Máu
đã đổ, người đã chết… vì cưỡng chế đất
Mẹ Nấm, viết từ Việt Nam
2013-09-18
2013-09-18
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của
Bạn
- Email
Khu vực tranh chấp đất đai giữa chính quyền Hà Nội và người Công
giáo tại giáo xứ Thái Hà chụp hôm 24/4/2009. Ảnh minh họa.
AFP photo
Chiều ngày 11/09/2013, ông Đặng Ngọc Viết, 42
tuổi, trú tại phường Kỳ Bá, Thái Bình xông vào trụ sở Uỷ ban Nhân dân thành phố
dùng súng bắn 5 cán bộ thuộc Trung tâm phát triển Quỹ đất Thành phố Thái Bình
khiến một người chết, ba người bị thương.
Sau đó, ông Viết về
quê ở huyện Kiến Xương, Thái Bình và tự sát dưới chân tượng Phật trong buổi
chiều cùng ngày.
Theo thông tin trên
các báo, nguyên nhân bức xúc của ông Viết có liên quan đến chuyện thu hồi đất
đai và chính sách đền bù của chủ trương xây dựng khu đô thị mới ở phường Kỳ Bá.
Sự việc gây chấn động
này một lần nữa nhắc người ta nhớ đến các bất cập trong những vụ giải phóng mặt
bằng.
Trong nhiều năm gần
đây, số lượng người đi khiếu nại, khiếu kiện các vấn đề liên quan đến đất đai
ngày càng gia tăng.
Đỉnh điểm là năm ngoái
tại Hải Phòng, gia đình ông Đoàn Văn Vươn cũng đã buộc phải nổ súng vào đoàn
công an, cán bộ tham gia cưỡng chế để bảo vệ tài sản của mình. Luật đất đai năm
2003 ở điều 7 có quy định: “Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai”.
Rất khó để viện dẫn,
giải thích cho toàn dân hiểu vì sao đất đai do mình sở hữu nhưng nhà nước lại
đại diện quản lý.
Trên thực tế, trong những
dự án giải phóng mặt bằng, với những quy định có sẵn trong luật đất đai 2003,
trong những dự án thu hồi đất do nhà nước làm chủ đầu tư thì nhà nước sẽ áp giá
đền bù, hỗ trợ tái định cư…
Đối với các dự án phục
vụ mục đích phúc lợi công cộng như bệnh viện, trường học, chợ… thì hầu như
người dân không còn cách lựa chọn nào ngoài việc đồng ý với các thoả thuận do
phía nhà nước đưa ra, nhanh chóng nhận tiền đền bù hoặc chấp nhận di dời theo
phương án tái định cư nếu không muốn bị cưỡng chế giải toả trắng.
Nhưng vấn đề dễ gây
cho người dân bức xúc nhiều nhất đó chính là những dự án mà nhà nước đứng ra
thu hồi đất để giao cho tư nhân đầu tư xây dựng và quản lý.
Đây chính là kẽ hở lớn
nhất để nhà nước và các chủ dự án mập mờ đánh lận con đen với quyền lợi của
người dân. Bởi khi nhà nước thu hồi đất thì sẽ áp mức đền bù theo giá do nhà
nước quy định (thường giá này thấp hơn nhiều so với thị trường thực tế), sau
khi đã có đất sạch (đất đã giải toả xong) thì nhà nước giao lại cho chủ đầu tư
tư nhân tiếp quản, toàn quyền định đoạt.
Những mảnh đất đó
thường sẽ được tư nhân bán lại với giá cao gấp chục lần giá đền bù mà người dân
nhận được. Đây chính là mấu chốt của nhiều vụ việc bức xúc đã xảy ra.
Một nút thắt thứ hai
thường gặp trong những vấn đề liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng chính
là quy trình, thủ tục triển khai của các dự án. Theo quy định của luật đất đai
và các nghị định hướng dẫn thi hành luật này thì những trình tự pháp lý liên
quan tới chủ trương, thu hồi, đền bù, giải tỏa, hỗ trợ tái định cư... đất của
người dân đều có những quy định rất rõ ràng nhưng trên thực tế người dân hầu
như không được biết (ví dụ như quyết định thu hồi, đền bù, hỗ trợ học nghề, tái
định cư..).
Nông dân chuẩn bị đất
cho vụ lúa mới trên một cánh đồng ở một tỉnh phía Bắc, ảnh minh họa. AFP photo
Theo quy định của pháp
luật, tất cả phải được thông báo công khai hoặc gửi tận tay người dân có quyền
lợi liên quan, nhưng thực tế nhiều dự án đã lơ đi chuyện này. Tôi đã từng tận
mắt chứng kiến các cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng làm việc với các gia
đình bị mất đất.
Thay vì làm rõ việc
đảm bảo quyền lợi cho người dân, đa số các văn bản, các thủ tục hướng dẫn lại
thường chỉ muốn người dân đồng ý ký vào các biên bản thoả thuận càng sớm càng
tốt.
Đặc biệt với các biên
bản giao nhận đất tái định cư, hoặc biên bản đồng ý với việc nhận tiền đền bù.
Thậm chí có những địa phương còn áp dụng đủ thứ “lệ”, để lừa dân ký cho bằng
được, và với quan niệm “một khi đã ký nhận đền bù thì coi như kết thúc không
thoả thuận, đàm phán gì nữa”.
Cũng có tình trạng các
cán bộ đi vận động, “bỏ nhỏ” với từng hộ dân rằng “khu này đã nhận đền bù hết,
gia đình cũng nhận đi chứ không khi tất cả đã đồng ý thì ở trên buộc phải ra
lệnh cưỡng chế nhà anh (chị)”.
Nhiều người dân không
có đủ thông tin và không được hỗ trợ về mặt kiến thức luật pháp đã chấp nhận ký
kết thoả thuận.
Đến khi người dân có
điều kiện tiếp cận đầy đủ thông tin, được tư vấn đầy đủ về pháp luật và biết
được nhà nước hoặc chủ đầu tư lừa mình thì đi việc khiếu nại, khiếu kiện sẽ
diễn ra rất dây dưa và chậm chạp trong khi dự án vẫn cứ triển khai, nhà cửa vẫn
bị giải toả.
Chính điều này đã dẫn
đến những hệ luỵ khó giải quyết: Có nhiều người mất nhà cửa, mất ruộng vườn lặn
lội khiếu kiện ròng rã từ năm này sang năm khác. Có nhiều người im lặng trong
cay đắng chấp nhận làm lại từ đầu và góc nhìn của họ với xã hội thay đổi hẳn
đi. Và cũng có người đã lựa chọn cách hành động theo bản năng để giải thoát cho
bản thân và gia đình như ông Vươn, ông Viết.
Câu hỏi luôn được đặt
ra là liệu luật pháp đã đảm bảo được hoàn toàn quyền sống, quyền mưu cầu hạnh
phúc của những gia đình có đất đai bị giải toả hay chưa? Pháp luật và những quy
định của nó được tạo ra là để đảm bảo quyền lợi của người dân, để hướng dẫn mọi
người hiểu và thực hiện nghĩa vụ công dân của mình chứ không phải để đánh lừa
họ.
Vì sao những người như
ông Đoàn Văn Vươn, ông Đặng Ngọc Viết phải chấp nhận đổ máu để bảo vệ quyền lợi
của mình? Phải chăng là họ không còn tin rằng mình sẽ được bảo vệ bởi luật pháp
nữa?
Một khi công dân mất
niềm tin rằng nhà nước sẽ bảo vệ được mình, thì vai trò của nhà nước nằm ở đâu
trong xã hội này?
Với tình trạng người
dân phải đổ máu để bảo vệ quyền lợi của mình như hiện nay, liệu có tồn tại một
nhà nước “do dân và vì dân” như người ta thường được nghe tuyên truyền hay không?
* Bài viết trích từ
Blog Mẹ Nấm, Mội dung không phản ảnh quan điểm của Đài Á Châu Tự Do. (Tựa bài
do RFA đặt)
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.