Thứ
hai 19 Tháng Tám 2013
Việt Nam: Nợ xấu bất động
sản dẫn đến khủng hoảng kinh tế ?
Một công trường xây dựng
ở Hà Nội, 22/05/2011
Reuters
Gần đây báo chí trong
nước đã tỏ ra bất ngờ về tỉ lệ nợ xấu bất động sản, có thể lên đến 33-35% dư nợ
thuộc lãnh vực này. Các con số thống kê của nhiều cơ quan khác nhau đưa ra
chênh lệch cho đến nỗi, dư luận hết sức lo ngại nếu không đánh giá đúng tình
hình, thì không thể nào đưa ra quyết sách đúng đắn, dẫn đến những hậu quả nặng
nề cho đất nước.
RFI Việt ngữ đã trao đổi
với Tiến sĩ Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề trên.
RFI
: Xin chào Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất cảm ơn anh đã vui
lòng dành thì giờ cho RFI Việt ngữ. Anh nhận xét như thế nào về tỉ lệ dư nợ bất
động sản có nhiều con số khác nhau, mà theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG)
thì lên đến 33-35% dư nợ ?
TS
Phạm Chí Dũng :
Con số của UBGSTCQG là một con số bất ngờ và đột biến, tức là đến 33-35%
là nợ xấu trong dư nợ thuộc lĩnh vực bất động sản. Con số này được công bố lần
đầu tiên, phát lộ vào năm 2013. Điểm hết sức đặc biệt là con số của ủy ban này
lại hoàn toàn trái ngược với số báo cáo của Ngân hàng Nhà nước vào tháng 5/2013
chỉ là 5,68%.
Như vậy là, ngay giữa
hai cơ quan quản lý mà độ chênh biệt của hai con số đã lên đến 6 lần. Sự khác
biệt chưa từng thấy này nói lên điều gì? Nó làm cho người ta có cảm giác Việt
Nam đang đứng trước một khúc ngoặt của những vấn đề nhạy cảm kinh tế - chính trị
đang có chiều hướng bắt buộc bị bạch hóa dưới ánh sáng mặt trời.
Những quan chức can đảm
của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đã bạch hóa thế này: dư nợ bất động sản
và và nợ xấu bất động sản thực chất cao hơn nhiều so với số liệu báo cáo của
các tổ chức tín dụng. Và khi một tổ chức của chính phủ phải công bố điều đó,
tức tình hình tài chính – bất động sản đang rất nguy ngập rồi.
Cần nhắc lại, Ủy ban
Giám sát Tài chính Quốc gia cũng đã có một báo cáo rất chi tiết về các ngân
hàng dính dáng đến nợ xấu và nợ xấu bất động sản vào cuối năm 2011. Song khi
đó, con số nợ xấu ở nhiều ngân hàng mới chỉ dừng ở mức 10-15% thôi – như vậy đã
gọi là cao rồi. Tất nhiên, nhiều ngân hàng vẫn cố giấu kín thực chất nợ xấu của
họ. Những gì còn lẩn khuất trong bóng tối vẫn cố thu mình.
Nhưng sau công bố của Ủy
ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã làm cho công luận cùng giới bất động sản
trong nước kinh ngạc và cho là sát thực tế hơn nhiều các cơ quan khác, bầu
không khí số liệu lại trở về thói quen khép miệng của nó. Vào tháng 8/2013, Bộ
Xây dựng lại nêu ra một con số mới về tỉ lệ nợ xấu bất động sản chỉ có 6,5% -
tức là có cao hơn báo cáo của Ngân hàng Nhà nước gần 1%. Rõ ràng, người ta vẫn
quyết tâm phong tỏa số liệu nhằm bưng bít một cuộc khủng hoảng bất động sản –
ngân hàng rất có thể sẽ xảy ra.
RFI
: Năm 1997, Thái
Lan cũng đã bị khủng hoảng tài chính và cũng có nợ xấu như Việt Nam bây giờ. Liệu
Việt Nam có đang tái lập kịch bản của người Thái?
TS
Phạm Chí Dũng : Có
thể. Không khí trái ngược giữa các con số báo cáo và con số thực về nợ xấu ở
Việt Nam rất dễ làm người ta nhớ lại trường hợp Thái Lan năm 1997. Trước khủng
hoảng, tỉ lệ nợ xấu bất động sản tại quốc gia này được báo cáo chỉ có 5%, nhưng
đến khi xảy ra khủng hoảng thì tỉ lệ này đã tăng vọt đến 50%, tức gấp đúng 10 lần.
Chính người Anh đã cung
cấp cho giới điều hành mơ màng của Việt Nam cái minh chứng không hề mơ màng đó.
Vào đầu năm 2013, John Sheehan – thành viên của tổ chức giám định bất động sản
Hoàng gia Anh (FRICS), đã có một chuyến thăm Việt Nam, và đã cung cấp một kinh
nghiệm là tỉ lệ nợ xấu thực bao giờ cũng cao gấp ít nhất 4 lần con số báo
cáo.
Trong thực tế điều hành
và của điều được gọi là “minh bạch hóa” số liệu ở Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu được
báo cáo thường dao động chỉ từ 6-10%. Nhưng vào cuối năm 2011, trong khi giới
chuyên gia bất động sản bắt đầu nói toạc ra rằng có đến 50% nợ bất động sản là
nợ khó đòi hoặc không thể đòi được, thì giới ngân hàng cũng bắt đầu thầm thì về
chuyện có đến phân nửa nợ xấu ở các ngân hàng A, B nào đó là không thể đòi
được.
Có đến hàng chục ví dụ
cho những lời phát ngôn hoặc báo cáo mang tính bất nhất hoặc thiếu trung thực
của các bộ ngành liên quan ở Việt Nam, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, khiến
người dân và giới bình luận kinh tế quốc tế hầu như không thể có nổi một chút
niềm tin bền vững vào cái thực trạng mà người ta gọi là “giả số liệu”.
Người Thái hay người
Philippines trong cùng khu vực Đông Nam Á là những bài học nhãn tiền cho Việt
Nam. Do phủ nhận sự minh bạch trong kiểm soát thị trường, họ đã phải
nhận lãnh tai họa.
RFI
: Việc thiếu minh bạch thì lâu nay Việt
Nam vẫn bị chỉ trích. Không biết là có mối liên hệ nào giữa tính minh bạch ấy
với việc Việt Nam đang chuẩn bị tham gia Hiệp định TPP?
TS
Phạm Chí Dũng : Chắc
chắn là có, vì tính minh bạch là một trong những điều kiện đầu tiên để Việt Nam
có thể tham gia TPP. Nhưng ở Việt Nam thì thái độ thiếu minh bạch đã phải trả
giá. Sự chênh lệch giữa các số liệu của nền kinh tế Việt Nam đã góp một phần
rất ấn tượng làm chậm bước tiến vào vòng chung kết TPP của chính nền kinh tế
quốc gia này.
Chẳng hạn, trong khi số
liệu báo cáo của chính phủ Việt Nam về nợ công quốc gia chỉ là 55%,
thì các phản biện của giới chuyên gia độc lập lại lộ liễu hơn nhiều. Tại Diễn
đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 4/2013 tại Nha Trang, một
số chuyên gia phản biện người Việt ở Ba Lan đã tính toán tỷ lệ nợ công quốc gia
lên đến 95%. Ngay lập tức con số này nhận được sự đồng cảm của khá nhiều
chuyên gia và cả quan chức Việt Nam. Trước đó vào cuối năm 2012, phản biện đối
với báo cáo nợ công của chính phủ, ông Vũ Quang Việt, cựu chuyên viên tài chính
của Liên Hiệp Quốc, đã tính toán về tiêu chí nợ nần này lên đến 106%.
Minh bạch lại là một
trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam được tham dự vào bàn ăn TPP. Cho
dù lộ trình thông qua TPP đối với Việt Nam đã được nước chủ nhà là Hoa Kỳ hứa
hẹn “có thể sớm nhất vào cuối năm 2013”, nhưng giới quan sát quốc tế có lẽ đã
thừa trải nghiệm để hiểu rằng TPP không chỉ gắn với điều kiện minh bạch về thị
trường và cơ chế quản lý kinh tế, mà còn liên hệ mật thiết với các điều kiện về
dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.
Còn trong lĩnh vực bất
động sản, vẫn có thêm những minh họa khác về tính bất nhất. Trong khi những báo
cáo được công bố hầu như liên tục của Bộ Xây dựng chỉ cho thấy con số tồn kho
căn hộ vào khoảng 40.000 căn, thì con số thống kê của một số hãng tư vấn bất
động sản quốc tế có văn phòng ở Việt Nam như CBRE hay Savills lại xác thực hơn
nhiều. Nhìn chung, có thể đang tồn đến 200.000 căn hộ thuộc các phân
khúc, trong đó có đến 70% thuộc về phân khúc cao cấp và trung cấp.
Một số chuyên gia và doanh nhân bất động sản cũng xác nhận có đến chừng đó căn
hộ đang tồn kho ở Việt Nam.
Một lần nữa, tính chênh
lệch của số liệu báo cáo đã lộ diện: con số tồn kho nhà đất thực tế cao gấp 5
lần số báo cáo. Nếu so lại hai con số chênh nhau đến 6 lần về nợ xấu bất động
sản giữa Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia với Ngân hàng Nhà nước thì mọi
chuyện đều rất logic.
Logic đến nỗi mà nếu
cuối năm nay Việt Nam được gia nhập TPP với tính minh bạch tồi tệ như hiện
thời, nhiều người dân và giới bình luận sẽ nhìn rõ một sự phi logic không thể
hiểu nổi.
RFI
: Khi các con số khác biệt quá lớn như vậy thì thị trường bất động sản Việt Nam
thực chất đang trong tình trạng như thế nào?
TS
Phạm Chí Dũng :
Tôi xin nêu một minh họa để đối chứng. Chuyên gia người Anh John Sheehan đã
dành cho thị trường bất động sản Việt Nam một lời bình đặc biệt: “Tôi
chia thị trường thành ba giai đoạn: sau khi xảy ra khủng hoảng gọi là giai đoạn
phủ nhận, thường khoảng 2 năm; giai đoạn xử lý vấn đề nợ xấu mất khoảng 4 năm;
cuối cùng là khi thị trường phục hồi, mất chừng 6 năm. Việt Nam đang ở nấc “phủ
nhận””.
Một cách chính xác, thị
trường Việt Nam đang trong giai đoạn “phủ nhận” với việc người tiêu dùng mất
niềm tin và quay lưng với thị trường. Nếu không vượt qua được hai năm 2013-2014
và không giải quyết được ít nhất một nửa núi hàng tồn kho căn hộ cao cấp và
trung cấp, chưa cần hết giai đoạn phủ nhận sẽ có không biết bao nhiêu đại gia
bất động sản phải chính thức ký vào “bản án tử hình” dành cho mình. Sông
Đà, Vinaconex, Hoàng Anh Gia Lai, Quốc Cường Gia Lai, Phát Đạt…
đều là những cái tên một thời danh giá, nhưng cho đến giờ đều thật khó để hình
dung về thân phận của họ sẽ ra sao nếu thị trường không được “giải cứu”.
Muốn giải phóng núi căn
hộ tồn kho đến 200.000 căn hộ, thị trường bất động sản Việt Nam có thể phải
kiên tâm chờ đợi đến hàng chục năm, nếu quả thực nó muốn chờ và có thể làm được
điều đó.
Nhưng kết quả thời gian
đến hàng chục năm như vậy lại hoàn toàn có thể khiến thị trường… tự sát.
Bởi nửa đầu của năm 2013
đã trôi qua mà hệ số tiêu thụ căn hộ vẫn hầu như không nhích lên được bao
nhiêu. Nếu vào năm 2012 hệ số này chỉ khoảng 5-10% theo thống kê của những hãng
tư vấn bất động sản có uy tín, tình hình trong nửa đầu năm 2013 tuy có chuyển
biến đôi chút song vẫn là quá ít so với những kích thích tố được tung ra từ
phía Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp bất động sản.
Các ngân hàng cũng vì thế
đang rơi vào chính cái bẫy do họ giương ra từ năm 2011. Họ đã bắt các doanh
nghiệp sản xuất và cả nền kinh tế trở thành con tin, nhưng cuối cùng chính họ
cũng không thoát khỏi cái vòng kim cô tham lam vô cùng tận.
RFI
: Như vậy số phận
của các ngân hàng sẽ như thế nào, liệu có chết theo lãnh vực bất động sản hay
không ?
TS
Phạm Chí Dũng : Rất
có thể. “Trạng chết, Chúa cũng băng hà”, ngân hàng sẽ không thoát khỏi nghiệp
chướng mà họ là một tác nhân gây ra.
Giữa năm 2013, Ngân hàng
Nhà nước đã bắt buộc phải một lần nữa “tái cơ cấu nợ vay” cho các doanh nghiệp
bất động sản, chuyển nhóm nợ từ xấu sang nhóm đỡ xấu hơn, và do vậy các ngân
hàng vẫn còn thời gian để thu xếp việc thanh toán với con nợ đến giữa năm 2014,
chứ không nhất thiết phải siết nợ thẳng thừng.
Dù cố giấu diếm, nhưng
từ gần giữa năm 2012, khối ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt đầu phải tiết lộ
về những con số nợ vay bất động sản, và sau đó vấn đề này trở thành một làn
sóng rộng khắp các ngân hàng, biến thành tiếng kêu cứu ai oán của nhóm lợi ích
đậm đặc này.
Vào thời điểm tháng
4/2012, số nợ vay được tái cơ cấu là 250.000 tỉ đồng. Nhưng mà trong hơn một
năm qua, điều đáng buồn là chẳng ai làm được phần “hậu sự” cho các ngân hàng
lẫn con nợ. Thậm chí nợ vay còn tăng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng, đưa con số
hiện thời lên khoảng 272.000 tỉ đồng.
Nếu ngân hàng - chủ nợ
lớn nhất của bất động sản - còn phải lâm vào vòng túng quẫn, người ta có thể
hình dung tình thế đã trở nên bĩ cực đến mức nào. Những con số và tỉ lệ nợ xấu
về bất động sản cho đến nay vẫn liên tiếp nhảy múa mà chưa chịu dừng chân. Cái
chết đã lộ hình ở phía trước con đường.
RFI
: Theo anh hậu quả sẽ ra sao?
TS
Phạm Chí Dũng :
Hậu quả chưa hẳn xảy ra tức thì đối với giới ngân hàng, nhưng đã hiện hữu đối
với giới chủ đầu tư. Vào cuối năm 2011, hàng loạt vụ bể tín dụng đen bất động
sản đã xảy ra ở Hà Nội, sau đó lan ra một số tỉnh thành khác. Vào giữa năm
2013, giám đốc doanh nghiệp Vĩnh Hưng, được xem là một trong những đại gia kinh
doanh bất động sản ở Hà Nội, đã bị bắt liên quan đến những bê bối về nợ nần, và
đây là một vụ rúng động.
Câu hỏi đang được rốt
ráo đặt ra là sau vụ Vĩnh Hưng, liệu có xảy ra những cú đổ vỡ nào khác? Và liệu
có xảy ra một làn sóng dây chuyền đổ vỡ liên quan đến nhiều doanh nghiệp bất
động sản, tất yếu kéo theo một số nhà băng liên quan về nợ vay?
Dĩ nhiên với nhiều chủ
đầu tư bất động sản ở Việt Nam, đây là một thời buổi kinh hoàng, thời buổi mà
họ chỉ “mong một cuộc sống không nợ nần”.
Vào năm 2011, báo chí
bắt đầu đề cập những câu chuyện về đại gia chứng khoán phải tự tử hoặc nhập
viện tâm thần vì thiếu nợ hoặc phá sản. Còn đến năm 2012, câu chuyện tương tự
được tiếp nối với một số đại gia bất động sản. Hiện tượng xã hội đặc thù này
đang như khuấy động một cơn khủng hoảng sắp tới ở Việt Nam.
Còn giờ đây, hiện tượng
đang trở thành bản chất khi khó có thể kềm giữ những gì sẽ phải phát nổ.
Khác nhiều với thị
trường bất động sản Mỹ và cũng khác khá nhiều với thị trường nhà ở Irland với
nguồn cung tồn kho hạn chế, bất động sản Việt Nam đã ở vào thời kỳ cầm cự cuối
cùng. Theo rất nhiều dự báo, thời kỳ đó sẽ không thể kéo dài đến hết năm 2014.
RFI
: Không biết so
sánh liệu có khập khiễng hay không, nhưng anh có thể nêu vài so sánh giữa thị
trường bất động sản Việt Nam và Mỹ?
TS
Phạm Chí Dũng : Có
một “đồng pha” rất rõ trong “quan hệ bang giao” giữa hai thị trường bất động
sản Mỹ và Việt Nam. Phất lên vào năm 2006 và đạt đỉnh vào năm 2007, thị trường
nhà ở Mỹ đã có mức giá cao gấp đôi so với năm 2000. Còn với Việt Nam, tuy sóng
nhà đất cũng đồng pha với Mỹ về thời gian và kể cả thời điểm, nhưng chuyện tăng
giá thì hơn Mỹ nhiều, và có thể nói là theo đuôi…Trung Quốc. Đó chính là việc
giá nhà ở tại Bắc Kinh đã tăng đến 800% chỉ trong 5 năm từ 2003 đến 2007. Trong
khi đó, giá nhà đất ở Việt Nam cũng không hề kém cạnh, bốc lên tương đương với
mức tăng chẵn một chục lần của giá vàng trong nước từ năm 2000 đến 2011.
Một “đồng dạng” khác là
từ năm 2007 đến nay, chỉ số giá nhà đất S&P/Case-Shiller của Mỹ đã giảm
khoảng 25-30%, trong khi mức giảm này cũng được các quan chức ngành xây dựng
Việt Nam “định giá” cho mặt bằng giá nhà đất tại đây. Và gần đây hãng tư vấn
bất động sản Saville ở Việt Nam cũng đã tính là giảm khoảng 30%. Dĩ nhiên với
trường hợp thị trường ở Việt Nam, phần lớn các con số thống kê chỉ mang tính
tương đối, thậm chí nặng về cảm tính và độ tin cậy là rất đáng nghi ngờ. Hiện tượng
“loạn số liệu tồn kho bất động sản” diễn ra trong thời gian gần đây là một minh
chứng hùng hồn.
Đúng ra, thị trường nhà
ở Mỹ đã hồi sinh trước thị trường bất động sản Việt Nam ít nhất một năm rưỡi,
tính đến giờ phút này. Từ cuối năm 2011, cùng với việc nền kinh tế Mỹ tiếp nhận
những kết quả bắt đầu khả quan, số lượng nhà phát mãi của Mỹ cũng bắt đầu xuất
hiện tín hiệu giảm, trong khi số nhà khởi công mới dần tăng lên. Đà tăng răng
cưa này đã diễn biến lặng lẽ trong suốt năm 2012, để đến cuối năm ngoái, giới
phân tích Mỹ đã chính thức xác nhận rằng thị trường nhà ở quốc gia này đã chính
thức “thoát khỏi suy thoái”.
Khác hẳn với Việt Nam,
thị trường nhà ở Mỹ không hề có bong bóng, cho dù các đảng phái ở quốc gia này
thỉnh thoảng vẫn nhắc lại từ ngữ bóng bẩy đó như một ẩn ý chính trị đối với
đảng cầm quyền. Bất chấp số nhà ở bị niêm phong và đưa vào diện phải phát mãi
là “khủng khiếp” trong năm 2008, chính sách tài chính hơn 900 tỉ USD của chính
phủ Mỹ đã bắt đầu tỏ ra hiệu nghiệm. Tình trạng trì trệ lui dần.
Tới nay, 87% các thành
phố ở Mỹ có giá nhà tăng, dẫn đầu là Sacramento thuộc bang California và
Atlanta thuộc bang Georgia với mức tăng 39%, tiếp đó là Fort Myers thuộc bang
Florida 36%, Reno thuộc bang Nevada tăng 33%, và Las Vegas thuộc bang Nevada
tăng 31%. Đó cũng là lý do vì sao các chỉ số chứng khoán Mỹ tăng tiến không
ngưng nghỉ trong thời gian gần đây.
Nhưng với thị trường bất
động sản Việt Nam lại hoàn toàn khác. Khoảng thời gian cuối năm 2011 chỉ là
khởi đầu cho tan vỡ. Còn nguyên năm 2012 lại chứng kiến sự thê thảm không khác
gì tình trạng vỡ bong bóng. Tuy không phải tất cả các phân khúc, nhưng chỉ
riêng chuyện gần 200.000 căn hộ các loại tồn kho từ Bắc vào Nam đã là một cái
gì đó không thể cứu vãn nổi.
Lúng túng và chậm lụt,
các cơ quan và chính sách “giải cứu” thị trường bất động sản ở Việt Nam đã
không làm được một việc gì có ý nghĩa từ năm 2010, khi tình trạng nợ xấu bất
động sản vẫn chưa quá xấu, và cho đến nay – vào lúc mọi chuyện đã trở nên cám
cảnh đến mức có giám đốc công ty kinh doanh nhà đất phải ra đường bán trà đá.
Tình hình như thế đã cho
thấy thị trường bất động sản Việt Nam nói riêng và nền kinh tế của nước này nói
chung đã bị lệch pha rất lớn so với đà phục hồi thị trường nhà đất và nền kinh
tế Mỹ. Điều đó cũng cho thấy sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam đã rất yếu ớt,
như một người bệnh thâm căn cố đế và không còn sức đề kháng trước cơn ung thư
di căn đang hoành hành.
Nếu không giải quyết
được nợ xấu bất động sản, nền kinh tế Việt Nam sẽ không có khả năng nào đối ứng
với hiệp định TPP, cho dù có được chấp nhận tham dự vào bàn tiệc này.
RFI
: Vậy theo anh
thị trường bất động sản Việt Nam mất bao lâu mới có thể phục hồi được?
TS
Phạm Chí Dũng :
Như phân tích của một tổ chức nghiên cứu quốc tế, thị trường nhà ở Mỹ đã phải
mất hơn 6 năm kể từ khi khủng hoảng để phục hồi trở lại, cũng như phải mất hơn
4 năm kể từ khi các chính sách giải cứu được áp dụng rộng rãi để thị trường
tăng trưởng trở lại.
Còn với thị trường và cơ
chế ở Việt Nam thì sao?
Một số nhà phân tích nêu
ra một cách nhìn lạc quan hơn, căn cứ vào tính chu kỳ trong lịch sử vận động
của thị trường bất động sản Việt Nam tính từ năm 1995. Khởi phát từ năm đó, thị
trường này đã sôi trào vào năm 1997, để sau đó lần đầu tiên rơi vào suy thoái
trong khoảng 4 năm. Đến năm 2001, bất động sản Việt Nam lại một lần nữa bật
dậy. Chu kỳ tiếp theo chìm lắng suốt từ năm 2002 đến năm 2006. Như vậy, tính
bình quân cho khoảng lắng giữa các đợt tạo sóng là thời gian khoảng 5 năm.
Cho đến nay, đã 6 năm
trôi qua kể từ năm 2007, vượt hơn cả một chu kỳ suy thoái trong dĩ vãng. Nếu
theo cách suy diễn này, thị trường tất nhiên có đầy đủ cơ sở để phục hồi.
Tuy thế, làm sao để tạo
“sóng” lại là một câu chuyện hoàn toàn lạ lùng và có lẽ còn trở nên dị hợm
trong bối cảnh đương đại, khi trong 20 năm qua, giá nhà đất tại những thành
phố lớn trên cả nước đã tăng đến 100 lần. Như vậy những người có
nhu cầu thực tế về nhà ở sẽ nhìn vào cái cấp số nhân đó để tính toán cho phép
thử cung - cầu trên thị trường hiện nay.
Đó cũng là tất cả những
gì mà hệ quả của nợ xấu đang tác động, và trở thành tác động có tính quyết
định.
Với tất cả những gì bất
cập đến mức không thể chấp nhận trong lịch sử tồn tại của thị trường bất động
sản, không ai có thể trả lời được câu hỏi sẽ mất bao lâu để phục hồi nó.
Chỉ biết rằng nếu bất
động sản không được “siêu thoát” trong năm nay và cùng lắm trong năm sau, không
biết nền kinh tế còn bị “phủ nhận” đến bao giờ.
RFI :
Nếu dùng từ của anh là nền kinh tế bị “phủ nhận”, liệu xã hội Việt Nam
liệu có lâm vào một cuộc khủng hoảng?
TS
Phạm Chí Dũng : Rất có thể. Hiện thời, giới điều hành đầy quan
liêu cùng các nhóm lợi ích ở Việt Nam đang phải đối diện với một phương trình
có quá nhiều ẩn số.
Muốn giải quyết nợ xấu
nói chung và nợ xấu bất động sản nói riêng thì phải xử lý tồn kho nói chung và
tồn kho bất động sản nói riêng; muốn xử lý tồn kho bất động sản lại phải làm
tăng tổng cầu và niềm tin tiêu dùng cho nền kinh tế.
Nhưng ai cũng biết rằng muốn tăng tổng cầu kinh tế thì phải bơm tiền, trong khi
nguồn tiền đang có dấu hiệu cạn kiệt do bị tồn kho và không giải quyết được nợ
xấu. Chưa tính tới yếu tố bơm tiền hoàn toàn có thể sinh ra lạm phát…
Đây chính là một cái
vòng luẩn quẩn mà sẽ dẫn tới “thời điểm Minsky” -
tức thời điểm nền kinh tế phải chịu cảnh đổ vỡ dây chuyền, bắt đầu từ khối
doanh nghiệp con nợ và ngân hàng chủ nợ không thu hồi được các món nợ, dẫn tới
khả năng sụp đổ kinh tế.
Theo một số chuyên gia
phản biện độc lập như Bùi Kiến Thành và Nguyễn Trí Hiếu, triển vọng giải quyết
tồn kho bất động sản sẽ rất chậm và phải kéo dài ít nhất 4-5 năm. Nhưng ngay
trong ngắn hạn năm 2013 và năm 2014, tình trạng nợ khó đòi của các doanh nghiệp
bất động sản lại luôn có thể tạo nên sang chấn bùng vỡ cho giới ngân hàng chủ
nợ, mà có thể kéo theo một làn sóng sụp đổ dây chuyền giữa một số ngân hàng
lớn.
Nếu không thể giải quyết
núi tồn kho bất động sản vào thời hạn “Minsky” giữa năm 2014, hoặc chậm lắm đến
cuối năm 2014, rất nhiều khả năng nợ xấu bất động sản sẽ làm bùng vỡ nợ xấu
quốc gia và đẩy các ngân hàng vào thế tồn vong. Thế tồn vong đó cũng có thể gây
tác động tiêu cực không nhỏ đến chân đứng của một nền chính trị vốn đang chịu
nhiều xáo động.
Nếu không tự thoát khỏi
cái vòng luẩn quẩn của mình, nền kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng rơi
vào một cơn khủng hoảng mới còn ghê gớm hơn cả khủng hoảng 2008 và đợt suy
thoái kéo dài suốt ba năm qua. Khủng hoảng kinh tế lại rất dễ dẫn đến khủng
hoảng xã hội – một phạm trù vốn đã tiềm ẩn nhiều mầm mống được thể hiện trên
nhiều đường phố. Khi đó, liệu một chính khách cao cấp nào – tổng bí thư, chủ
tịch nước hay thủ tướng - có thể dám chắc là không xảy ra một cơn địa chấn về
chính trị?
RFI
: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Chí Dũng.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.