộc
khủng hoảng toàn diện nước ta lâm vào từ năm 2007 đến nay chưa có lối ra là kết
cục tất yếu của quá trình “đảng hoá” này, và diễn tiến này nói lên tất cả.
Vì vậy có thể nói, ở
nước ta hiện nay, cải cách thể chế chính trị trước hết là việc tách bạch giữa
đảng và nhà nước, để ai làm đúng việc nấy với trách nhiệm ràng buộc, theo tinh
thần:
(1) Nhà nước pháp quyền
là hình thái quyền lực quốc gia duy nhất và tối thượng, thể hiện quyền làm chủ
đất nước của nhân dân.
(2) Đảng chỉ được phép
thực hiện vai trò của mình là đảng cầm quyền, với nghĩa thông qua
việc đề ra những chủ trương chính sách và chiến lược thực hiện cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được nhân dân chấp nhận thông
qua quá trình tranh cử và bầu cử; các đảng viên của đảng được bầu chọn vào làm
việc trong hệ thống nhà nước theo quy định của hiến pháp – nói nôm na là được
dân thuê dưới dạng được bầu là đại biểu quốc hội, hội đủ những điều kiện để
thực hiện nhiệm vụ lập nội các… Nghĩa là: không ai có thể đứng trên nhà nước;
trong nhà nước không có đảng như một thực thể chính trị độc lập; trong nhà nước
chỉ có đảng cầm quyền, tồn tại như một danh nghĩa, do hội đủ số đại
biểu trúng cử để lập nội các theo quy định của hiến pháp – chứ không phải là
một thực thể độc lập – để thực hiện những cam kết của đảng đã được nhân dân
chấp thuận qua vận động bầu cử (nghĩa là thực hiện những vấn đề đảng đưa ra đã
được luật hoá và trở thành chủ trương chính sách của nhà nước). Nói rốt ráo:
Trong phạm trù nhà nước chỉ có hiến pháp và bộ máy thực thi hiến pháp, không
tồn tại đảng là một thực thể độc lập dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không thể
tồn tại khái niệm “đảng lãnh đạo”.
(3) Đảng với tính cách
như đã trình bầy trong điểm (2) nêu trên, đảng chỉ là một bộ phận tập hợp dân
cư, bình đẳng như mọi bộ phận tập hợp dân cư khác trong cộng đồng xã hội, chịu
sự chi phối tuyệt đối và bình đẳng của hiến pháp và pháp luật. Vai trò lãnh đạo
của đảng là kết quả phấn đấu của đảng giành được trong những hoạt động vận động
nhân dân trong phạm vi xã hội dân sự. Nói cách khác: Khái niệm “đảng lãnh đạo”
chỉ có thể tồn tại trong phạm trù xã hội dân sự. Nghĩa là, một khi thông qua
phấn đấu trong xã hội dân sự, đảng giành được uy tín và ảnh hưởng đối với nhân
dân, qua đó nhận được sự đồng tình của nhân dân đối với những điều đảng theo
đuổi, dựa vào thành quả phấn đấu này tham gia tranh cử để trở thành đảng cầm
quyền như nêu trong điểm (2) bên trên. Đạt được như thế chính là thực hiện vai
trò lãnh đạo. Xin nhấn mạnh một lần nữa: khái niệm “đảng lãnh đạo” không tồn
tại trong phạm trù nhà nước.
Cũng có thể nói, cải
cách thể chế chính trị toàn trị hiện nay để chuyển sang thể chế pháp quyền dân
chủ có nghĩa trước hết và chủ yếu là làm cái việc tách bạch đảng là đảng, và
nhà nước là nhà nước trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của
đất nước, trên cơ sở đó xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Đó phải là một nhà nước tam quyền phân lập, hiến pháp là tối thượng. Tuyên Ngôn
Độc Lập 02-09-1945 và Hiến pháp 1946 là những tiền đề lịch sử quan trọng để xây
dựng một nhà nước pháp quyền như thế.
Viết đến đây, tôi vô
cùng chua xót việc sửa đổi hiến pháp năm 2013 rốt cuộc là một màn kịch rất tốn
kém lừa dối đất nước, chỉ vì đòi hỏi “hiến pháp phải thể hiện cương lĩnh của
đảng” do chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chỉ thị như vậy cho đảng.
Trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những uy hiếp hiểm nghèo, giả thử hôm
nay đất đước đã có được một hiến pháp đúng đắn như biết bao nhiêu trí tuệ tâm
huyết đã góp ý làm nền tảng cho phát huy sức mạnh dân tộc, chắc chắn đất nước
hôm nay đã có một bước khởi đầu đúng đắn cho cuộc cải cách thể chế chính trị đã
chín muồi, nhất là sau sự kiện giàn khoan HD 981. Trách nhiệm đối với sai lầm
này hoàn toàn thuộc về đảng, trước hết là Tổng bí thư.
II. Vấn đề rừng
luật và luật rừng
Không biết thế nào là đủ, song phải nói nước ta có một hệ thống luật pháp rất
phong phú, nhiều luật đúng và tốt, dù rằng vẫn còn nhiều luật quan trọng chất
lượng chưa đạt yêu cầu, các luật chồng chéo nhau cũng không ít. Nói một cách
khác, chỉ riêng việc thực thi tốt hệ thống luật pháp hiện hành, tình hình đất
nước sẽ có thể khả quan hơn rất nhiều.
Như vậy vấn đề nóng bỏng
là: Vì sao có nhiều cái tốt trong luật nhưng không thực thi được; có cả một
rừng luật, mà tại sao luật rừng vẫn ngang nhiên hoành hành?
Những nguyên nhân chung
nhất thuộc về tình trang phát triển của đất nước hiện nay về nhiều mặt còn ở
trình độ thấp. Tình trạng phát triển ở trình độ thấp này là vấn đề của thời
gian, nên không bàn đến ở đây. Chỉ xin tập trung bàn những nguyên nhân do sự
yếu kém của thể chế chính trị và của chủ quan con người hiện tại.
Phần I bên
trên đã trình bày những yếu kém của thể chế. Chỉ xin nêu thêm nhận xét là: Thể
chế chính trị chồng chéo và quyện vào nhau như nước ta hiện có hoàn toàn đối
nghịch với bản chất một hệ thống quyền lực của nhà nước pháp quyền. Do đó khách
quan tự thân thể chế này đã cản trở việc thực thi luật pháp do chính nó đề ra.
Lại thêm tình trạng vừa thiếu vắng và vừa không thể thực hiện được (cho dù nếu
muốn) trách nhiệm giải trình của bộ máy trong hệ thống quyền lực cũng như
của mỗi cá nhân hay những người nắm vai trò điều hành, nên tình trạng luật pháp
không nghiêm minh là tất yếu. Ngày xưa Louis XIV nói “L’État, c’est moi” (“Nhà
nước là ta!”), bây giờ ở nước ta cũng có thể nói “luật là đảng”. Cái biến tấu
qua thời gian hoạ chăng ngày xưa “vua” bao giờ cũng chỉ một, bây giờ có “vua
tập thể” (Nguyễn Văn An), song trước sau vẫn chỉ có một nghĩa: Người làm luật
là “vua”, luật không phải là để áp dụng cho “vua”, áp dụng luật như thế nào là
tuỳ “vua”. Đây là nội dung cốt lõi nhất của chế độ đảng trị. Có thể cảm nhận
được rất rõ cái không khí “vua” này khi có công việc đụng tới các cơ quan công
quyền hay khi phải tiếp xúc với quyền lực và luật pháp. Vì vậy công việc sửa
đổi luật pháp hiện đang tiến hành sẽ là vô nghĩa, nếu bỏ qua việc cải cách thể
chế chính trị.
Về con người trong bộ
máy quyền lực quốc gia, cần đặc biệt nhấn mạnh một đặc điểm nổi bật là đông về
biên chế, nhưng phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn nhìn chung thấp.
(Nói như vậy không có nghĩa trong hàng ngũ này không có những con người xuất
chúng, song đó không phải là hiện tượng phổ biến). Nguyên nhân chủ yếu của hiện
tượng này là:
(a) họ là sản phẩm của
một nền giáo dục đầy khuyết tật, đặc biệt là quốc gia chưa có một hệ thống giáo
dục đào tạo có chất lượng các cán bộ kỹ trị cho công việc quản lý quốc gia, hệ
thống trường hành chính quốc gia và hệ thống trường đảng hiện có không đáp ứng
được yêu cầu này;
(b) thể chế chính trị
hiện hành không có chỗ đứng cho các giá trị đúng đắn và sự trung thực, người
tài và thẳng thắn thường phải bật ra khỏi hệ thống, các chuẩn mực tuyển chọn
vừa không đủ tầm vừa phải chịu tác động của các “chính sách”, các “quan hệ”,
các tệ nạn tiêu cực khác (chạy chức chạy quyền, bằng giả, mua ghế, lựa chọn con
đường tiến thân qua con đường đảng, v… v…), hầu như không có một thể chế sàng
lọc và đào thải hoạt động hữu hiệu;
(c) thiếu vắng hẳn
hoặc không thể thực thi được chế độ trách nhiệm cá nhân rành mạch vì bản chất
của thể chế chính trị hiện hành đề kháng với đòi hỏi này, mãi gần đây mới thực
hiện thí điểm “lấy phiếu tín nhiệm” nhưng chỉ là công việc “phủi bụi” mà cũng
chưa thành, không thể đụng chạm được vào thực chất vấn đề của nhiệm vụ sàng lọc
và đào thải, không hiếm trường hợp kỷ luật cán bộ bằng cách “đá lên” hoặc “đá
ngang”…;
(d) đường lối và chính
sách tổ chức cán bộ của đảng có nhiều yếu kém nghiêm trọng, nổi bật là những
hiện tượng “sống lâu lên lão làng”, “tuần tự vị tiến và hầu như chỉ tiến không
lùi”, “cát cứ theo địa phương và cát cứ theo ngành”, hoặc ngược lại là hễ có
chức vụ đảng thì bố trí làm chức vụ chuyên môn tương đương bất cứ ngành nghề gì
cũng được, lấy sự trung thành với chế độ chính trị hay với đảng làm chuẩn mực
tuyển chọn và xắp xếp cao nhất, song vẫn không sao thoát khỏi hiện tượng chia
chác quyền lực thành phe nhóm ngay trong đảng…;
(e) vân vân…
Nhân bàn về yếu tố con
người trong hệ thống quyền lực, có lẽ phải đi tới nhận định: Mục đích tối
thượng và chi phối tất cả trong đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành
của đảng là nhằm bảo vệ chế độ toàn trị của đảng. Vì lý do này, trí tuệ và dân
chủ không thể có chỗ đứng ở đây. Đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành
của đảng là một trong những nguyên nhân sâu xa và quan trọng nhất trực tiếp làm
tha hoá đảng và toàn bộ hệ thống chính trị của quốc gia, mang nhiều đặc tính
phong kiến hủ bại đồng thời tăng cường tính ngoan cố của chế độ toàn trị hiện hành.
Đảng vẫn nói trong hệ thống chính trị này con người là quyết định, và đúng là
theo dòng thời gian đường lối chính sách tổ chức cán bộ hiện hành của đảng đã
xây dựng nên các thế hệ con người ngoan cố nhưng ngày càng thiếu trí tuệ và
phẩm chất chính trị gìn giữ cái chế độ toàn trị mà hệ thống này muốn bảo vệ; vì
thế chế độ cứ ngày càng tha hoá. Qua đó có thể nói: Đường lối chính sách tổ chức
cán bộ hiện hành còn là một trong những yếu tố nghiêm trọng trực tiếp kìm hãm
sự phát triển của đất nước.
Nói khái quát: Bia Văn
Miếu ghi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” (Thân Nhân Trung), song đường lối
chính sách tổ chức cán bộ của đảng 4 thập kỷ đất nước độc lập thống nhất là đố
kỵ với hiền tài, là làm khuynh bại nguyên khí quốc gia! Đảng có và chỉ theo các
chuẩn mực của đảng trị để giữ cái chế độ toàn trị.
Về hiện tượng luật rừng
trong rừng luật còn phải bàn đến những tác động “kinh tế của chủ nghĩa tư bản
thân quen”, “kinh tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã” đang là những hiện tượng
đặm nét trong nền kinh tế nước ta, xuất phát từ đặc thù trưởng thành trong
“chụp giựt”. Những hiện tượng này là sát thủ lạnh lùng của kỷ cương và luật
pháp, mang lại cho đất nước những hệ quả không thể tưởng tượng nổi trên mọi
phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Không ít những hiện tượng này
mở đường cho sự thâm nhập của Trung Quốc và làm trầm trọng sự lệ thuộc mọi mặt
của đất nước vào Trung Quốc, tác động nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, lũng
đoạn sâu sắc tình hình nội trị đất nước, huỷ hoại môi trường tự nhiên. Tổn thất
về kinh tế đất nước phải chịu đựng là không lường nổi, song mọi hệ luy khác của
luật rừng còn nguy hiểm hơn nhiều, nhất là luật rừng không có tổ quốc.
Khai thác bauxite trên
Tây Nguyên, khu công nghiệp Vũng Áng, hàng chục công trình công nhiệp then chốt
do Trung Quốc trúng thầu (EPC) đã đi vào hoạt động đang phát sinh vấn đề, việc
cho thuê đất thuê rừng, 70 – 80% đầu vào cho công nghiệp may và công nghiệp
giầy da phải nhập từ Trung Quốc, tình trạng biên mậu và hàng nhập lậu hầu như
không thể kiểm soát được, những thủ đoạn lũng đoạn vô hình khác, vân vân… Đấy
là những vấn đề nóng nhức nhối hàng ngày, gây nhiều tổn thất lớn cho đất nước,
phản ánh rõ nét hệ quả của luật rừng. Song đáng lo ngại hơn thế nhiều là sự
hoành hành của luật rừng là phương thức vận động chủ yếu của kinh tế của chủ
nghĩa tư bản thân quen và kinh tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã, lại trong môi
trường của chế độ toàn trị và cùng với sự can thiệp của quyền lực mềm Trung
Quốc đang gây ra cho đất nước những ách tắc và hệ quả tệ hại: Càng phát triển
càng phát sinh nhiều vấn đề và mâu thuẫn lớn, bất công lớn; các nhóm lợi ích
càng có điều kiện hoành hành; xã hội ngày càng phân hoá, chia rẽ, nguy cơ an
ninh quốc gia bị xâm phạm càng lớn; các thang giá trị và đạo đức bị huỷ hoại,
tha hoá và tội ác lây lan như dịch bệnh… Thực tế này hầu như chặn đứng con
đường phát triển của đất nước, có nguy cơ giam hãm lâu dài đất nước ta trong kinh
tế của chủ nghĩa tư bản hoang dã (đang được gán cho cái tên “cái bẫy của nước
có thu nhập trung bình”, nhưng thật ra nước ta hiện nay đang là nước có thu
nhập trung bình thấp). Tổ quốc lâm vào tình cảnh đất nước có nhiều mặt đồi truỵ
giữa lúc bị bành trướng Trung Quốc lũng đoạn và uy hiếp nặng nề, tình hình thế
giới đặt ra cho đất nước ngày càng nhiều thách thức quyết liệt về mọi mặt.
Vì vậy vấn đề luật rừng
trong bối cảnh đối nội và đối ngoại hiện nay của đất nước không đơn thuần chỉ
là một vấn đề của trạng thái phát triển quốc gia còn nhiều yếu kém, mà đây đang
là một trong những nguyên nhân gốc làm suy yếu nghiêm trọng nội tình đất nước
trong đối phó với mọi thách thức nhạy cảm từ bên ngoài. Bởi vì không một chính
sách đối ngoại nào có thể thành công bắt nguồn từ một tình hình nội trị yếu kém
và có luật rừng lũng đoạn từ bên trong. Thực tế này tăng thêm tính thúc bách
phải tiến hành cải cách thể chế chính trị.
Liên quan trực tiếp đến
vấn đề “luật rừng” trong tầm nhìn dài hạn, còn phải đặt ra nhiệm vụ triệt để
cải cách nền giáo dục nước nhà và thực hiện một tiến trình canh tân đất nước.
Cần nhận thức đầy đủ nhiệm vụ này với sự giác ngộ sâu sắc một sự thật đau lòng:
Ý thức hệ cộng sản và con đường gian truân phức tạp đất nước đã trải qua từ
Cách mạng Tháng Tám đến nay đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực có tác động sâu xa
vào đời sống kinh tế – chính trị – văn hoá – xã hội của đất nước. Nghĩa là,
ngoài sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh kéo dài mấy thế hệ, đã xảy ra trên
đất nước ta một quá trình tàn phá tinh thần và đạo đức, để lại quá nhiều vết
hằn và những “hội chứng chiến tranh”, “hội chứng cách mạng”… khó xoá, làm trầm
trọng thêm tình trạng lạc hậu và tụt hậu của đất nước. Hệ quả nặng nề tới mức
thực sự đất nước chúng ta bây giờ có nhiều việc phải làm lại từ đầu, phục hồi
lại từ đầu, nhất là trong những việc: xác lập lại tinh thần đoàn kết hoà giải
dân tộc và ý chí dân tộc, nâng cao các thang giá trị và đạo đức xã hội, gìn giữ
những truyền thống tốt đẹp để giữ lấy chính mình, thay đổi nếp nghĩ nếp sống, khắc
phục dối trá, dốt nát và ươn hèn, đấu tranh chống lại tội ác và tham nhũng…
Thật có rất nhiều việc khó và gian khổ phải làm, để dân tộc ta trở thành một
dân tộc được dẫn dắt bởi trí tuệ và các thang giá trị chung của nhân loại! Bốn
thập kỷ quốc gia có độc lập mà dân tộc ta vẫn chưa bước vào được thời kỳ này.
Điều này đáng khao khát hơn nhiều lần so với ước mong công nghiệp hoá như đang
diễn ra!.. Cái gọi là độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội quyền lực đảng đang kiên
trì thực hiện bốn thập kỷ vừa qua, cuối cùng hôm nay trên thực tế đã mang lại
cho đất nước ta một nền kinh tế của những người đi làm thuê, đất nước đang trở
thành đất nước cho thuê, người dân chưa phải là chủ của đất nước.
[Thú thực, nhiều lúc tôi
miên man không sao dứt ra được, liều lĩnh đặt câu hỏi: Có lẽ đã đến lúc dân tộc
Việt Nam ta phải thức tỉnh để tìm lại chính mình?! Phải như thế để không tiếp
tục bị cướp mất chính mình nữa!.. Dân tộc ta càng phải làm quyết liệt như thế,
nếu không muốn chính tự tay mình cũng đang đánh mất chính mình!.. Hiện nay hình
như cả nước đang chai lỳ với mọi cái nhục và hèn kém, quen sống mãi với cái tâm
thế cam chịu?.. Có phải thế không?..
Quá khứ bẩy thập kỷ vừa
qua, của gần hai thế kỷ qua thật tai ác quá! Đã dận chìm đất nước chúng ta
trong quá nhiều đau thương của chiến tranh, trong không ít lầm lẫn và tội ác…
Những hệ quả của tình trạng này đến hôm nay vẫn chưa buông tha dân tộc ta. Vâng
40 năm đất nước có độc lập, mà vẫn chưa được buông tha! Vì thế vẫn chưa tự đứng
lên được! Chẳng lẽ cuộc đấu tranh của dân tộc ta để tự giải phóng chính mình
bây giờ mới bắt đầu?!.. – nghĩ thế thật không khỏi rùng mình.
Có thể gửi gắm những suy
nghĩ ray rứt này vào sự nghiệp cải cách thể chế toàn trị hiện hành này sang thể
chế pháp quyền dân chủ được không?
Con đường tự giải phóng
này có lẽ chỉ có thể là con đường của cải cách, có phải như thế không?
Làm sao ngồi lại được
với nhau để cùng nhau bóc tách hết mọi chuyện, để cuối cùng chỉ còn lại một cái
nhìn chung về phía trước?
Tôi khát khao điều này
cho đất nước mình… Vì tôi tin rẳng cải cách về bản chất là thuộc về dân
chủ và phát triển. Hay là tôi sai?.. ]
Vì những lẽ trình bầy
trên, cải cách thể chế chính trị hiện hành còn phải gắn liền với việc lựa chọn
cho đất nước một con đường phát triển hoàn toàn mới, tạo ra cho đất nước khả
năng thực hiện nó. Con đường phát triển của dân tộc và dân chủ.
III. Nội lực lớn
nhất chưa được phát huy đúng mức: Con người
Việt Nam là nước đang phát
triển có thu nhập trung bình (thấp), có trình độ giáo dục phổ cập ở mức tương
đối cao so với các nước cùng mức thu nhập, có nguồn nhân lực lớn, lại ở vào khu
vực đang có sự phát triển năng động. Tuy nhiên trong 3 thập kỷ vừa qua (kể từ
sau khi bắt đầu đổi mới 1986) Việt Nam chưa đat được sự phát triển tương xứng
với mọi điều kiện và cơ hội cho phép, một trong những nguyên nhân quan trọng là
chưa phát huy đúng mức được nội lực – trước hết nội lực từ con người, nguồn lực
quan trọng nhất của quốc gia.
Cốt lõi của vấn đề phát
huy nguồn lực con người là giải phóng con người, một vấn đề vừa là khát vọng
dân tộc, đồng thời vừa là con đường phát triển đất nước. Tại bất kỳ quốc gia
nào, nhất là trong thế giới ngày nay, con người được giải phóng đến đâu, quốc
gia ấy phát triển được tới đấy. Giải phóng con người là nội dung quyết định
nhất của một thể chế chính trị tiến bộ và là nguồn lực sâu xa nhất làm nên sức
mạnh quốc gia. Vì thế, khi nói đến phát huy nguồn lực con người, thực chất là
bàn về thực hiện các quyền tự do dân chủ của con người, nhằm tạo ra sự phát
triển mang lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, với mục
đích cuối cùng và cao nhất là phục vụ sự phát huy chính bản thân con người – vì
lợi ích của chính nó và vì lợi ích của cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, bàn về
phát huy nguồn lực con người cuối cùng là phải bàn về bản chất tiến bộ/phản
động hoặc là bản chất tốt/xấu của chế độ chính trị trong mỗi quốc gia. Nghĩa là
phải mổ xẻ: chế độ chính trị này vì con người, hay chà đạp con người?
Trong tình hình cụ thể
của nước ta hiện nay, mục đích sâu xa nhất của nhiệm vụ cải cách chế độ toàn trị
để chuyển sang chế độ pháp quyền dân chủ phải là nhằm tạo ra được một thể chế
chính trị phục vụ tốt hơn yêu cầu phát huy con người với tinh thần và nội dung:Giải
phóng con người để làm nên sức mạnh quốc gia. Chính đòi hỏi này xác định
những nhiệm vụ cụ thể cuộc cải cách chính trị này phải thực hiện.
Song vấn đề nổi cộm nhất
đối với chế độ chính trị hiện hành của nước ta là những quyền tự do dân chủ cơ
bản của công dân và những quyền con người đã được ghi trong Hiến pháp từ nhiều
thập kỷ nay chỉ nằm trên giấy. Thực ra phải nói bản thân Hiến pháp qua việc
thiết kế nên hệ thống quyền lực do đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt
đối đã tự nó bác bỏ khả năng thực thi chính Hiến pháp. Câu chữ của hiến pháp
mới sửa đổi (2013) về những quyền này được sửa sang chút ít, song mọi chuyện
trong đời sống thực chẳng có gì thay đổi. Mới đây nhất là việc báo chí “lề
phải” tiếp tục mạt sát (nghĩa là dùng lời lẽ nặng nề mang tính trấn áp và không
có lý lẽ) các ý kiến trái chiều, vụ bắt nhà báo Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), vụ
kết án nhóm những người bất đồng chính kiến Bùi Thị Minh Hằng bất chấp sự bác
bỏ đầy lý lẽ của luật sư về cáo tội của toà… nói lên tất cả. Nêu lên thực trạng
này chỉ nhằm đi tới nhận định dứt khoát: Giữ chế độ chính trị như hiện
hành, không thể có phép tiên nào phát huy được huy nội lực mà lẽ ra đất nước ta
phải làm bằng được để ra khỏi tình hình nguy hiểm hiện nay và mở ra một thời kỳ
phát triển mới.
Hơn thế nữa, “nước được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lí gì!” Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được coi là một cuộc
vận động chính trị trọng đại từ nhiều năm nay mà lại bỏ qua điều cốt lõi này,
hành xử trước sau hoàn toàn trái ngược với điều cốt lõi này, thử hỏi còn lời
nói nào của đảng và của chế độ chính trị hiện hành có thể giữ được lòng tin của
nhân dân?
Trên đây là nói về phát
huy nội lực liên quan đến đòi hỏi việc thực thi các quyền của dân đã ghi trong
hiến pháp. Phát huy nội lực còn một vế nữa quan trọng không kém, đó là phát huy
sự giác ngộ của bản thân con người về quyền và trách nhiệm của mình – đối với
chính bản thân và đối với quốc gia. Có 2 vấn đề có liên quan dưới đây
phải bàn tiếp.
(1) Đường lối chính sách
vận động chính trị tư tưởng
Đất nước độc lập thống
nhất đã 4 thập kỷ, song có thể nhận xét khái quát: Sống giữa thời đại thông
tin, nhưng về cơ bản nước ta vẫn đang ở trong tình trạng có dân trí thấp, cản
trở nghiêm trọng sự tiến bộ của quốc gia. Nguyên nhân cơ bản không phải tội lỗi
của dân, mà tại việc duy trì những hiện tượng tiêu cực trong đời sống tinh thần
như là một biện pháp bảo vệ sự ổn định của chế độ chính trị. Khẩu hiệu “phát
huy quyền làm chủ của nhân dân” luôn luôn được nhấn mạnh, song dân làm chủ như
thế nào nếu không được dùng đến cái tai, cái mắt, cái mồm của chính mình để
tiếp cận với sự thật và nói sự thật?
Trong những hiện tượng
tiêu cực như vậy của đời sống tinh thần, đặc biệt nghiêm trọng là những hiện
tượng:
- sự áp đặt
“tư duy lề phải” và bài trừ những tư duy trái chiều,
- sự ngăn
cấm không được đụng đến những vấn đề cho là huý kỵ,
- chính sách
thông tin có định hướng, bưng bít và nói sai sự thật, nói sự thật một nửa..,
- tình trạng
thiếu công khai minh bạch,
- sự trấn áp
bằng bạo lực để khủng bố tinh thần,
- sự nuôi
dưỡng cái giả dối…
- vân vân…
Mọi thứ trái với cái gọi
là định hướng xã hội chủ nghĩa đều bị coi là phản động, là thù
địch để đối xử! Kết quả chủ yếu của chính sách này là chỉ tạo ra được một sự
vận động thụ động nào đó (chứ không phải là sức mạnh với đúng nghĩa) của một
cộng đồng dân cư được chăn dắt và hành động theo sự chăn dắt – trong khung khổ
của vòm trời ý thức hệ và trong ranh giới của chế độ toàn trị. Tất cả nhân danh
thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng. Tên gọi đúng nhất của
chính sách chính trị tư tưởng này là chính sách ngu dân, nghe rất
“sốc”. Song rất tiếc, bản chất của sự vật là như thế,[3]
Đường lối chính sách
công tác vận động chính trị tư tưởng như vậy tạm đặt cho cái tên là “chính
sách chăn dắt”. Đấy không phải là chính sách thông qua tuyên truyền vận
động của giáo dục trí tuệ nhằm tạo ra sức mạnh của một cộng đồng dân cư hành
động trên cơ sở tự giác ngộ được khả năng và quyền năng của mình, cho cuộc sống
của chính mình và cho quốc gia; tạm gọi là “chính sách khai phóng”.
Sự thật là “chính sách chăn dắt” và “chính sách khai phóng” chẳng phải là phát
kiến mới mẻ gì, mà đấy chỉ là 2 sự lựa chọn khác nhau xuất hiện trên thế giới
từ nhiều thế kỷ nay cho các chế độ chính trị khác nhau ở các quốc gia mà thôi.
Hiển nhiên, chế độ toàn
trị chỉ có thể dung nạp được “chính sách chăn dắt” và coi đấy là nguyên tắc
sống của nó. Bắt buộc phải như vậy, vì không áp dụng chính sách ngu dân thì làm
sao mà “chăn dắt” được. Kết quả đạt được là chúng ta có một đất nước đang trong
trạng thái èo uột như hôm nay, năng lực sáng tạo và ý chí quật cường của nhân
dân bị kìm hãm. Một dân tộc 40 năm đất nước độc lập thống nhất rồi mà vẫn phải
“chăn dắt” như thế làm sao có thể sống yên thân bên cạnh Trung Quốc bá quyền?
Rồi còn phải đối xử với cả cái thế giới đang tranh giành nhau ngày càng quyết
liệt này?.. Trong bối cảnh như vậy, phải nói: giải phóng tư duy để phát huy sức
mạnh dân tộc là đòi hỏi sống còn của quốc gia. Vì lẽ này, cướp quyền tự do tư
duy của dân tộc phải được coi là một tội ác nghiêm trọng đối với quốc gia.
Không phải ai khác, chính Lý Quang Diệu đã không dưới một lần cho rằng vai trò
đứng đầu Đông Nam Á ngày nay lẽ ra phải là Việt Nam, vì đất nước này có đầy đủ
mọi điều kiện và cơ hội để giữ vai trò đó sau khi ra khỏi chiến tranh!.. Còn
hôm nay đất nước chúng ta đang đứng ở đâu?
(2) Vấn đề xã hội dân sự
Cuộc sống luôn luôn là
con ngựa bất kham đối với bất kể sự chăn dắt nào, đó là quy luật muôn đời.
Thời bao cấp trước đổi
mới, có một hiện tượng nổi bật làm nên lịch sử, đó là vấn đề “phá rào”
để mà sống và phải sống. Phá rào hồi ấy chính là sự phản ứng, là một loại hình
hành động của xã hội dân sự: Dân tự đứng lên hiệp đồng với nhau, tự làm mọi
việc phải làm để tự cứu lấy mình trong đời sống kinh tế bức bách hồi ấy, bất
chấp những nỗ lực này bị cấm đoán và trù dập khốn khổ, phải lên bờ xuống ruộng
ê chề nhiều năm ròng, và phải chuốc lấy không ít oan khiên!… Khỏi phải nói, nhờ
“phá rào” kinh tế đất nước mới có ngày hôm nay. Dựa vào hiện tượng “phá rào”
này, xin đưa ra một định nghĩa dân dã: Xã hội dân sự là hiện tượng đối nghịch
với hiện tượng xã hội được chăn dắt như đã nêu bên trên! Nếu thế sao lại
cấm xã hội dân sự?
Nếu như có trí tuệ cần
thiết và không bị dị ứng ý thức hệ, nhìn nhận được hiện tượng “phá rào” này là
thuộc phạm trù xã hội dân sự, có lẽ đất nước ta hôm nay không đến nỗi èo uột và
lệ thuộc như thế này.
Ngày hôm nay, dù không
được phép tồn tại trong ngôn ngữ chính thống của hệ thống chính trị cũng như
trong nhà trường, dù vẫn bị coi như một hiện tượng huý kỵ… – xã hội dân sự tiếp
tục tự nó cứ lừng lững (Nguyên Ngọc) đi vào cuộc sống. Đơn giản vì mọi người
đều phải sống và vì chẳng có bạo lực nào diệt nổi cuộc sống – cho dù quyền
lực đang trấn áp xã hội dân sự như thế nào, cho dù xã hội dân sự ở nước ta còn
yếu về ảnh hưởng đối với đất nước và chưa phát triển so với những điều kiện cho
phép…
Thế nhưng hôm nay, đối
với một bộ phận nào đó trong quyền lực đảng – bao gồm cả một số trí thức của
đảng – cụm từ “xã hội dân sự” vẫn như là cụm mấy từ của tiếng nước ngoài, tối
nghĩa, và… không có tiếng Việt để dịch (?!) – nghĩa là không tồn tại trong ý
thức (nói theo Trần Đức Thảo)… Thậm chí không hiếm trường hợp cụm từ xã hội dân
sự còn được dùng làm tên gọi dành riêng cho các thế lực thù địch! Mặc dù điều 3
của Hiến pháp hiện hành và toàn bộ 25 điều khác nêu trong Chương II của Hiến
pháp đã nêu tương đối đầy đủ các quyền của công dân mà thực chất đấy cũng là
các quyền của xã hội dân sự. Những gì thuộc quyền của xã hội dân sự nhưng không
thể nêu lên hết được trong Hiến pháp đều được làm rõ trong nguyên tắc của hiến
định: Nhà nước chỉ được làm những gì hiến pháp cho phép, người dân được phép
làm tất cả những việc hiến pháp không cấm.
Mặc dù hôm nay xã hội
dân sự vẫn bị cấm đoán trực tiếp hoặc gián tiếp, chính quyền có không ít những
hành động trấn áp thô bạo bằng bạo lực, song những gì các hoạt động của xã hội
dân sự đã làm được và vai trò của các tổ chức phi chính phủ mọi loại hình (dù
được pháp luật thừa nhận hoặc không được luật pháp thừa nhận) đang đóng góp
ngày càng nhiều cho cuộc sống đất nước – kể cả trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ
chủ quyền của đất nước, ngày càng trở thành một lực lượng chính trị làm khó dễ
cho quyền lực chăn dắt xã hội. Chuyên chính của chính quyền đang khẳng định đây
là nguy cơ lật đổ chế độ.
Cũng như mọi hiện tượng
xã hội khác, đều có cái tốt và cái xấu. Tại các nước phát triển, ngoài luật
pháp, xã hội dân sự được hướng dẫn và nuôi dưỡng chủ yếu bằng nâng cao dân trí,
bằng phát huy các giá trị và đạo đức xã hội, bằng phát huy các truyền thống văn
hoá tốt đẹp, bằng những nỗ lực xây dựng một xã hội mở, qua đó loại bỏ những
hiện tượng xấu… Vì những lẽ này xã hội dân sự trở thành môi trường nhân dân
thông qua đó trực tiếp tự giáo dục mình, thực hiện quyền lực của mình với tư
cách là người chủ của đất nước, là trường học không thể thiếu để nhân dân tự
nâng cao khả năng và quyền năng của mình – vì cuộc sống của chính mình và của
đất nước. Vì những lẽ này, xã hội dân sự trở thành yếu tố không thể thiếu đối
với nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Nghĩa là thiếu xã hội dân sự,
nhà nước pháp quyền trở thành nhà nước mafia, kinh tế thị trường trở thành kinh
tế thị trường hoang dã – ít nhiều đây đang là hiện trạng của nước nhà.
Xin đừng bao giờ quên:
Hệ thống trụ cột chân kiềng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của một quốc
gia nhất thiết phải là “bộ ba” kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã
hội dân sự.
Song cho đến hôm nay,
quyền lực chăn dắt của nước ta lẽ ra phải thông qua con đường đối thoại tạo ra sự
đồng thuận với xã hội dân sự, lại chỉ một chiều nhất quán lựa chọn con đường
bác bỏ và đối kháng xã hội dân sự, bằng chuyên chính và bạo lực, vì bản chất
của chế độ toàn trị là như vậy. Cách tiếp cận này đã biến không ít lực lượng
tốt trong nhân dân thành thù địch, đồng thời tạo ra không ít không gian hoạt
động cho các thế lực thực sự thù địch với lợi ích quốc gia của Việt nam, trong
đó đặc biệt là sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Lẽ đương nhiên lợi ích
quốc gia đòi hỏi cải cách thể chế chính trị phải xoá bỏ mọi hành xử “chăn dắt”
con dân. Song còn hơn thế, thiết nghĩ cải cách thể chế chính trị lần này phải
hướng vào mục tiêu trong đại: Đẩy mạnh phát triển xã hội dân sự ở nước ta, để
hoàn thiện và củng cố cái trụ cột đang yếu nhất trong hệ thống kiềng ba chân
“kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự”, để tạo dựng được
nền móng căn bản của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Rất nên bỏ tâm trí
và công sức xây dựng xã hội dân sự như một hướng mới, một phong trào vận động
mới để nhân dân tự đứng lên thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình, xoá bỏ
bằng được “chế độ chăn dắt”. Đất nước phải được xây dựng và bảo vệ bằng những
người con tự giác ngộ được chính mình, chứ không phải bằng một bầy cừu ngoan
(dựa theo cách nói của Ngô Bảo Châu).
Có thể kết luận, trung
tâm của cải cách thể chế chính trị hiện nay là nhằm phát huy nguồn lực quan
trọng hàng đầu của quốc gia: Con người. Vì lẽ này, cái đích của cải cách thể
chế chính trị phải nhằm vào là xây dựng một xã hội khai phóng, mở đầu một thời
kỳ phát triển mới của đất nước. Hơn thế nữa, giải phóng con người là con đường
khắc phục sự tụt hậu của đất nước, quan điểm này phải được thể hiện trong một
chiến lược kinh tế phù hợp có khả năng xử lý hài hoà mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển, thậm chí lấy phát triển làm động lực bền vững của
tăng trưởng.
IV. Thay cho phần kết:
Sự thiếu hụt của ý chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
IV.1. Điểm xuyết lại vấn đề cải cách trên thế giới
-
Các cuộc nổi dậy ở các nước Bắc Phi (được ban cho cái tên gọi của các mùa hoa)
thực chất là một dạng thức của các cuộc cách mạng, với nghĩa nổi dậy phá vỡ cái
trật tự hiện hữu, chứ không phải là những cuộc cải cách. Bởi lẽ những lực lượng
tham gia sự vận động này quá đa dạng và có những lợi ích quá khác biệt nhau –
đặc biệt trên hai phương diện (1) sắc tộc, và (2) giáo phái – do đó họ không có
hoặc không thể có những ý đồ chiến lược thống nhất cho sự phát triển đất nước
tiếp theo sau khi đã lật đổ được chính quyền. Những nước này vì không thể có
chiến lược cải cách tiếp nối sau khi tiến hành cách mạng, nên hiện nay rơi tiếp
vào những rối loạn mới là tất yếu [4].
-
Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ cuối thập kỷ 1980s trải qua một quá trình
sụp đổ trong hoà bình, chứ không phải là quá trình cải cách, mặc dù phong trào
cải cách ở những nước này phát triển rất sớm và hoàn toàn không có khả năng
thay đổi chế độ. Nguyên nhân chính có thể là những nước này không hề có các
cuộc cách mạng XHCN; các chính quyền XHCN ở đấy hình thành và tồn tại được chủ
yếu nhờ được Liên Xô giải phóng và sự hậu thuẫn sau đó; sự khống chế của Liên
Xô đủ sức đè bẹp mọi cuộc nổi dậy của cải cách… Vì những mâu thuẫn nội tại, khủng
khoảng ở những nước này xảy ra liên tiếp, trở nên ngày càng nghiêm trọng khi
bước vào thập kỷ 1980s. Nhưng phải đợi cho đến khi Liên xô không đủ lực bao cấp
sự hậu thuẫn nữa (đặc biệt trên phương diện quân sự) và đồng thời từ bỏ chính
sách đối ngoại thời chiến tranh lạnh vì lực bất tòng tâm, khối “hiệp ước Varsovie”
không kham nổi vai trò của nó nữa, Liên Xô buông xuôi, các nước XHCN Đông Âu
tất yếu sụp đổ, song may mắn là trong hoà bình.
-
Liên Xô thực sự tiến hành cải cách triệt để (cả kinh tế và chính trị) khi
Gorbachov làm tổng bí thư, vì tình hình đất nước quá quẫn bách mọi mặt và đã
kéo quá dài (kể từ khi Brejnev lên cầm quyền 1964 – 1982). Cuộc cải cách này
thất bại, vì cả về lý thuyết và thực tiễn tiến hành đều có quá nhiều cái sai.
Nói cải cách này thất bại, vì mọi mục tiêu người cải cách đề xướng đều không
thực hiện được (cải cách nhưng vẫn muốn giữ nguyên chế độ xô-viết và ĐCSLX),
song kết quả đạt được là chế độ xô-viết sụp đổ, ĐCSLX bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật và tan rã. Nhưng trên bình diện quốc gia, cải cách này cho dù thất bại,
song đấy vẫn là sự chuyển đổi hoà bình không tự giác, xoá
bỏ được chế độ xô-viết trong tình thế không còn các lý do và điều kiện để tiếp
tục tồn tại nữa, qua đó lập ra được chế độ mới của nước Nga ngày nay.
-
Sự chuyển đổi ở các XHCN LXĐÂ cũ từ thể chế chính trị cộng sản sang thể chế
chính trị dân chủ là sự chuyển đổi triệt để (radical), dù diễn ra dưới hình
thức nào song về cơ bản đấy vẫn là sự chuyển đổi hoà bình, nhờ
vậy sau khoảng 2 thập kỷ các nước này hồi phục và bắt đầu lấy lại sức phát
triển của mình. Thực tế này chỉ rõ: Cho dù có những đặc thù nào đối với từng
quốc gia riêng lẻ, song vẫn nói lên 2 điều: (a) trong những điều kiện nhất
định, có thể chuyển đổi triệt để trong hoà bình chế độ toàn trị sang chế độ dân
chủ, (b) chuyển đổi hoà bình như thế hiển nhiên là con đường ngắn nhất và tiết
kiệm xương máu nhất cho sự phục hồi và phát triển sau đó.
Vì vậy tìm
kiếm con đường chuyển đổi hoà bình luôn luôn là một khả năng có thể, và phải
được coi là giải pháp ưu tiên một khi chế độ hiện hành không còn lý do tồn tại.
-
(Tuy nhiên, riêng đối với nước Nga còn phải nêu thêm một số nhận xét khác nữa:
(a) Kể từ khi LX sụp đổ, nước Nga sau ¼ thế kỷ chuyển đổi đã không đi hẳn vào
con đường dân chủ, mà lại ngoặt sang con đường phục hưng đế chế Nga, bắt đầu tư
sự kiện sáp nhập Krym; (b) bước ngoặt này có lẽ là tất yếu, bởi vì Nga là một
cường quốc đã từng giữ vị thế đế chế thời Sa hoàng và là một dạng đế chế khác
dưới thời xô viết, có phải như vậy không? (c) nếu sự trở lại (hoặc đang tìm
đường trở lại) vị thế đế chế Nga là tất yếu như đang diễn ra, sự xuất hiện Liên
Xô (1917 – 1991) phải chăng là một “chặng đường vòng tốn kém” kéo dài hơn 7
thập kỷ cho chính nước Nga? (e) phải chăng “đường vòng” như thế nếu xảy
ra luôn luôn có nghĩa là một bi kịch quốc gia? – câu hỏi này nước nào cũng
phải quan tâm.)
-
Thể chế quân phiệt ở Myanmar đang tìm đường cải cách để hoà bình chuyển sang
thể chế dân chủ, bắt đầu tiến hành từ thời tổng thống Thein Sein (2011), trong
những điều kiện rất nghiệt ngã, trong đó có sự can thiệp rất trầm trọng của
Trung Quốc vào nội tình Myanmar. Đây là cuộc cải cách đang được tiến
hành từng bước, bắt đầu từ cấp cao nhất của quyền lực xuống và từ trong hệ
thống quyền lực ra ngoài xã hội. Đã gặt hái được những kết quả đầu tiên rất
khích lệ, tuy rằng còn nguyên vẹn con đường dài và rất gian truân ở phía trước.
Nguyên nhân thành công chủ yếu là: Cấp cao nhất của quyền lực Myanmar
(a) đã giác ngộ được nguy cơ mất còn của quốc gia, (b) quyết tâm đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết, và (c) biết phát huy sự đóng góp của giới trí thức và
phong trào dân chủ để tiến hành cải cách cứu nước. Điều này rất đáng
để Việt Nam suy nghĩ. Đây chính là điều duy nhất cấp cao nhất của quyền lực ở
nước ta đang thiếu và không hiểu được.
IV.2. Sự thiếu hụt của ý chí chính trị: Lợi ích quốc gia không phải là trên hết
Đến đây có thể rút ra những kết luận như sau:
1. Tình hình trong nước
và trên thế giới cũng như những bài học của các nước đi trước cho thấy Việt Nam
hoàn toàn có thể tiến hành thành công một cuộc cải cách thể chế chính trị không
thể thoái thác bằng con đường hoà bình.
2. Vấn đề cải cách thể
chế chính trị ở Việt Nam đã thực sự chín muồi – với nghĩa chế độ hiện hành đã
tích tụ quá nhiều thối nát, càng chậm trễ càng nguy hiểm cho đất nước về mọi
phương diện, thậm chí với những hệ quả đẫm máu. Bối cảnh quốc tế về cơ bản cũng
thuận lợi cho một cuộc cải cách triệt để thể chế chính trị như thế ở nước ta –
ngoại trừ yếu tố Trung Quốc, song đây là vấn đề nước ta hoàn toàn có thể xử lý
được.
3. Cải cách thể chế chính
trị sẽ mở ra cho đất nước bước ngoặt chiến lược: (a)đưa nước ta vào một thời kỳ
phát triển mới, (b)đồng thời sẽ mang lại cho nước ta sức mạnh và vị thế quốc tế
đoạn tuyệt được với thân phận một quốc gia “leo dây” èo uột lệ và thuộc, (c)tạo
điều kiện vững chắc cho nước ta có thể chủ động xây dựng quan hệ láng giềng,
hữu nghị và hợp tác tốt với Trung Quốc – đây là con đường khả dĩ và hiệu quả
nhất chống lại chính sách bành trướng bá quyền của siêu cường đang lên Trung
Quốc. Nói đến nơi đến chốn: Chỉ có thông qua một cuộc cải cách thể
chế chính trị triệt để như thế, nước ta mới có thể trở thành một quốc gia có
khả năng chủ động mở ra một thời kỳ mới của quan hệ Việt – Trung trên cơ sở hoà
bình, hữu nghị, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi; chỉ có như thế Việt Nam mới có
thể bảo vệ được vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của
mình. Dứt khoát phải chủ động như thế, vì không bao giờ và mãi mãi
không bao giờ có thể van xin được Trung Quốc điều này.
4. Mọi điều kiện kinh
tế, chính tri, văn hoá, xã hội của nước ta hiện nay, cũng như mọi tri thức đã
hình thành được trong nước và trên thế giới có thể vận đụng được, hoàn toàn cho
phép vạch ra một chiến lược và thiết kế được các bước đi cụ thể cho sự nghiệp
cải cách đưa đất nước ta vào một thời kỳ phát triển mới, kế thừa được những
bước phát triển đã tạo ra, đồng thời tạo ra cho đất nước khả năng thích nghi
tốt nhất đối với mọi đòi hỏi mới của tình hình mới trong khu vực và trên thế
giới.
5. Điều cực kỳ quan
trọng là khát vọng của nhân dân cả nước về một cuộc cải cách đổi đời đất nước
như thế giờ đây không kém gì khát vọng về độc lập tự do như thời Cách mạng
Tháng Tám. Đấy là sự thức tỉnh ngày càng ray rứt trong nhân dân sau 40 năm xây
dựng mà đất nước đang ngày càng nhiều bất công và không có độc lập tự do. Giập
tắt khát vọng đổi đời này, có thể đốt cháy đất nước và kẻ giập tắt nó. Khơi dạy
khát vọng này, đất nước sẽ đứng lên bất khả kháng xây dựng bằng được dân giầu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Khát vọng cải cách này để đổi đời cho
mình và cho đất nước được dấy lên chính là sức mạnh quốc gia đang rất cần lúc
này. Đây là điều ĐCSVN, trước hết là những người nắm quyền lực cao nhất trong
đảng, cần nhận thức rõ và rút ra những kết luận cho mình, dám chấp nhận dấn
thân khơi dậy khát vọng này. Nhận thức được như thế, ĐCSVN sẽ biết được
phải làm gì và làm được, qua đó sẽ thay đổi được chính mình để trở thành đảng
của dân tộc.
Tuy nhiên, với tất cả
nhận thức của tôi về tình hình và về đòi hỏi cải cách thể chế chính trị như đã
trình bày, cho đến giờ phút này tôi vẫn phải đánh giá: Tất cả những gì đang
diễn ra trong quá trình chuẩn bị đại hội XII cho thấy khát vọng cải cách thể
chế chính trị đến 99% là không hiện thực. Nguyên nhân chủ yếu và duy
nhất là sự thiếu hụt ý chí chính trị của ĐCSVN – trước hết là đội ngũ lãnh đạo
của nó: Không dám đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Tôi cầu mong tôi
sai, để cho đất nước mình khỏi khổ, nhưng hình như tôi nhận định như thế không
sai. Vì thế, dù chỉ còn 1% cũng vẫn phải nói đến cùng, nếu không thủng được vào
cái tai của đảng, thì lọt vào tai của nhân dân vậy, vào tai các đảng viên yêu
nước.
Nguyên nhân hàng đầu của
sự thiếu hụt ý chí chính trị này trong đảng trước sau vẫn chỉ là tha hoá và
tham nhũng trong đảng! Điều vô cùng đơn giản rất dễ thấy này và cũng hết sức
tầm thường này lại là sự thật chết người, và hiện nay gần như vô phương cứu
chữa. Điều này thật cay đắng làm sao! Cả một cái đảng có truyền thống cách mạng
bao nhiêu thế hệ, cuối cùng gục ngã trước một cái điều đơn giản, quá tầm
thường, và dễ thấy này! Cả một đất nước có lịch sử hào hùng trở thành nô lệ của
cái điều vô cùng ẩm ương và vô cùng phi lý này!
Có ý kiến nói nguyên
nhân cơ bản của sự thiếu hụt này là ý thức hệ. Tôi thấy nghĩ thế không sai,
song có lẽ chưa đủ. Bởi vì ý thức hệ được rêu rao thực chất chỉ là cái cớ để
trói buộc người khác, là cái lá nho phô ra để che giấu những điều xấu xa trước
dân chúng, bản thân những người giao giảng ý thức hệ XHCN đâu có tin và càng
không theo (tôi đã dẫn chứng việc học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh).
Tha hoá trầm trọng nhất
trong đảng hiện nay là tha hoá về chính trị, điểm tột cùng của tha hoá đạo đức.
Tham nhũng tồi tệ nhất
trong đảng hiện nay là tham nhũng quyền lực, cha đẻ của mọi tham nhũng vật
chất, của cải và các giá trị tinh thần khác, kể cả tham nhũng lịch sử và sự
cướp đoạt tự do tư duy…
Cái vô cùng khó là tha
hoá và tham nhũng như thế đã trở thành một nếp nghĩ, nếp sống ngay càng lan
rộng và lan sâu trong mọi cộng đồng dân cư từ nông thôn đến thành thị, trong
mọi lĩnh vực ngành nghề dù thuộc dân sự, quân sự, võ trang, khoa học kỹ thuật,
nghệ thuật hay kinh tế, đoàn thể xã hội… Công việc hay ngành nghề, dự án hay
công trình… càng quan trọng hoặc càng lên cao, hoặc càng lớn… tha hoá và tham
nhũng càng lớn theo, kể từ cấp cơ sở lên đến cấp cao nhất, trong một ngành hoặc
liên ngành, trong từng mảng cuộc sống của đất nước, xuyên địa danh, xuyên họ
tộc… Tha hoá và tham nhũng cấp dưới công kênh cấp trên và cứ thế công kênh
nhau, bỏ phiếu cho nhau và cố kết thành bè thành mảng; trị một nơi hay một vụ
việc lập tức bị trị lại; đổ một nơi lập tức có nguy cơ “domino” kéo đổ cả một
dây nên cố níu kéo nhau dứt khoát không cho nơi nào đổ… Cần thì trấn áp bằng
bạo lực bất kể sự phản kháng nào từ dân, để giữ không cho đổ xẩy ra… Cái gì
không che giấu được thì xuyên tạc. Phản kháng đụng chạm đến chế độ chính trị,
trấn áp sẽ càng quyết liệt, bất chấp đạo lý và luật pháp. Tình trạng này khiến
cho đối mặt với tha hoá và tham nhũng hầu như chỉ có mỗi cái sợ. Đất nước bao
chùm các nỗi sợ có tên và không tên. Kẻ thấp cổ bé miệng sợ bị quyền lực trù
giập, bị khủng bố, hoặc không giữ được niêu cơm, cam chịu vẫn là sự lựa chọn dễ
thở hơn… Kẻ có chức có quyền sợ mất phe cánh, bổng lộc của mình có thể bị teo
tóp, hoa lợi của con cháu bị ảnh hưởng, nên không ai bảo ai cứ nhũn như con chi
chi và mũ ni che tai trước mọi tội ác, đồng loã với tội ác… Phần đông những vụ
tội ác lớn vỡ lở là do đánh nhau là chủ yếu, chứ không phải do kết quả thực thi
pháp luật. Hủ tục, sự dốt nát và các tàn dư phong kiến cũ là đồng minh chí cốt của
tha hoá và tham nhũng… Dù hô hào đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, hô hào học
tập như thế nào đi nữa, tha hoá và tham nhũng vẫn cứ ngang nhiên hoành hành và
bất trị, cứ như ung thư tàn phá không thương tiếc cơ thể đất nước. Tình
trạng tồi tệ đến mức ngôn ngữ không mang tải nổi, thần kinh con người khó trụ
lại được khi phải tiếp xúc những điều bỉ ổi lộ ra…
Sự kiện xẩy ra bạo loạn
đập phá khoảng 800 xí nghiệp trong hai ngày 13 và 14-05-2014 là một trong những
ví dụ điển hình, cho thấy tha hoá và tham nhũng vô hình trung đã tiếp tay cho
quyền lực mềm Trung Quốc đánh bại đất nước như thế nào trong trận đánh cụ thể
này: biểu tình chống sự việc giàn khoan HD 981 bị bàn tay quyền lực mềm Trung
Quốc biến tướng thành bạo loạn đập phá, hệ thống an ninh của ta hoàn toàn bị
bất ngờ, phía ta tốn kém phải bồi thường thiệt hại đập phá và còn phải xin lỗi
nữa, sự việc gây chia rẽ nội bộ đất nước…
Song cũng phải nói ngay
Myanmar dưới thời quân phiệt những chuyện tha hoá và tham nhũng hoành hành như
thế không thiếu và không ít tắm máu…
Lại câu hỏi, thế nhưng
tại sao cấp cao nhất ở Myanmar vẫn dám tiến hành cải cách, nhưng ở ta lại không
dám?
Lại câu trả lời: Cấp cao
ở nước ta thiếu cái cấp cao Myanmar dám: đặt lợi ích quốc gia lên trên hết và
phát huy được vai trò của trí thức và phong trào dân chủ. Có thể còn một nguyên
nhân nữa là xã hội phật giáo Myanmar còn giữ được nhiều giá trị đạo đức và tinh
thần quan trọng, trong khi đó ở nước ta những giá trị này 40 năm nay bị huỷ
hoại nặng nề.
Sự thật là Myanmar đã và
đang tiến hành cải cách, bắt đầu từ những việc dễ làm nhất, rõ ràng, với từng
bước đi nhỏ nhất trong một chiến lược cải cách tổng thể. Ngay cả bước nhỏ nhất
cũng được chia ra làm nhiều phần để làm dần:
Ví dụ việc thả tù chính trị là
bước đi đầu tiên, được chia thành nhiều bước nhỏ, thực hiện kéo dài khoảng 2
năm, cứ ổn định đến đâu thả tiếp đến đấy, tổng cộng có tới khoảng 2000 người
được thả. Quyền tự do báo chí, quyền biểu tình cũng làm theo phương thức chia
ra từng bước như vậy. Quyền tự do bầu cử cũng được chuẩn bị rất kỹ lưỡng sau
khi đã giàn xếp xong với phe dân chủ, và trước mắt cũng mới chỉ là bầu cử bổ
xung 44 ghế còn khuyết trong quốc hội, được tiến hành trung thực, công khai và
dân chủ, trước sự chứng kiến của quốc tế.
Trong khi đó hiến pháp hiện hành vẫn giữ
nguyên cho quân đội có đặc quyền giữ 25% số ghế trong quốc hội… Và như một phép
mầu khó tưởng tượng, những biện pháp cải cách chính trị như thế giúp cho việc
tháo gỡ những ách tắc nghiêm trọng trong kinh tế nhẹ nhõm hẳn và dễ thông xuốt;
đơn giản vì trí thức có những tham vấn có chất lượng, luật rõ ràng, được nhân
dân tin và hưởng ứng. Ví dụ: Việc thực hiện tỷ giá tự do đồng nội tệ Kyat
(trước cải cách cao gấp 100 lần tỷ giá chính thức của ngân hàng quốc gia)
Myanmar đã hoàn thành trong vòng không đầy một năm kể cả khâu chuẩn bị; trong
khi đó ở nước ta việc này phải làm đi làm lại trầy trật mãi, kéo dài gần một
thập kỷ mới xong. Quyền tự do kinh doanh ở Myanmar cũng đang được mở rộng từng
bước, nhưng vẫn phải theo hiến pháp hiện hành…
Bản thân tổng thống Theinsein và
lãnh tụ phong trào dân chủ Aung San Suu Kyi nhiều lần trực tiếp tham gia đối
thoại công khai trước cả nước với các bên khác nhau trong những nỗ lực tìm kiếm
đồng thuận xã hội cho đẩy mạnh cải cách… Bản thân tổng thống Thein Sein đã phải
có không ít những quyết định khó khăn để xử lý những vấn đề rất nhạy cảm trong
quan hệ với Trung Quốc, như hạn chế sự can thiệp của Trung Quốc vào những vấn
đề sắc tộc ở Myanmar, huỷ hợp đồng thuỷ điện Myitsone 1,6 tỷ USD, huỷ hợp đồng
đường sắt xuyên Myanmar từ Trung Quốc xuống thẳng vịnh Bengale 20 tỷ USD, các
hợp đồng kinh tế khác, giải quyết bao nhiêu áp lực chính trị/kinh tế khác trong
và ngoài…
Bí quyết của những thành
công ban đầu này tại Myanmar ngoài sự hậu thuẫn rất quan trọng của trí thức
(trong đó có nhiều nhà kinh tế, các nhà kỹ trị, các luật gia… sống lưu vong
dưới chính quyền quân phiệt nay quay về giúp nước), xây dựng được chương trình
cải cách đúng đắn với những bước đi có tính toán hợp lý, điều có ý nghĩa quyết
định là (1) chính quyền trung ương và quân đội giữ được trật tự trong quá trình
tiến hành cải cách, không để xảy ra việc dùng quân đội đàn áp biểu tình, rõ nét
nhất là thời gian vận động và tiến hành cuộc bầu cử bổ sung, (2) tạo ra được
những cải thiện hay tiến bộ rõ rệt trong kinh tế. Chính sự ổn định chính trị và
sự cải thiện kinh tế từng bước đạt được này đã hỗ trợ tích cực trở lại các bước
cải cách tiếp theo. Cải cách áp dụng nguyên tắc không hồi tố.
Hòn đá tảng đầy thách
thức cam go trước mặt đối với Myanmar là xây dựng hiến pháp mới, trong đó có
vấn đề xử lý thế nào đặc quyền cho quân đội chiếm 25% ghế trong quốc hội. Chắc
chắn còn nhiều sóng gió phía trước, vấn đề các sắc tộc ở Myanmar vẫn đang rất
nóng bỏng, nguy cơ cải cách bị đảo ngược không phải là ít. Dù sao, sau 3 năm
thực hiện, cải cách đã khai mở được những bước đi quyết định đầu tiên trên con
đường phát triển mới của đất nước; trong khi đó Trung Quốc vẫn không ngừng can
thiệp bằng quyền lực mềm.
Nhìn vào Việt Nam:
Ngoại trừ cái điều mà
cấp cao của quyền lực ở Myanmar dám làm nhưng quyền lực cấp cao ở nước ta không
dám, phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay đi trước Myanmar khoảng 10 – 15 năm,
GDP p.c. của nước ta cao gấp đôi của Myanmar, nước ta không có vấn đề sắc tộc
nặng nề như Myanmar… Quả là phi lý không thể chấp nhận được là cải cách thể chế
chính trị ở Myanmar là có thể và đang thu lượm kết quả đầu tiên, nhưng ở nước
ta cho đến giờ phút này cải cách thể chế chính trị tuy rất cấp bách nhưng vẫn
là không thể.
Các phần I, II và III
của bài viết này đã nêu lên những vấn đề quan trọng cuộc cải cách thể
chế chính trị này ở nước ta phải giải giải quyết (xem kết luận của mỗi
phần). Trong những năm gần đây, đặc biêt là khi bàn về sửa đổi hiến pháp, những
kiến nghị cụ thể của những người yêu nước trong cả nước về thực hiện cuộc cải
cách này rất phong phú. Gần đây nhất là thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng
viên gửi cho Bộ Chính trị và BCHTƯ yêu cầu lãnh đạo ĐCSVN (1) bạch hoá quan hệ
Việt Trung, (2) chấm dứt việc đàn áp những người yêu nước, (3) huỷ bỏ cương
lĩnh lỗi thời hiện nay của ĐCSVN để xây dựng đảng trở thành đảng của dân tộc,
(4) xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, (5) đại hội XII phải được tiến hành
theo cách đáp ứng những đòi hỏi vừa nêu trên, (6) phải tổ chức bầu cử trung
thực quốc hội khoá tới để mở đầu cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ.
Phần giới thiệu tóm tắt
về diễn tiễn quá trình cải cách ở Mynamar cũng đưa ra những gợi ý các bước đi
cụ thể đầu tiên cho vệc tiến hành cải cách ở nước ta, dù rằng mỗi quốc gia đều
có đặc thù riêng…
Trong khi bắt tay vào
cải cách thể chế chính trị, cần đặc biệt quan tâm hỗ trợ và thúc đẩy các biện
pháp cải cách thể chế kinh tế chính phủ đang nỗ lực triển khai. Kinh nghiệm
Myanmar cho thấy điều này vô cùng quan trọng, bởi vì vừa phòng ngừa được đổ vỡ
gây tổn thất, vừa mang lại những khích lệ thiết thực tạo không khí hợp tác và
đối thoại cho xúc tiến cải cách.
Tóm lại đất nước hội đủ
mọi điều kiện căn bản cho phép tiến hành thành công nhiệm vụ cải cách trọng đại
này. Không phải tìm kiếm đâu trên trời dưới đất xa xôi, nếu ĐCSVN hôm nay trung
thành với chính lý tưởng đã khai sinh ra mình: Hãy quay trở lại phấn đấu thực
hiện nghiêm túc Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 và xây dựng nhà nước pháp quyền
dân chủ theo tinh thần Hiến pháp 1946!
Trở ngại duy nhất là vẫn
đang thiếu quyết tâm chính trị trong cấp cao nhất của quyền lực đảng: Đặt lợi
ích quốc gia lên trên hết!
Đại hội XII tới sẽ đặt
ĐCSVN trước giờ phút của sự thật:
Đảng lựa chọn đất nước
để tiến hành cải cách thể chính trị, đại hội XII sẽ đánh dấu một bước ngoặt
lịch sử đổi đời đất nước và cả bản thân đảng. Đảng trì hoãn hoặc thậm chí đối
kháng cuộc cải cách đã chín muồi này, đại hội XII sẽ đẩy đất nước vào một thời
kỳ đen tối mới, như hội nghị Thành Đô đã một lần đánh dấu thời kỳ lệ thuộc của
đất nước./.
Hà Nội, 02-09-2014
N.T.
*
* *
[1] Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện
Mỵ Châu – Trọng Thủy; Bài 2: Hiểm họa đen; Bài
3: Chúng ta lựa chọn gì cho tổ
quốc?
[2] Có thể nói “nguy cơ
diễn biến hoà bình” được nhập khẩu nguyên đai nguyên kiện từ Trung Quốc, tác
giả của nó là tướng Dương Thượng Côn.
[3] Xin đừng quên: Một
trong những tội ác nghiêm trọng của thực dân Pháp mà Cách mạng Tháng Tám đã lên
án là “chính sách ngu dân”. Các cơ quan làm công tác nghiên cứu của đảng
rất nên làm công việc khảo sát để so sánh với hôm nay.
[4] Tham khảo thêm:
Nguyễn Trung, bài 3 “Chúng ta lựa chọn gì cho tổ
quốc?”, phần nói về “Kịch bản 3”
Bài 4B – BÀN VỀ HOÀN THIỆN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
(Bài thứ hai trong loạt ba bài: Ba việc hầu
như không thể, nhưng phải tìm cách làm)
• Bài 4A: Bàn về cải cách thể chế chính trị
I. Đánh
giá khái quát con đường 40 năm
Góp phần tổng kết kinh
tế mà đại hội XII nhất thiết phải làm, tôi xin nêu lên một số nhận xét chính
dưới đây, trước khi bàn đến chủ đề hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong bài 2 (Hiểm họa đen) và
bài 3 (Chúng ta lựa chọn gì cho tổ
quốc?), tôi cho rằng 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên
là một thời kỳ phát triển thất bại, hoặc dễ nghe hơn: cơ bản là thất bại (song
“dễ nghe hơn” như thế chẳng ích lợi gì thêm cho đất nước).
Nói là thất bại, bởi lẽ:
Không đạt được các mục tiêu chiến lược, thành tựu hay kết quả thu được không
xứng với thời gian, công sức, của cải đã bỏ ra và những cơ hội có được. Bao
trùm lên tất cả là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại, đến 1986 phải
xoá bỏ nền kinh tế bao cấp để tiến hành đổi mới, đề ra cái gọi là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, song thực chất vẫn là để kiên
trì chủ nghĩa xã hội mà chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có lần thừa nhận
chưa rõ nó sẽ là cái gì. Đường lối sai, sửa lại rồi mà cũng không rõ được, như thế
làm sao có thể thành công được? Cho nên thất bại là tất yếu. Dưới đây xin điểm
lại cho rõ.
Trong 40 năm này, nước
ta mất trên dưới mười năm vào hai cuộc chiến tranh tiếp theo kháng chiến chống
Mỹ (chiến tranh Campuchia, chiến tranh Trung quốc xâm lược biên giới), lại thêm
những thất bại trong đường lối kinh tế bao cấp kéo dài cho đến khi tiến hành
đổi mới 1986. Thời kỳ 10 năm này (1975 – 1986, về những mặt nào đó phải tính
đến 1989) đảng đã vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng cả về đối nội (bao
gồm cả kinh tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài. Nguyên nhân chủ yếu là
chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và không hiểu chính bản thân nước ta: Tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội! Từ nay không có kẻ thù
nào dám động đến ta! – Đương nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng
rất quan trọng, có những mặt bất khả kháng, song dù sao vẫn phải nói những
nguyên nhân chủ quan của lãnh đạo là những tác nhân trực tiếp của những sai lầm
thời hậu chiến.
Trong những nguyên nhân
chủ quan, cái nguyên nhân không hiểu thế giới, không hiểu chính bản thân nước
ta cho đến hôm nay vẫn đang là một cái u-bướu chết người trong não bộ tư duy
của ĐCSVN.
Kinh tế nước ta thực sự
phát triển kể từ khi tiến hành đổi mới 1986, ngày nay đạt mức “nước đang phát
triển có thu nhập trung bình (thấp)” [1]. Nếu so sánh nước ta hôm nay với nước
ta 1986, kinh tế nước ta đã đi được một chặng đường dài: từ nước chậm phát
triển lên nước đang phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế – xã hội
quan trọng được thế giới ghi nhận. Đã có lúc kinh tế nước ta giành được sự phát
triển ngoạn mục (nhất là thời kỳ 1986 – 1995…), trên thế giới người ta đã bắt
đầu nói tới “con hổ Việt Nam”, nhưng con hổ này chưa kịp cất lên tiếng gầm nào
thì đã biến mất tăm.
Song nếu so nước ta với
các nước chung quanh, khoảng cách tụt hậu của ta ngày càng rộng thêm. Ví dụ:
năm 1986 GDP p.c. (GDP tính theo đầu người) của Trung Quốc gấp đôi của nước ta,
năm nay cao gấp trên 3 lần; khoảng cách lúc ấy (1986) GDP p.c.Trung Quốc cao
hơn nước ta ước chừng <+200 USD, nhưng khoảng cách này hiện nay là <+4000
USD; so với các nước đi trước ta trong ASEAN cũng cho thấy mối tương quan như
vậy. Nghĩa là 3 thập kỷ vừa qua, càng chạy đua ta càng tụt hậu.
Điều đặc biệt đáng lo
ngại là sau 3 thập kỷ phát triển (kể từ 1986), kinh tế nước ta đã tận dụng hết
(đến mức cạn kiệt) mọi yếu tố nội/ngoại có được cho phát triển theo
chiều rộng, song vẫn chưa tạo ra được nền tảng kinh tế vững chắc để đi vào
thời kỳphát triển theo chiều sâu. Cho đến ngày hôm nay, nước ta mới chỉ
tạo ra được mộtnền kinh tế gia công. Nói nôm na, đấy là một nền kinh tế
chỉ bán đi được những thứ ta tự có: lao động rẻ, tài nguyên, đất
đai, môi trường, vị trí địa lý… Cho đến hôm nay chưa đi vào được phát triển một
nền kinh tế bán các sản phẩm ta tự làm ra – với
nghĩa có hàm lượng cao về trí tuệ và công nghệ; bởi vì còn thiếu nghiêm trọng
những điều kiện tiên quyết cho thời kỳ phát triển mới này trên những phương
diện: chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục, thể chế chính trị quốc
gia, thể chế kinh tế thị trường thực thụ, lực lượng doanh nghiệp, kết cấu hạ
tầng vất chất kỹ thuật… Kinh tế đã đi hết đoạn đường phát triển theo chiều
rộng, nhưng hôm nay đang lâm vào khủng hoảng cơ cấu trầm trọng, nên vừa bế tắc
(cái bẫy “nước có thu nhập trung bình – thấp”), và vừa chưa chuẩn bị được những
điều kiện phải có cho việc chuyển nền kinh tế vào thời kỳ phát triển theo chiều
sâu.
Còn 6 năm nữa, năm 2020,
nước ta phải trở thành nước công nghiệp, hoặc là “cơ bản là nước công nghiệp
theo hướng hiện đại” (một khái niệm rất “cao-su” và rất thiếu trách nhiệm với
đất nước) – như đã ghi trong nhiều nghị quyết của đảng, song mục tiêu này không
thể hoàn thành được, vì trình độ phát triển nền kinh tế còn ở mức quá thấp nhìn
theo bất kỳ tiêu chí nào (tỷ trọng các khu vực kinh tế – economic sectors, tỷ
trọng phân bổ các loại lao động, tỷ trọng kinh tế nông thôn và kinh tế thành
thị…, các chỉ số phát triển tính theo đầu người về kết cấu hạ tầng vật chất
& kỹ thuật, vân vân..; riêng chỉ số bằng thạc sỹ, tiến sỹ tính theo đầu
người và trong bộ máy quyền lực, nước ta vượt xa Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều
nước phát triển khác). Đặc biệt nghiêm trọng là nước ta không có một thể chế
chính trị quốc gia phù hợp cho một nước công nghiệp hoá, chính điều này trước
sau vẫn chặn đứng khả năng nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp. Điều cần
lưu ý ở đây, sau 3 thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá (chỉ tính từ 1986), nước
ta huy động được một nguồn lực nội và ngoại nhiều gấp hơn 2 lần của Hàn quốc
cho 3 thập kỷ công nghiệp hoá của họ. Song sau 3 thập kỷ này, Hàn Quốc hoàn
thành được nhiệm vụ công nghiệp hoá; nhưng nước ta không hoàn thành được nhiệm
vụ này, lại rơi quá sớm vào quá trình giải công nghiệp hoá, và hôm nay vẫn là
một nền kinh tế gia công đang bế tắc vì khủng hoảng cơ cấu trầm trọng.
Nói khái quát, nước ta
đang có một nền kinh tế “đắt”, “rất đắt” nhìn theo hiệu quả kinh tế trên mọi
phương diện: chỉ số ICOR cao nhất trong ku vực, tỷ suất lợi nhuận rất thấp, mức
độ tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu trên một sản phẩm thuộc loại cao nhất ĐNÁ
và năng suất lao động thuộc loại thấp nhất… Ngoại trừ một số ít ngành đặc thù
trong lắp ráp và gia công, nhìn chung công nghệ trong công nghiệp nước ta chủ
yếu thuộc thế hệ 3 hoặc 4 (phần lớn là mới xây lắp dưới dạng EPC từ Trung
Quốc). Tham nhũng rất trầm trọng, song lãng phí – nhất là lãng phí do những
quyết định kinh tế sai lầm, những dự án treo, những quy hoạch phá sản ở khắp cả
nước… – còn trầm trọng hơn nhiều.
Tựu trung là do đã theo
đuổi một chiến lược phát triển sai lầm [2] trong một thể chế chính trị bất cập.
Nổi cộm là các vấn đề:
(1) Công nghiệp rất chắp
vá và chưa định hình được nước ta sẽ là một nước công nghiệp gì nếu thu hẹp dần
công nghiệp gia công (đang rất thiếu công nghiệp phụ trợ); có lẽ phải nói công
nghiệp nước ta dựa vào lợi ích của doanh nghiệp nhà nước (chứ không phải của
quốc gia) và dựa vào tranh thủ được FDI như thế nào thì phát triển thế nấy –
nghĩa là rất tự phát, duy ý chí và do bên ngoài chi phối là chính, rất bị động,
khó mà nói phát triển theo một chiến lược rõ nét hay nhất quán nào của ta, lại
thay đổi theo từng khoá đại hội đảng (tư duy nhiệm kỳ). Cần coi đây là một xu
thế phát triển nguy hiểm, hiện tại đã bế tắc, hứa hẹn sẽ đổ vỡ trầm trọng trong
tương lai không xa nếu không uốn nắn kịp thời, và nếu không tìm ra được một
chiến lược công nghiệp hoá đúng đắn được thực hiện trong một thể chế chính trị
phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá.
(2) Nông nghiệp là vấn
đề rất nhậy cảm ở nước ta trên nhiều phương diện, nhưng đang bế tắc nghiêm
trọng về mọi phương diện, chủ yếu do sai lầm về chính sách đất đai, thất bại
trong quá trình công nghiệp hoá / đô thị hoá, thất bại trong phát triển hay
trong nhiệm vụ công nghiệp hoá nông nghiệp giữa lúc kinh tế cả nước đã hội nhập
vào quá trình toàn cầu hoá như ngày nay… Mặc dù có vị thế nhất định trong
một số sản phẩm trên thị trường nông phẩm thế giới, nông nghiệp nước ta còn
đứng rất xa yêu cầu là một nền nông nghiệp tiến dần lên hiện đại của một quốc
gia đang trong quá trình công nghiệp hoá. Thậm chí còn phải nói, một nền nông
nghiệp như hiện tại tự nó cũng sẽ chặn đứng khả năng nước ta trở thành nước
công nghiệp (trong khi đó Hàn Quốc, Đài Loan trong vòng 2 thập kỷ đầu tiên của
công nghiệp hoá đã giải quyết được vấn đề phát triển nông nghiệp đồng hành với
quá trình công nghiệp hoá, hiện nay ta đang “học” tam nông của
Trung Quốc, nhưng?..);
(3) Khu vực dịch vụ phát
triển khả quan hơn (trong đó nổi bật là du lịch, viễn thông, hàng không…), song
cũng đã hết đà phát triển theo chiều rộng; đất nước chưa có được nguồn nhân lực
có chất lượng, thể chế nhà nước thích hợp và kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật
tương ứng để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khu vực dịch vụ chủ yếu
mới chỉ phát triển trong một số ngành, trong khi đó hầu như chưa đi vào được
rất nhiều ngành nghề quan trọng khác của dịch vụ mà điều kiện địa lý tự nhiên
và địa lý kinh tế/chính trị của nước ta cho phép (ví dụ, có thể phân tích khu
vực dịch vụ của nền kinh tế Singapore để thấy rõ những ngành kinh tế nào của
dịch vụ nước ta chưa đụng chạm tới). [Nhân đây xin nói ngay: Cần loại bỏ mong
muốn bệnh hoạn của một số người nào đó muốn phát triền casinos ở nước ta, bởi
lẽ tình trạng tha hoá hiện tại trong xã hội nước ta đã vượt quá xa mức có thể
kiểm soát được.]
(4) Nền tài chính quốc
gia và hệ thống ngân hàng của đất nước rất mong manh, nợ nần nhiều – trong đó
tỷ lệ nợ xấu rất cao, tính công khai minh bạch và năng lực quản trị rất thấp.
Sự can thiệp của chính trị (bao gồm cả nhóm lợi ích) ở mức nguy hiểm, có nhiều
đối phó cục bộ (như lãi suất, thuế suất, giá vàng, trái phiếu, đáo nợ…) tuy có
lúc đem lại kết quả tạm thời, song chung cuộc đang tích tụ những nguy cơ đổ vỡ
nguy hiểm. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là nền tài chính quốc gia và hệ thống
ngân hàng của đất nước tự nó đã góp phần quan trọng vào những cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn của đất nước, không hoàn thành được nhiệm vụ chính trị số một của
nó là: Huy động và phân bổ tối ưu mọi nguồn lực cho sự phát triển năng động và
bền vững của đất nước.
(5) Thất bại lớn nhất
của 40 năm qua là đã không xây dựng nên được một thể chế chính trị của nhà nước
pháp quyền dân chủ mang lại độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân như đã ghi
trong tiêu chí quốc gia [3] và giải phóng tiềm năng phát triển của đất nước,
nhiều quyền cơ bản của công dân và quyền con người bị ngăn cấm hoặc xâm phạm
nghiêm trọng. Trong thất bại này cần đặc biệt nêu lên thảm bại nghiêm trọng của
nền giáo dục nước nhà đang để lại những hậu quả rất lâu dài cho đất nước. Sau
40 năm phát triển, đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện (kinh tế –
chính trị – văn hoá – xã hội), bị lệ thuộc nguy hiểm vào Trung Quốc, độc lập
chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bi uy hiếp hơn bao giờ hết kể từ sau
30-04-1975. Nghiêm trọng hơn nữa: Sau 4 thập kỷ độc lập thống nhất, phải chăng
đất nước chúng ta hiện đang lâm vào tình trạng mất phương hướng phát triển giữa
lúc tình hình khu vực và thế giới đang có nhiều thách thức nặng nề, và thậm chí
trở nên nguy hiểm hơn trước?
II. Những
khuyết tật lớn trong kinh tế thị trường nước ta
Trước hết về quan niệm,
quan sát sự phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới, tôi xin rút ra
những điều dưới đây về kinh tế thị trường.
Tinh thần cốt lõi của
kinh tế thị trường là hình thành một quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn
dắt của những lực đẩy được tạo ra từ mối quan hệ qua lại giữa cầu và cung trên
thị trường.
Cầu và cung ở đây cần
được hiểu là những đòi hỏi trong đời sống hướng tới một sự phát triển mới, cần
đặt vấn đề như vậy để luôn luôn chủ động tránh những khuynh hướng phát triển
hoang dã hoặc thiên lệch nguy hiểm.
Đối với cả cầu và cung,
thị trường luôn luôn có thể làm được chức năng điều tiết ở mức độ nhất định,
được đặt cho cái tên là “bàn tay vô hình” (Adam Smith), bởi vì nó làm
những việc khó thấy được liên quan đến điều tiết nền kinh tế (yếu tố 1).
Song vì khả năng của
“bàn tay vô hình” là hữu hạn, mà cuộc sống là vô hạn, do đó kinh tế thị trường
còn phải cần đến “bàn tay bà đỡ” – thường là và trước hết là thuộc về chức năng
của nhà nước. Xã hội càng phát triển, ngày càng có thêm nhiều yếu tố khác tham
gia tích cực vào chức năng của “bàn tay bà đỡ” (yếu tố 2).
Điều thiết yếu là bàn
tay vô hình và bàn tay bà đỡ đều phải làm đúng việc của mình với hiệu quả cao
nhất. Vì lẽ này cả hai đều phải được một bộ não mẫn tiệp điều hành, có thể xem
đây là điều kiện quyết định nhất. Bộ não ấy chính là một thể chế chính trị đáp
ứng được đòi hỏi phát triển của quốc gia, phát huy được vai trò tích cực của
giới doanh nhân (bao gồm các doanh nghiệp), phát triển được một xã hội dân sự
năng động, luôn luôn cổ vũ và dẫn dắt được quốc gia giành lấy những bước phát
triển mới (yếu tố 3).
Nêu lên những điều vừa
trình bầy trên, nhằm mục đích nhấn mạnh ngay từ đầu: Nền kinh tế thị trường
hoàn chỉnh nhất thiết phải bao gồm đầy đủ cả 3 yếu tố (1) bàn tay vô hình, (2)
bàn tay bà đỡ, (3) thể chế chính trị; tất cả phải hoạt động ở trạng thái tối ưu
cho phép – trong đó thể chế chính trị là điều kiện tiên quyết số một. Đây cũng
là 3 tiêu chí có thể dựa vào để đánh giá thực trạng kinh tế thị trường nước ta
hiện nay. Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta cũng có nghĩa phải bàn
về phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố cấu thành này của kinh tế thị trường.
Dưới đây xin nêu lên một
số vấn đề nóng nhất.
II.1. Sự lũng đoạn của
quyền lực và nhóm lợi ich
Bài 4A “Bàn về cải cách thể chế chính
trị” đã cố gắng trình
bầy sự lũng đoạn của quyền lực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói
chung, trong đó vấn đề nghiêm trọng số 1 là tình trạng “đảng hoá” toàn bộ
đời sống đất nước. Tại đây xin nêu thêm một số khía cạnh liên quan đến kinh tế
thị trường.
Thể chế chính trị ở nước
ta với đặc trưng đảng giữ vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối như đang diễn
ra, về bản chất mâu thuẫn như nước với lửa đối với kinh tế thị trường. Chính
đây là nguyên nhân gốc khiến cho kinh tế thị trường ở nước ta biến dạng nghiêm
trọng, bị điều hành và lũng đoạn bởi (a) quyền lực đảng, (b) chủ nghĩa tư bản
thân quen và chủ nghĩa tư bản hoang dã, (c) sự chi phối của lobby từ bên ngoài
– đặc biệt là quyền lực mềm Trung Quốc.
Thực hiện kinh tế thị
trường là đòi hỏi bất khả kháng đối với nước ta kể từ bắt đầu đổi mới 1986, đến
nay là 3 thập kỷ. Nước ta đã tham gia đầy đủ các thể chế kinh tế quốc tế và khu
vực (WTO, WB, IMF, ADB, các FTAs song phương và đa phương, vân vân…), nhờ đó
kinh tế thị trường ở nước ta đã đạt được những bước phát triển rất quan trọng,
GDP p.c. từ 200 USD nay đạt 1350 USD… Tuy nhiên, nguyên nhân thể chế chính trị
(nguyên nhân gốc) nêu trên đã một mặt làm cho không ít những tiến bộ đạt được
này đều ở trong tình trạng dang dở, mặt khác chỉ làm biến tướng để tăng thêm độ
nguy hiểm chứ không khắc phục được sự lũng đoạn nêu trên ( của 3 nhóm a, b, c).
Có lẽ chính thực tế này giải thích hiện tượng: Tại sao kinh tế nước ta càng
phát triển, càng bị xé lẻ thành các “tiểu vương quốc” theo lợi ích (các nền
kinh tế GDP tỉnh, các nền kinh tế tập đoàn nhà nước, kinh tế đảng, kinh tế quân
đội, kinh tế công an…) càng phát sinh nhiều ách tắc trong kinh tế và nhiều bất
công trong xã hội, môi trường càng bị huỷ hoại nghiêm trọng, hầu hết các chiến
lược kinh tế đều thất bại, tội ác kinh tế ngày càng nguy hiểm về quy mô và tinh
vi về thủ đoạn thực hiện, phát triển hầu như cướp mất cơ hội của tương lai
(nghĩa là để quá nhiều gánh nặng cho tương lai), và hiện nay kinh tế đất nước
đang ở trạng thái nguy hiểm chưa có lối ra.
Thật khó mà nói được là
nước ta có một nền kinh tế hài hoà thống nhất với đúng nghĩa, vì bên trong chứa
đựng quá nhiều nét cát cứ, “tiểu vương quốc” và sự chùng lặp… Có thể viết nhiều
quyển sách mổ xẻ thực trạng này của đất nước, song hiện nay việc này bị kiêng
cấm, nhưng trước sau sẽ phải làm để chữa bệnh. Nói khái quát: Đảng hoá, nền
kinh tế GDP tỉnh, tập đoàn kinh tế nhà nước và tư tưởng nhiệm kỳ là những yếu
tố trực tiếp làm nát bét nền kinh tế đất nước, tạo ra môi trường màu mỡ cho sự
can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Chức năng khách quan của
thị trường là phản ánh mối quan hệ cung – cầu tạo điều kiện góp phần quan trọng
cho sự phát triển hài hoà. Nhưng vi phạm điều mang tính quy luật này
của thị trường, sẽ tạo ra đầu cơ, thị trường của đầu cơ, và chung cuộc sẽ chỉ
có được nền kinh tế của những hành vi đầu cơ, với sự phá hoại không thể hình
dung nổi.
Ví dụ, thời bao cấp
trước 1986, vì phá quy luật kinh tế thị trường, nên đã xảy ra hiện tượng một
cái xe đạp Peugeot có thể đổi lấy một căn nhà, một điều phi lý không thể phi lý
hơn trên thế gian này.
Còn hiện tại: Xâm phạm
quy luật của kinh tế thị trường đã dẫn đến hệ quả cả một đất nước năng động
rừng vàng biển bạc… nhưng hôm nay rơi tỏm vào nền kinh tế của những người đi
làm thuê và đất nước trở thành đất nước cho thuê.
Dưới đây là một số nét
minh hoạ.
- Sáp nhập Hà Tây vào
thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình của kinh tế đầu cơ, là một trong những
nguyên nhân trực tiếp tạo ra bong bóng kinh hoàng của thị trường bất động sản,
mặc dù quyết định này bị cả nước bác bỏ quyết liệt (trong đó có Võ Nguyên Giáp,
Võ Văn Kiệt…), nhưng lợi ích của 3 nhóm “a, b, c” đã thắng. Cả nước có nhiều
cái bong bóng như thế và đã dẫn tới giá nhà đất của Việt Nam cao nhất thế giới,
cản trở sự phát triển của đất nước. Song cũng chính loại những quyết định theo
“lợi ích 3 nhóm a, b, c” như thế đã trực tiếp làm nổ các bong bóng của thị
trường địa ốc, khiến kinh tế cả nước rơi sâu thêm nữa vào khủng hoảng cơ cấu
với những thiệt hại không thể lường hết được.
- Kinh tế bauxite Tây
Nguyên, kinh tế KCN Vũng Áng, nạn cho thuê rừng… là những ví dụ điển hình của
kinh tế lobby, của kinh tế bán rẻ lợi ích quốc gia, của kinh tế đất nước cho
thuê, đẩy đất nước đi sâu vào cơ cấu kinh tế lạc hậu và nguy cơ trở thành bãi
thải công nghiệp cho những nước khác, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích và an ninh
quốc gia.
- Phớt lờ những tín hiệu
của thị trường, kinh tế tập đoàn nhà nước TKV (than và khoáng sản Việt Nam) lẽ
ra phải biết mình hết lý do tồn tại từ lâu rồi nhưng vẫn cố đấm ăn xôi; hậu quả
là mỏ hết và đã phải nhập khẩu than ngược trở lại rồi, hầu như toàn bộ vốn
thiết bị của tập đoàn và hàng vạn lao động của nó rơi vào thất nghiệp, tập đoàn
lấy duy trì kinh doanh/liên doanh trái nghề để tồn tại. Nhưng tập đoàn chỉ có
đặc quyền nà nước bao cấp (vốn, quyền kinh doanh, ảnh hưởng chính trị…) và
không có nghề, do đó tất yếu gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội: Chết mà
không chôn được, nên kinh lắm! Cả nước có không ít tập đoàn nhà nước, nông
trường quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh… chết rồi mà không chôn được.
- Quản lý nhà nước bất
cập và chính sách đất đai hiện hành dẫn tới hệ quả giá thành xây dựng 1km đường
cao tốc ở Việt Nam đắt khoảng 5 – 10 lần so với Thái Lan, so với các nước phát
triển khác.., thời gian thi công cũng dài hơn nhiều lần như thế, chất lượng
cũng thấp hơn nhiều lần như thế…
- Nền kinh tế có quá
nhều hành vi đầu cơ lũng đoạn, nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng FDI
thu hút được. Vì thế khối lượng FDI thu hút được tuy không nhỏ, nhưng không đẩy
nhanh được việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Thu
hút FDI như hiện nay có nguy cơ kéo dài sự tụt hậu của đất nước… Đúng là thị
trường Việt Nam vẫn đang rất hấp dẫn đối với FDI, vì là quốc gia có nhiều tiềm
năng lớn và giữ vị thế quan trọng trong khu vực trên cả hai phương
diện kinh tế và chính trị. Tuy nhiên thể chế chính trị và thể chế kinh tế của
đất nước hiện nay là rào cản lớn trong việc thu hút FDI có chất lượng. Đã đến
lúc phải chấm dứt xu thế tranh thủ FDI với bất kỳ giá nào như đã diễn ra trong
3 thập kỷ vừa qua.
- Vân vân…
II.2. Bàn tay bà đỡ còn
nhiều yếu kém
Nhìn chung nhà nước làm
không tốt vai trò “bà đỡ”; cụ thể là vừa không làm đúng chức năng của mình, vừa
can thiệp quá sâu vào kinh tế, khiến cho đòi hỏi cải thể chế kinh tế ngày
càng nóng bỏng.
Những năm gần đây nhiều
công trình nghiên cứu đã đi tới kết luận:
(a) Môi trường kinh
doanh bị nạn quan liêu và tham nhũng lũng đoạn nghiêm trọng, trong đó nổi bật
là: quyền kinh doanh và quyền sở hữu bị xâm phạm, luật thường bị lách hoặc thay
thế bằng “làm luật” và lobby, hiện tượng “bộ chủ quản” và nhiều hình thức “chủ
quản” khác đang hồi sinh khiến thị trường bị các hoạt động theo “lãnh địa” của
các nhóm lợi ích chi phối;
(b) Thiếu vai trò trung
gian hữu hiệu của các tổ chức phục vụ các doanh nghiệp trên các phương diện tài
chính, luật pháp và kỹ thuật.., do đó tăng thêm giá thành và nguy cơ rủi ro
trong sản xuất và kinh doanh – nhất là của các xí nghiệp nhỏ và vừa;
(c) Yếu kém của thể chế
chính trị và thể chế kinh tế dẫn tới làm suy giảm nghiêm trọng khả năng hoạt
động và tính hiệu quả của các công cụ hướng dẫn hay điều tiết thị trường, ví dụ
như lãi suất, tỷ giá, các khuyến khích, các sắc thuế, các chính sách điều tiết
khác, vân vân..;
(d) Cùng với những yếu
kém của thị trường, hệ thống thống kê và thông tin kinh tế không chuẩn xác
(hoặc cố ý che giấu hay tô hồng), làm cho những tín hiệu của thị trường giảm
hoặc mất độ tin cậy, gây nguy hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hệ điều
hành, gia tăng các yếu tố đầu cơ;
(e) Do những yếu kém
nhiều mặt của kinh tế thị trường, ước lượng Việt Nam chỉ tận dụng được khoảng
30% các hiệp định khung song phương, đa phương và quốc tế đã ký kết, nên không
cải thiện được bao nhiêu năng lực cạnh tranh, chưa tham gia sâu được vào các
chuỗi sản phẩm mặc dù nền kinh tế nước ta có tỷ trọng xuất khẩu rất cao, thậm
chí có nhiều thua thiệt ngay cả trên thị trường nội địa vì không tân dụng được
những điều đã ký kết, vân vân… Mặt khác, hội nhập sâu rộng mà không nâng cao
được năng lực cạnh tranh đã khiến nước ta rơi vào thế lệ thuộc ngày càng nặng nề
vào bên ngoài về vốn (ODA, FDI, các khoản vay khác), nguồn cung đầu vào – đặc
biệt từ Trung Quốc (tổng thầu các dự án, các sản phẩm trung gian), và một số
lĩnh vực khác (FDI chi phối 65% xuất khẩu và gần 50% công nghiệp).
(f) Khu vực kinh tế quốc
doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước, chiếm tới trên 60% vốn của toàn xã
hội, hiệu quả kinh tế thấp, nợ nần lớn, sau nhiều năm cải cách đi cải cách lại
khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay chiếm vai trò chủ đạo trong nợ của quốc gia
và là nơi có nhiều ung nhọt nguy hiểm cho cả nền kinh tế; đặc biệt nghiêm trọng
là hiện tượng kinh doanh/liên doanh trái nghề và hiện tượng sở hữu chéo của các
tập đoàn nhà nước một mặt vô hiệu hoá đáng kể khả năng quản lý của nhà nước và
hệ thống luật pháp, mặt khác chèn ép nguy hiểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa;
(g) Chưa tạo ra được một
thị trường phục vụ tốt nông nghiệp trên cả 2 phương diện đầu vào và đầu ra,
khiến cho nông dân bị thiệt thòi nghiêm trọng và chịu đựng nhiều bất công, đồng
thời hạn chế khả năng cải tiến hay hiện đại hoá nông nghiệp; sau gần hai thập
kỷ tham gia WTO và nhiều hiệp định khung khác nước ta vẫn lạc hậu và phải chịu
nhiều thua thiệt lớn trong xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực như
gạo, cà-phê, cao su, thuỷ sản, tiêu…
(i) Còn thiếu nhiều
chính sách và biện pháp thiết thực tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng và vai trò của giới doanh nhân
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trên các phương diện:
nâng cao năng lực kinh doanh, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải tiến
các mô hình doanh nghiêp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đỡ đầu các sản phẩm mới,
tham gia xây dựng các chính sách vỹ mô và vi mô, thể chế, chiến lược phát
triển… (còn thiếu những quyết sách làm cho doanh nhân và các nhà công nghệ trở
thành những người trực tiếp thúc đẩy và mở mang kinh tế; xin lưu ý: doanh nhân
mới là người trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và làm giầu cho đất nước);
(j) Trước sau không thể
duy trì vai trò ngân hàng nhà nước với tính cách như là một công cụ của quyền
lực như hiện nay (nguyên nhân gốc của lạm phát và của tình hình chi tiêu cũng
như phân bổ nguồn lực không thể kiểm soát được). Dứt khoát phải sớm tính đến
vai trò độc lập của ngân hàng nhà nước như một công cụ của nhà nước pháp quyền,
phải hoạt động theo hiến pháp, chỉ chịu sự giám sát duy nhất của hiến pháp và
quốc hội, qua đó trở thành công cụ tài chính quốc gia duy nhất, không thuộc bất
kỳ đảng phái hay quyền lực chính trị nào, nhằm đạt hiệu quả tốt nhất đối với toàn
bộ nền kinh tế – đây là một trong những điều kiện tiên quyết không thể thiếu
của nhà nước pháp quyền cũng như nền kinh tế thị trường. Cùng với vai trò độc
lập này của ngân hàng nhà nước là vai trò độc lập của hệ thống thống kê nhất
thiết phải tôn trọng, cùng với cùng một lý do như ngân hàng nhà nước;
(…)
Tựu trung có thể nhận
xét, vai trò “bà đỡ” của nhà nước còn đứng khá xa đòi hỏi mang lại cho đất nước
có một nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bằng sự vận động của quy luật cung
– cầu và sự dẫn dắt của một thể chế chính trị khuyến khích sự phát triển đất
nước bằng những chính sách vỹ mô đúng đắn. Những điều trình bầy trong phần II
này cho thấy đòi hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách thể chế chính trị là trọng
tâm số một, song rõ ràng phải luôn luôn gắn với cải cách thể chế kinh tế để duy
trì được tình hình: Cải cách thể chế chính trị phải gắn liền với những phát
triển đạt được trong kinh tế, lấy thành quả này thúc đẩy cải cách thể chế chính
trị. Kinh nghiệm Myanmar khác hẳn với thực tiễn cải cách ở Liên Xô cuối
những năm 1980 ở chỗ từng bước tiến bộ trong cải cách chính trị ở Myanmar đều
được hậu thuẫn bằng những tiến bộ cụ thể trong cải cách kinh tế, mặc dù nội
tình Myamar khó khăn hơn Liên Xô hồi đó nhiều.
III. Một
số gợi ý
Sự thật kinh tế đất nước
đang ở trong một giai đoạn có nhiều khó khăn nghiêm trọng của khủng hoảng cơ
cấu kinh tế còn kéo dài, mặc dù hai năm gần đây bắt đầu có dấu hiệu phục hồi.
Có 4 vấn đề lớn nóng bỏng trong những năm tới nhất thiết phải giải quyết xong
một cách cơ bản vào khoảng năm 2020:
- Cơ cấu lại nền kinh tế
với mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào bên ngoài, nâng cao hiệu quả và năng lực
cạnh tranh của các khu vực kinh tế trong nước, và phát triển sản phẩm mới,
chuyển đổi sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu;
- cơ cấu lại thị trường
tài chính tiền tệ để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và kiểm soát được vấn
đề nợ;
- cơ cấu lại khu vực
kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước để trực tiếp góp phần
vào đổi mới cơ cấu kinh tế;
- từng bước xử lý vấn đề
nợ xấu đang trở nên nguy hiểm.
Cả 4 vấn đề nêu trên đều
mang tính cơ cấu nên khó, vừa đòi hỏi nhiều nguồn lực, vừa đòi hỏi nhiều thời
gian, không thể đồng loạt giải quyết. Thiết kế các giải pháp từng bước cho từng
vấn đề lớn này, và thực thi hài hoà với việc giải quyết từng bước cả 4 vấn đề
lớn này như thế nào… là những bài toán khó. Càng không thể tạo ra tăng trưởng
cao trong những năm tới này; tăng trưởng như hiện nay không có chất lượng mong
muốn và không tạo ra phát triển mới sẽ chỉ có nghĩa làm cho khủng hoảng sâu sắc
hơn. Chưa nói đến sắp tới nếu thiếu những biện pháp thắt lưng buộc bụng
gắt gao và có hiệu quả sẽ khó tránh đổ vỡ tiếp – trước hết vì nợ nần và vì
những mất cân đối lớn. Chưa nói đến những diễn biến đột xuất từ các vấn đề an
ninh quốc phòng (ví dụ: Biển Đông)[4], các vấn đề từ thiên tai, dịch bệnh nếu
xảy ra… Đây là sự thật nghiêm khắc, cần nói rõ cho cả nước biết, và cả
nước – trước hết là ĐCSVN – phải thẳng thắn đối mặt.
Cái khó là cả 4 vấn đề
nêu trên đều rất nóng, luôn luôn đẻ ra nhưng hệ quả khó trong quá trình xử lý.
Ví dụ cơ cấu lại nền kinh tế, chắc chắn phải loại bỏ một số sản phẩm (cũng có
nghĩa là phải đóng cửa một số loại doanh nghiệp nào đó, giữa lúc từ vài năm gần
đây đã có tới trên 200.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đóng cửa); trong khi đó
vô cùng thiếu mọi loại nguồn lực cho phát triển các sản phẩm công nghiệp phụ
trợ mà nền công nghiệp hiện có đòi hỏi. Việc cải cách các doanh nghiệp
quốc doanh – trước hết là các tập đoàn kinh tế nhà nước – cũng đặt ra những khó
khăn như vậy: thất nghiệp tăng, doanh số giảm, nhà nước mất thuế… Nông nghiệp
đang đặt ra nhiều bài toán rất khó và nhạy cảm, với khoảng trên 50% lao động cả
nước làm nông nghiệp, với bình quân ruộng đất canh tác 0,3 ha/1 lao động, luật
đất đai và thể chế chính trị hiện tại hoàn toàn bất cập cho việc đi lên một nền
nông nghiệp của một quốc gia công nghiệp… Cải cách thị trường tài chính và hệ
thống ngân hàng cũng luôn luôn đặt ra nhiều vấn đề rất nhạy cảm. Lấy tiền ở đâu
tăng cường tiềm lực quốc phòng đang vô cùng bức thiết lúc này? Đời sống những
người làm công ăn lương, của các bộ phận dân cư nghèo ở nông thôn và thành thị,
ở các vùng sâu vùng xa… đang vô cùng nhức nhối… Công ăn việc làm của những
người đến tuổi lao động? Hàng chục vạn lao động đang đi làm thuê ở nước ngoài,
hàng vạn phụ nữ phải đi lấy chồng nước ngoài vì nghèo đói!.. Có thể nói, đất
nước có gì có thể bán được hầu như đã bán hết rồi, từ tài nguyên, đến môi
trường, đất đai, lao động rẻ, vị trí địa lý… Song nghèo hèn và bế tắc vẫn
hoàn nghèo hèn và bế tắc… Hình như từ lâu đã bắt đầu bán cả linh hồn nữa,
vì đang cam chịu số phận bị đè nén, èo uột, leo dây và lệ thuộc… 40 năm độc lập
rồi vẫn chưa cai sữa được ODA và các thứ đi xin khác! Không
biết niềm tự hào dân tộc còn lại là bao!?.. … Chưa nói đến thực tế đất nước
đang có nhiều vấn đề nóng, rất nóng khác, trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc
sống: giáo dục, y tế, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, tệ nạn tham
nhũng, chênh lệch giầu nghèo và bất công lớn quá, sự tha hoá trong xã hội từ
những nguyên nhân kinh tế… Một sản phẩm mới ra đời trong quá trình đổi mới cơ
cấu kinh tế cũng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định mới định hình
được… Một ngành kinh tế mới càng khó hơn, trong khi nguồn nhân lực và thể
chế chính trị gần như bất cập, rồi lại còn phải chuyển toàn bộ nền kinh tế đất
nước đi vào một thời kỳ phát triển mới như thế nào đây?!.. Còn làm tiếp như
hiện nay thì đi vào ngõ cụt!.. Và sự thật là bộ não lãnh đạo của đảng với cái
“think tank” rất đồ sộ đang có trong tay lúc này vẫn không sao mách bảo được
cho đất nước nên làm sản phẩm gì, làm như thế nào, rồi chuyển đổi cả nền kinh
tế đất nước sang thời kỳ phát triển mới ra sao, cái định hướng xã hội chủ nghĩa
không giúp được những việc cam go này… Vân vân… Thực tế của bức tranh kinh tế
đầy thách thức này là sản phẩm kết tụ lại của cả một quá trình chế độ chính trị
do ĐCSVN nắm quyền điều hành toàn diện và tuyệt đối dẫn dắt đất nước theo con
đường “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” từ 40 năm nay. Thực tế của bức
tranh kinh tế này không phải là một sản phẩm nhất thời hoặc của riêng một người
hay một nhóm người nào, cũng không phải là sản phẩm của một vài khoá nhiệm kỳ
đại hội nào, mà là sản phẩm của ĐCSVN nắm quyền cai trị đất nước trong 40 năm
đầu tiên độc lập thống nhất. Xin nhắc lại ở đây để không bao giờ quên trong khi
so sánh và đánh giá chính đất nước mình 40 năm qua: Chiến tranh Triều Tiên kết
thúc 1953, Hàn Quốc bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá vào khoảng năm 1960, với
GDP p. c. lúc ấy là 81 USD; năm 1990 trở thành NIC (nước mới công nghiệp hoá).
Từ minh hoạ đôi điều nói
trên để đi đến kết luận dứt khoát: Nguy cơ bất cập của hệ thống chính trị nói
chung và của thể chế kinh tế hiện hành nói triêng trước những vấn đề kinh tế
phải giải quyết trong những năm của khoá đại hội XII tới rất lớn. Mọi thứ kinh
tế bánh vẽ để trấn an, hoặc sự kiên định duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa
để bảo vệ hệ thống chính trị toàn trị như đang tồn tại sẽ chỉ đem thêm thảm hoạ
mới cho nhân dân và giúp Trung Quốc bá quyền xiết chặt hơn nữa cái tròng lệ
thuộc trên cổ đất nước ta mà thôi. Tất cả càng nói lên tính quyết liệt của một
thời kỳ cải cách đang đặt ra phía trước cho đất nước, có lẽ quyết liệt hơn và
phức tạp hơn rất nhiều và cũng nhạy cảm hơn rất nhiều so với lúc phải tiến hành
đổi mới thời kỳ 1986, vì tình hình khu vực và quốc tế ngày nay hoàn toàn khác,
sự lệ thuộc của đất nước lại quá nguy hiểm…
Thấy và nghĩ gì
nói vậy, còn phiến diện lắm, cho nên ngoài việc nêu lên những nhận xét trên của
cá nhân, tôi xin phép không bàn về các giải pháp, xin để cho các chuyên gia
kinh tế làm việc này tốt hơn. Trong bài này, tôi xin gửi gắm nỗi mong mỏi của
mình là đảng – trước hết là Bộ Chính trị và Tổng bí thư – phải có ý chí tiến
hành tổng kết trung thực tình hình kinh tế đất nước; tổng kết được rồi thì phải
nói thực với toàn đảng và với cả nước, để chắt lọc mọi trí tuệ, mọi nỗ lực, đưa
kinh tế nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng cơ cấu trầm trọng hiện nay.
Thiết
nghĩ đất nước cần có một chiến lược kinh tế,sao cho đến năm 2020 khắc phục
xong khủng hoảng cơ cấu kinh tế hiện nay, phát triển được những điều kiện kết
cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần thiết cho bước phát triển mới, xây dựng được
nguồn nhân lực và thể chế kinh tế với chất lượng mới; trong những năm tới này
đất nước cũng phải tích luỹ được lực mới, để từ năm 2020 có thể bắt tay vào xây
dựng một nền kinh tế hiện đại hoá đúng với nghĩa phát triển là động lực bền
vững của tăng trưởng kinh tế. Đặt vấn đề như vậy chất lượng, chứ không phải số
lượng, của tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu quyết định – phục vụ nhiệm vụ
trung tâm là phát huy yếu tố con người làm nên sức mạnh quốc gia. Nếu thế
cũng phải cất đi cái khẩu hiệu bánh vẽ “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, càng không thể trút hết mọi tội
lỗi lên cái lá diêu bông: Nguyên nhân của mọi nguyên nhân của tình trạng kinh
tế đất nước hiện nay là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không theo kịp công cuộc đổi mới… – mà lẽ ra phải quyết định vứt bỏ cái lá diêu
bông!
Chỉ có một lối ra khỏi
tình hình nguy hiểm hiện nay để phát triển là: Trí tuệ, dân chủ và ý chí
cứu nước phải là những động lực chính trị của sự nghiệp phát triển kinh tế
trong những năm tới, bắt đầu từ việc đại hội XII quyết định tổ chức lại ĐCSVN
để phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, dấy lên sự tham gia của toàn dân tộc
chuyển đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới năng động và bền vững./.
Hà Nội, tháng 9 – 2014
N.T.
***
[1] Các nước được xếp
loại “nước đang phát triển có thu nhập trung binh” có GDP p.c. trong khung 7000
– 12000 USD, nước ta hiện nay mới đạt khoảng 1350 USD. Để lọt được vào khung
này, nước ta cần khoảng 1 – 2 thập kỷ nữa.
[2] Thật ra rất khó nói
nước ta có chiến lược phát triển kinh tế với đúng nghĩa, nó mang quá nhiều nét
dang dở của tự phát; bởi vì chiến lược được hiểu theo những gì đã được viết ra
trong nghị quyết thường không bao giờ được thực hiện nghiêm túc, hay thay đổi
theo nhiệm kỳ đại hội, bị xé lẻ theo tỉnh hay theo ngành; mỗi tỉnh lại là một
nền kinh tế riêng hoàn chỉnh, được quy hoạch, tính toán riêng cho tỉnh… (cái
gọi là “nền kinh tế GDP tỉnh”). Chiến lược công nghiệp hoá là một chiến lược
tổng thể, song cũng được thay đổi tuỳ tiện qua các khoá đại hội. Chiến lược
kinh tế vùng hầu như chỉ nằm trên giấy, trong khi đó cuộc sống tự nó tạo ra các
liên kết giữa các ngành và các địa phương theo nhu cầu của cuộc sống, không nằm
trong nhị quyết nào cả. Hầu như đến nay chưa có một quy hoạch phát triển kinh
tế nào đứng vững – nhất là quy hoạch phát triển sản phẩm nông nghiệp, khoáng
sản… Vân vân…
[3] Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc.
[4] Riêng đối phó với sự
kiện giàn khoan HD 981 kinh tế đất nước mất khoảng 1% GDP.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày
22-9-14
Nguồn: http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_BanVeHoanThienThiTruong.htm
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.