'Ngân hàng VN đang ngoài vòng pháp luật'
Cập nhật: 14:40 GMT - thứ hai, 27 tháng 1, 2014
Huỳnh Thị Huyền Như
nhận án tù chung thân.
Tòa tại Việt Nam vừa
tuyên án tù với hàng chục bị cáo trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, được gọi
vụ lừa đảo lớn nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam.
Chuyên gia tài chính Bùi
Kiến Thành bình luận về phán quyết này cũng như tình trạng mà ông gọi là hệ thống
ngân hàng Việt Nam đang hoạt động ngoài vòng pháp luật.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
BBC: Ông
có ngạc nhiên khi tòa ra phát quyết trách nhiệm cá nhân thay vì trách nhiệm
ngân hàng với lập luận là ngân hàng “không biết” [hoạt động lừa đảo]?
Theo tôi thì ngân hàng
[VietinBank] hoàn toàn có trách nhiệm chứ làm sao nói rằng đó là chuyện cá nhân
được. Ngân hàng phải có nhiệm vụ quản lý nhân sự của mình. Một người thực sự là
giám đốc của một chi nhánh mà làm những việc như thế thì thanh tra kiểm tra ở đâu
mà để xảy ra những việc như vậy. Bây giờ nói là việc cá nhân là không được. Nền
tư pháp Việt Nam phải làm tốt hơn nữa.
"Việt Nam thì nói là không có tam quyền phân
lập. Thế thì nghĩa là tư pháp phải nghe theo lệnh của ông khác để xử."
Sẵn đây cũng nói là hiện
ở Việt Nam cái việc tổ chức nhà nước chưa được hoàn chỉnh. Việt Nam thì nói là
không có tam quyền phân lập. Thế thì nghĩa là tư pháp phải nghe theo lệnh của ông
khác để xử lý thì như vậy sao được.
Tư pháp, hành pháp và lập
pháp không thực sự phân lập ra để khi xử lý một việc lớn thì có tính khách quan
trong đấy. Tòa án ở Việt Nam có nhiều vấn đề lắm, không riêng gì vụ này. Tòa án
Việt Nam chưa có hoàn toàn độc lập. Còn riêng về vụ này mà các ông xử thế thì
các ông nên suy nghĩ lại, nghiên cứu lại về cơ sở pháp lý về hoạt động của ngân
hàng chứ còn nói như vậy là không có chính xác.
BBC: Nhìn rộng ra VietinBank cũng chịu sự quản lý
và kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thì phải chăng NHNN cũng có
trách nhiệm liên đới?
Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam có trách nhiệm theo dõi đôn đốc quản lý của các ngân hàng thương mại,
không chỉ riêng VietinBank mà còn bao nhiêu ngân hàng thương mại khác đều chịu
sự kiểm soát, kiểm tra thanh tra của NHNN, mà các nước khác gọi là ngân hàng
trung ương, thì việc đấy rõ ràng là có vấn đề. Vai trò ngân hàng trung ương
quản lý ở đâu. Còn Vietinbank là ngân hàng lớn thì anh làm sao lại để việc lớn
như vậy xảy ra với nhân viên của anh. Ra tòa anh từ chối thì chuyện từ chối
trách nhiệm là chuyện không thể chấp nhận được. Cho nên phải xem lại cả hệ
thống ngân hàng chứ không riêng gì VietinBank.
Trong 10 năm nay hoạt động
của hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn không có sự quản lý chặt chẽ. Lãi suất
huy động mười mấy, hai chục phần trăm, rồi cho các doanh nghiệp vai tới hai mươi
mấy phần trăm là không thể chấp nhận được. NHNN phải quản lý mặt bằng lãi suất
như thế nào cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững chứ không thể bơm lãi
suất độc hại như thế để giết chết doanh nghiệp, do đó phải nghiêm túc và nhanh
chóng hoàn chỉnh việc quản lý hệ thống ngân hàng.
BBC: Thủ
tướng Việt Nam cũng nói về điều ông gọi là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt
Nam thì theo ông động thái đó có đi đến điều mà người ta mong muốn hay không?
"Trách nhiệm ở Trung ương là thế nào, trách
nhiệm của Chính phủ là sao, trách nhiệm của nhà cầm quyền tối cao là Bộ Chính
trị là như thế nào? Anh có biết hay anh không biết? Nếu anh không biết thì cực
kỳ nguy hiểm và nếu anh biết mà anh vẫn để xảy ra như thế thì lại còn nguy hiểm
hơn"
Chuyên gia Tài chính
Bùi Kiến Thành
Tôi là chuyên gia chứ không
phải chính trị gia. Ông Thủ tướng nói thế là với tính chất Thủ tướng Chính phủ,
một nhà chính trị lãnh đạo của một đất nước. Hai việc đấy nó khác nhau. Còn nếu
hỏi tôi về phương án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam như hiện nay thì
tôi có thể trả lời thẳng thắn, với tư cách là một chuyên gia, là chúng ta chưa
làm một cái gì cả, chúng ta chưa đạt được cái gì cả. Hệ thống ngân hàng Việt
Nam hiện nay đang hoạt động ngoài vòng pháp luật, không tôn trọng điều khoản
của luật về vấn đề lãi trần cho vay, vân vân.
Mọi chuyện rất đáng trách,
NHNN ở đâu mà không xử lý các việc vi phạm của cả hệ thống ngân hàng như thế?
Đưa đến nợ xấu tràn lan, chiếm tới 15%-17% tổng dư nợ là như thế nào. Đồng thời
tạo điều kiện để giết chết hàng vạn, hàng chục vạn doanh nghiệp với lãnh suất
độc hại hai mươi mấy phần trăm là như thế nào?
Tức là anh có biết rõ trách
nhiệm và quyền hạn của một ngân hàng trung ương hay không? Hay là anh không
biết? Không thể nào lại có ngân hàng trung ương mà để xảy ra hoạt động trong hệ
thống ngân hàng thương mại mà chúng ta thấy như thế trong cả 10 năm nay được.
Do vậy quản lý ngân hàng ở Việt Nam nó có vấn đề từ gốc của nó chứ không phải
là một trường hợp riêng lẻ.
BBC: Giới
quan sát nói rằng một trong các nhóm lợi ích chính là ngân hàng vì ngân hàng đẻ
ra ra các công ty hay doanh nghiệp “sân sau” hay còn gọi là sở hữu chéo. Vậy
nếu không xử lý những vấn đề nhùng nhằng thì làm sao có thể giải quyết được
bình ổn kinh tế vĩ mô?
"Ở Việt Nam ai chẳng biết có sở hữu chéo, ai
chẳng biết những ngân hàng nhỏ nhỏ đang làm loạn lên và đưa nền kinh tế đến suy
thoái kinh khủng"
Tình trạng ấu trĩ của hệ
thống ngân hàng Việt Nam là một. Việc thiếu nghiêm túc, thiếu thanh tra kiểm tra
của ngân hàng nhà nước thì mới để xảy ra những việc như thế thì chúng ta phải
xem lại xem trách nhiệm ở đâu và phải xử lý người nào có trách nhiệm đấy.
Ở Việt Nam ai chẳng biết
có sở hữu chéo, ai chẳng biết những ngân hàng nhỏ nhỏ đang làm loạn lên và đưa
nền kinh tế đến suy thoái kinh khủng.
Tất cả các việc đấy là
việc của NHNN quản lý mà anh lại không quản lý để đưa đến tình trạng kinh tế
bất ổn rồi đấm lưng nhau rồi vỗ ngực nhau khen thưởng nhau trong lúc cả nền
kinh tế đang chết thì thế là như thế nào. Phải xem lại các việc làm từ mấy năm
nay và cần coi lại tại sao để lãi suất cao ngất ngưởng như vậy. Và từ cấp tối
cao cho những cấp ở dưới phải xem lại tại làm sao để có những việc như thế.
Ai chịu trách nhiệm? Trách
nhiệm ở đâu? Trách nhiệm ở Trung ương là thế nào, trách nhiệm của Chính phủ là
sao, trách nhiệm của nhà cầm quyền tối cao là Bộ Chính trị là như thế nào? Anh
có biết hay anh không biết? Nếu anh không biết thì cực kỳ nguy hiểm và nếu anh
biết mà anh vẫn để xảy ra như thế thì lại còn nguy hiểm hơn.
Do đó chúng ta nên
nhân cơ hội này đặt lại cả vấn đề là trách nhiệm của ai trong việc hoạt động
không có tôn trọng luật pháp, không tôn trọng qui định của thế giới về hoạt
động ngân hàng, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân Việt Nam và cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam rằng họ cần phải phát triển. Anh để xảy ra những việc như
thế là sao? Ai trách nhiệm đây? Đó là những vấn đề ta cần phải suy nghĩ và đặt
câu hỏi.
Vụ lừa VietinBank và trách nhiệm NHNN
Cập nhật: 15:53 GMT - thứ hai, 27 tháng 1, 2014
Media Player
Bình luận về phán
quyết của tòa trong vụ lừa đảo tại VietinBank, chuyên gia tài chính Bùi Kiến
Thành nói không thể coi trách nhiệm của vụ này thuộc cá nhân.
"Theo tôi thì
ngân hàng hoàn toàn có trách nhiệm chứ làm sao nói rằng đó là chuyện cá nhân được."
"Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) có trách nhiệm theo dõi đôn đốc quản lý của các ngân hàng
thương mại, không chỉ riêng VietinBank mà còn bao nhiêu ngân hàng thương mại
khác đều chịu sự kiểm soát, kiểm tra thanh tra của NHNN, mà các nước khác gọi là
ngân hàng trung ương, thì việc đấy rõ ràng là có vấn đề.
"Vai trò ngân
hàng trung ương quản lý ở đâu. Còn VietinBank là ngân hàng lớn thì anh làm sao
lại để việc lớn như vậy xảy ra với nhân viên của anh. Ra tòa anh từ chối thì
chuyện từ chối trách nhiệm là chuyện không thể chấp nhận được. Cho nên phải xem
lại cả hệ thống ngân hàng chứ không riêng gì Vietinbank.
"NHNN phải quản lý mặt bằng lãi suất như thế
nào cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững chứ không thể bơm lãi suất độc
hại như thế để giết chết doanh nghiệp"
Chuyên gia Tài chính
Bùi Kiến Thành
"Trong 10 năm nay
hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn không có sự quản lý chặt
chẽ. Lãi suất huy động mười mấy, hai chục phần trăm, rồi cho các doanh nghiệp
vai tới hai mươi mấy phần trăm là không thể chấp nhận được. NHNN phải quản lý
mặt bằng lãi suất như thế nào cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững chứ
không thể bơm lãi suất độc hại như thế để giết chết doanh nghiệp, do đó phải
nghiêm túc và nhanh chóng hoàn chỉnh việc quản lý hệ thống ngân hàng," ông
Thành nói.
Bình luận về thực
trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, ông Thành nói "Ở Việt Nam ai
chẳng biết có sở hữu chéo, ai chẳng biết những ngân hàng nhỏ nhỏ đang làm loạn
lên và đưa nền kinh tế đến suy thoái kinh khủng.
"Tất cả các việc
đấy là việc của NHNN quản lý mà anh lại không quản lý để đưa đến tình trạng
kinh tế bất ổn rồi đấm lưng nhau rồi vỗ ngực nhau khen thưởng nhau trong lúc cả
nền kinh tế đang chết thì thế là như thế nào. Phải xem lại các việc làm từ mấy
năm nay và cần coi lại tại sao để lãi suất cao ngất ngưởng như vậy. Và từ cấp
tối cao cho những cấp ở dưới phải xem lại tại làm sao để có những việc như thế.
"Ai chịu trách
nhiệm? Trách nhiệm ở đâu? Trách nhiệm ở Trung ương là thế nào, trách nhiệm của
Chính phủ là sao, trách nhiệm của nhà cầm quyền tối cao là Bộ Chính trị là như
thế nào? Anh có biết hay anh không biết? Nếu anh không biết thì cực kỳ nguy
hiểm và nếu anh biết mà anh vẫn để xảy ra như thế thì lại còn nguy hiểm hơn.
"Do đó chúng ta
nên nhân cơ hội này đặt lại cả vấn đề là trách nhiệm của ai trong việc hoạt
động không có tôn trọng luật pháp, không tôn trọng qui định của thế giới về
hoạt động ngân hàng, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân Việt Nam và cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam rằng họ cần phải phát triển. Anh để xảy ra những
việc như thế là sao? Ai trách nhiệm đây? Đó là những vấn đề ta cần phải suy
nghĩ và đặt câu hỏi," ông Thành nói với BBC trong cuộc phỏng vấn vào ngày
27/01/2014.
'Một đám tang tụ hợp cả hai phía'
Cập nhật: 15:26 GMT - chủ nhật, 26 tháng 1, 2014
Media Player
Bí thư thành ủy TP.HCM
ông Lê Thanh Hải (trái) tại đám tang của ông Lê Hiếu Đằng.
Đám tang của ông Lê
Hiếu Đằng, cố Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TPHCM, đã tập hợp
được cả hai lực lượng là các quan chức của chính quyền và giới bất đồng chính
kiến, những người tranh đấu cho cải tổ và dân chủ, theo một blogger từ Sài Gòn.
Hôm 26/01/2014, ông Huỳnh
Ngọc Chênh, cựu Thư ký Tòa soạn Báo Thanh Niên nói với BBC đám tang của vị cố
luật gia đã diễn ra trong vòng 'trang nghiêm' nhưng 'xúc động' và đặc biệt đã 'kết
hợp được cả hai phía'.
Ông nói: "Một đám
tang rất là cảm động, rất là trang nghiêm và có rất nhiều nước mắt, nhiều tiếng
khóc...
"Một cái đám tang
kết hợp được cả hai phía, tạm gọi như vậy, kể cả bên chính quyền. Chính quyền
thì kể cả những người cao nhất, lẫn những người đương chức đang còn làm việc
trong bộ máy chính quyền ở cấp thấp hơn, là bạn bè của anh Đằng thăm dự,
"Và đồng thời
cũng có sự tham dự của các anh em khác, mà có thể nói là lề trái, đó là những
anh em bloggers, những anh em ở trong nhóm 'No-U', những anh em của một số
phong trào dân sự, hay là có các trang (mạng) mà được đánh giá v.v..."
'Lệnh từ đâu ra?'
"Nhưng mà cũng có thể như thế này, đi viếng thì
cứ đi viếng, nhưng công việc phải ngăn cản, thì vẫn cứ phải ngăn cản"
Blogger Huỳnh Ngọc
Chênh
Mặc dù đã có sự hiện diện
của nhiều quan chức cấp cao, đương chức hoặc đã nghỉ hưu, của chính quyền, đám
tang của ông Lê Hiếu Đằng được phản ảnh là vẫn gặp một số cản trở, xâm phạm.
Trả lời câu hỏi liệu những
người 'phá đám' có một mục đích nào đó và có nhận một mật lệnh, chỉ đạo của ai
hay không, ông Huỳnh Ngọc Chênh cho hay:
"Cái lệnh đó tôi
chẳng biết từ đâu ra, cái hệ thống nhà nước này nó không phải chỉ có một vua,
mà có đến mười mấy ông vua,
"Cho nên có thể
lệnh từ cấp này, từ cấp khác, có khi nó không được biết tới hết,
"Nhưng mà cũng có
thể như thế này, đi viếng thì cứ đi viếng, nhưng công việc phải ngăn cản, thì
vẫn cứ phải ngăn cản," blogger nói với BBC.
Blog / Nguyễn
Hưng Quốc
Huyền thoại: chất dinh dưỡng của độc tài
·
·
·
Tin liên hệ
Ðường dẫn
CỠ CHỮ
25.01.2014
Viết bài “Sự
mù quáng vô tận”,
tôi không nhắm đến mục tiêu phê phán người dân Trung Quốc. Tôi chỉ muốn chứng
minh hai điều:
Một, dù có nhiều điểm tương đồng, giữa độc tài phát-xít và độc tài Mác-xít vẫn có một điểm khác biệt lớn: Trong khi chủ nghĩa phát-xít dựa trên một số niềm tin gắn liền với một số thành kiến về chủng tộc và với một thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa Mác-xít lại dựa trên một nền tảng triết học có vẻ rất đồ sộ và nguy nga, nhờ thế, một mặt, nó dễ dàng thuyết phục được giới trí thức, và mặt khác, cũng rất dễ được huyền thoại hóa.
Hai, vì yếu tố huyền thoại ấy, độc tài Mác-xít sống dai dẳng hơn hẳn độc tài phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít, lúc còn mạnh, không làm dấy lên một phong trào văn học nghệ thuật tương ứng nào, và khi bị sụp đổ, là sụp đổ hoàn toàn, cả trong hiện thực lẫn trong ký ức. Chủ nghĩa Mác-xít, ngược lại, ngay từ đầu, đã gắn liền với cả một phong trào văn nghệ rộng lớn dưới nhãn hiệu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, qua đó, thấm nhiễm sâu sắc vào đáy sâu tâm thức của từng người; hậu quả là, ngay cả khi chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một thể chế và một ý thức hệ, đã bị phá sản, dư âm của nó vẫn còn lại. Sự kéo dài của dư âm ấy cũng đồng thời là sự kéo dài của họa độc tài.
Sự sùng bái của nhiều người dân Trung Quốc hiện nay đối với thần tượng Mao Trạch Đông của họ chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kéo dài ấy.
Hiện tượng ấy lại cho thấy sự khó khăn và gập ghềnh trong tiến trình dân chủ hóa ở khắp nơi, đặc biệt, ở các nước độc tài từng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác.
Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, nói chung, có mấy đặc điểm chính: Một, đó là một xu hướng chung của thế giới. Giới nghiên cứu - đi tiên phong và tiêu biểu nhất là Samuel Huntington - chia tiến trình dân chủ hóa ấy thành từng đợt, giống như đợt sóng, hết đợt thứ nhất (từ khoảng 1810 đến khoảng 1922) đến đợt thứ hai (khoảng 1944-1957), thứ ba (khoảng từ 1974 đến đầu thập niên 1990), và gần đây, với sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông và châu Phi, nhiều người lại nói đến đợt sóng dân chủ thứ tư. Hai, tuy nhìn chung, các đợt sóng dân chủ hóa ấy có sức mạnh mãnh liệt, hết càn quét chế độ độc tài ở nước này lại càn quét chế độ độc tài ở nước khác, tiến trình dân chủ hóa vẫn có những thoái trào nhất định: thay vì phát triển theo đường thẳng, nó lại chạy lòng vòng hoặc theo những đường cong đầy khúc khuỷu, như những gì chúng ta đang nhìn thấy ở các nước Hồi giáo Trung Đông và Bắc Phi. Ba, trong sự phát triển của dân chủ, có một số nơi dường như may mắn, ở đó, dân chủ một khi đã xuất hiện cứ ngày một nảy nở xum xuê; ở một số nơi khác, ngược lại, nó cứ còi cọc, quặt quẹo, lúc nào cũng có nguy cơ bị chết héo.
Đặc điểm thứ ba vừa nêu thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt câu hỏi: Tại sao? Tại sao dân chủ có thể phát triển dễ dàng ở nơi này hơn ở nơi khác? Tại sao, trên lý thuyết, dân chủ nhắm đến việc phát huy quyền tự do của mỗi người, đáng lẽ mọi người phải hân hoan đón nhận, thế nhưng, ngược lại, nhiều người, rất nhiều người, kể cả những người thiếu tự do nhất, lại dửng dưng, thậm chí, run sợ, muốn quay mặt đi? Tại sao?
Tất cả những câu hỏi tại sao ấy lại dẫn đến một câu hỏi khác: Vậy, điều kiện, hoặc những điều kiện chính của dân chủ là gì?
Câu hỏi này sẽ dẫn đến một câu hỏi khác có tính thực dụng và thực tiễn hơn: Để xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, yếu tố nào cần được xây dựng trước?
Trong cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào (How East Asians View Democracy) do Columbia University Press xuất bản năm 2010, các nhà biên tập, Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan và Doh Chull Shin, trong lời giới thiệu, đã chia cuộc hành trình nhận thức về dân chủ thành ba giai đoạn chính:
Thứ nhất, giai đoạn đầu, từ thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, các lý thuyết gia cho rằng có nhiều yếu tố tác động đến quá trình tiến hóa của dân chủ, trong đó, có yếu tố văn hóa chính trị. Đi tiên phong trong giai đoạn này là Dankwart Rustow, người cho rằng cuộc dân chủ hóa nào cũng bắt đầu, trước hết, bằng sự thống nhất của quốc gia, sau đó, bằng việc tranh đấu để chấm dứt sự bất bình đẳng về các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, sau đó, là quyết định xây dựng các thiết chế cần thiết cho dân chủ; và cuối cùng, mọi người, từ trí thức đến bình dân, dần dần làm quen với dân chủ để ứng xử theo các nguyên tắc dân chủ.
Thứ hai, suốt thập niên 1970 và thập niên 1980, không hiểu sao giới nghiên cứu lại xao nhãng yếu tố văn hóa chính trị. Mọi người đều chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội, những thay đổi trong giới trí thức và các thiết chế chính trị.
Thứ ba, từ thập niên 1990 đến nay, người ta lại chú ý đến văn hóa chính trị, hơn nữa, xem văn hóa chính trị như là yếu tố trung tâm trong tiến trình dân chủ hóa. Trong cái gọi là văn hóa chính trị ấy, người ta không những chỉ tập trung vào giới trí thức mà còn cả giới bình dân, nếu không muốn nói, đặc biệt là giới bình dân: Chính niềm tin và thái độ của giới bình dân là một trong những yếu tố quyết định vận mệnh của dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, hiện nay, phần lớn giới nghiên cứu về chính trị học đều tin là, để có dân chủ, người ta cần có nhiều thứ, ví dụ, một, sự thức tỉnh và dấn thân của giới trí thức; hai, sự phát triển của kinh tế phải đến một mức độ nào đó, để, một mặt, có một tầng lớp trung lưu tương đối mạnh, mặt khác, để mọi người không còn chỉ biết hùng hục lo cho miếng cơm manh áo, những nhu cầu sơ đẳng và nhỏ nhặt hằng ngày; ba, một môi trường quốc tế thích hợp và có tác động tích cực đến xu hướng dân chủ hóa; và bốn, quan trọng nhất, là thái độ của quần chúng.
Nhìn vào tình hình chính trị ở châu Á những năm gầy đây, các nhà nghiên cứu cho rằng hầu hết các nền dân chủ non trẻ ở đây đều gặp thử thách nghiêm trọng. Không kể Trung Quốc, nơi chưa có dân chủ, từ Hong Kong đến Đài Loan, từ Thái Lan đến Mông Cổ, từ Hàn Quốc đến Nhật Bản, ở đâu cũng có những đợt khủng hoảng, với những mức độ khác nhau, về dân chủ.
Lý do chính, theo các tác giả của cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào là vì nền tảng của tính chính đáng của dân chủ ở đó còn rất yếu ớt và mong manh. Một mặt, nhiều người dân vẫn nuối tiếc cái thời độc tài đã qua. Tự do gắn liền với cạnh tranh; cạnh tranh cần sự quyết liệt và có sự hơn thua rõ ràng: Những người thua cuộc, nhất là trong cuộc chạy đua về kinh tế và quyền lực, dễ có tâm lý bất mãn. Tâm lý này, thật ra, cũng rất dễ nhìn thấy ở Nga và Đông Âu hiện nay: người ta thấy cuộc sống dưới chế độ độc tài cộng sản trước đây có vẻ dễ dàng hơn, ở đó, ai an phận nấy, cứ đến tháng lại cầm sổ lương thực đi mua thịt mua cá, không phải tính toán hay cố gắng gì nhiều, dù với cái giá người ta phải trả là mất tự do. Mặt khác, người ta vẫn chưa quen với trò chơi dân chủ, chưa phục tùng quyết định của đa số, vẫn muốn dùng sức mạnh, hoặc bằng bạo lực hoặc của đám đông qua các cuộc xuống đường biểu tình để xóa bỏ kết quả của các cuộc bầu cử.
Điều cuối cùng vừa nêu thấy rõ nhất là ở Thái Lan. Cứ bất mãn chính phủ điều gì là người ta lại xuống đường biểu tình để đòi thay chính phủ, bất chấp sự kiện chính phủ ấy đã chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu trước đó. Xin lưu ý là ở các quốc gia có truyền thống dân chủ lâu dài và vững chắc ở Tây phương, người ta cũng thường xuống đường biểu tình nhưng mục tiêu của các cuộc biểu tình ấy là nhằm để gây sức ép làm thay đổi một số chính sách nào đó chứ không phải là thay đổi bản thân chính phủ. Việc thay đổi chính phủ, người ta để các lá phiếu quyết định.
Ở đây, chúng ta thấy có sự khác biệt quan trọng trong nội dung của văn hóa chính trị ở các nước đã có dân chủ, dù là dân chủ non trẻ và ở các nước chưa có dân chủ. Điều kiện để nuôi dưỡng dân chủ, ở các nước đã ít nhiều có dân chủ, là sự tin tưởng vào thể chế và giới hạn mục tiêu tranh đấu vào lãnh vực chính sách, trong khi đó, ở các nước chưa có dân chủ, điều kiện thiết yếu là sự bất tín nhiệm đối với thể chế hiện hữu và nhắm đến mục tiêu thay đổi thể chế.
Trong trường hợp thứ hai, tiến trình dân chủ hóa ở các nước chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác gặp nhiều khó khăn hơn, chủ yếu, vì áp lực của các huyền thoại giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vốn được hệ thống tuyên truyền của nhà nước nuôi dưỡng quá lâu. Với các huyền thoại ấy, người ta hoặc vẫn tiếp tục có ảo tưởng vào một tương lai tươi sáng nào đó hoặc đâm ra dễ dàng tha thứ cho các tội ác trong hiện tại, xem chúng như những cái giá cần phải trả cho một thiên đường mai hậu. Đó là chưa kể, vì sống quá lâu dưới ách độc tài, chỉ cần một lời hứa hẹn hoặc một sự thay đổi nho nhỏ, người ta đã thấy thỏa mãn.
Chính sự thỏa mãn ấy là dưỡng khí cần thiết của các chế độ độc tài.
Một, dù có nhiều điểm tương đồng, giữa độc tài phát-xít và độc tài Mác-xít vẫn có một điểm khác biệt lớn: Trong khi chủ nghĩa phát-xít dựa trên một số niềm tin gắn liền với một số thành kiến về chủng tộc và với một thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa Mác-xít lại dựa trên một nền tảng triết học có vẻ rất đồ sộ và nguy nga, nhờ thế, một mặt, nó dễ dàng thuyết phục được giới trí thức, và mặt khác, cũng rất dễ được huyền thoại hóa.
Hai, vì yếu tố huyền thoại ấy, độc tài Mác-xít sống dai dẳng hơn hẳn độc tài phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít, lúc còn mạnh, không làm dấy lên một phong trào văn học nghệ thuật tương ứng nào, và khi bị sụp đổ, là sụp đổ hoàn toàn, cả trong hiện thực lẫn trong ký ức. Chủ nghĩa Mác-xít, ngược lại, ngay từ đầu, đã gắn liền với cả một phong trào văn nghệ rộng lớn dưới nhãn hiệu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, qua đó, thấm nhiễm sâu sắc vào đáy sâu tâm thức của từng người; hậu quả là, ngay cả khi chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một thể chế và một ý thức hệ, đã bị phá sản, dư âm của nó vẫn còn lại. Sự kéo dài của dư âm ấy cũng đồng thời là sự kéo dài của họa độc tài.
Sự sùng bái của nhiều người dân Trung Quốc hiện nay đối với thần tượng Mao Trạch Đông của họ chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kéo dài ấy.
Hiện tượng ấy lại cho thấy sự khó khăn và gập ghềnh trong tiến trình dân chủ hóa ở khắp nơi, đặc biệt, ở các nước độc tài từng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác.
Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, nói chung, có mấy đặc điểm chính: Một, đó là một xu hướng chung của thế giới. Giới nghiên cứu - đi tiên phong và tiêu biểu nhất là Samuel Huntington - chia tiến trình dân chủ hóa ấy thành từng đợt, giống như đợt sóng, hết đợt thứ nhất (từ khoảng 1810 đến khoảng 1922) đến đợt thứ hai (khoảng 1944-1957), thứ ba (khoảng từ 1974 đến đầu thập niên 1990), và gần đây, với sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông và châu Phi, nhiều người lại nói đến đợt sóng dân chủ thứ tư. Hai, tuy nhìn chung, các đợt sóng dân chủ hóa ấy có sức mạnh mãnh liệt, hết càn quét chế độ độc tài ở nước này lại càn quét chế độ độc tài ở nước khác, tiến trình dân chủ hóa vẫn có những thoái trào nhất định: thay vì phát triển theo đường thẳng, nó lại chạy lòng vòng hoặc theo những đường cong đầy khúc khuỷu, như những gì chúng ta đang nhìn thấy ở các nước Hồi giáo Trung Đông và Bắc Phi. Ba, trong sự phát triển của dân chủ, có một số nơi dường như may mắn, ở đó, dân chủ một khi đã xuất hiện cứ ngày một nảy nở xum xuê; ở một số nơi khác, ngược lại, nó cứ còi cọc, quặt quẹo, lúc nào cũng có nguy cơ bị chết héo.
Đặc điểm thứ ba vừa nêu thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt câu hỏi: Tại sao? Tại sao dân chủ có thể phát triển dễ dàng ở nơi này hơn ở nơi khác? Tại sao, trên lý thuyết, dân chủ nhắm đến việc phát huy quyền tự do của mỗi người, đáng lẽ mọi người phải hân hoan đón nhận, thế nhưng, ngược lại, nhiều người, rất nhiều người, kể cả những người thiếu tự do nhất, lại dửng dưng, thậm chí, run sợ, muốn quay mặt đi? Tại sao?
Tất cả những câu hỏi tại sao ấy lại dẫn đến một câu hỏi khác: Vậy, điều kiện, hoặc những điều kiện chính của dân chủ là gì?
Câu hỏi này sẽ dẫn đến một câu hỏi khác có tính thực dụng và thực tiễn hơn: Để xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, yếu tố nào cần được xây dựng trước?
Trong cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào (How East Asians View Democracy) do Columbia University Press xuất bản năm 2010, các nhà biên tập, Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan và Doh Chull Shin, trong lời giới thiệu, đã chia cuộc hành trình nhận thức về dân chủ thành ba giai đoạn chính:
Thứ nhất, giai đoạn đầu, từ thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, các lý thuyết gia cho rằng có nhiều yếu tố tác động đến quá trình tiến hóa của dân chủ, trong đó, có yếu tố văn hóa chính trị. Đi tiên phong trong giai đoạn này là Dankwart Rustow, người cho rằng cuộc dân chủ hóa nào cũng bắt đầu, trước hết, bằng sự thống nhất của quốc gia, sau đó, bằng việc tranh đấu để chấm dứt sự bất bình đẳng về các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, sau đó, là quyết định xây dựng các thiết chế cần thiết cho dân chủ; và cuối cùng, mọi người, từ trí thức đến bình dân, dần dần làm quen với dân chủ để ứng xử theo các nguyên tắc dân chủ.
Thứ hai, suốt thập niên 1970 và thập niên 1980, không hiểu sao giới nghiên cứu lại xao nhãng yếu tố văn hóa chính trị. Mọi người đều chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội, những thay đổi trong giới trí thức và các thiết chế chính trị.
Thứ ba, từ thập niên 1990 đến nay, người ta lại chú ý đến văn hóa chính trị, hơn nữa, xem văn hóa chính trị như là yếu tố trung tâm trong tiến trình dân chủ hóa. Trong cái gọi là văn hóa chính trị ấy, người ta không những chỉ tập trung vào giới trí thức mà còn cả giới bình dân, nếu không muốn nói, đặc biệt là giới bình dân: Chính niềm tin và thái độ của giới bình dân là một trong những yếu tố quyết định vận mệnh của dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, hiện nay, phần lớn giới nghiên cứu về chính trị học đều tin là, để có dân chủ, người ta cần có nhiều thứ, ví dụ, một, sự thức tỉnh và dấn thân của giới trí thức; hai, sự phát triển của kinh tế phải đến một mức độ nào đó, để, một mặt, có một tầng lớp trung lưu tương đối mạnh, mặt khác, để mọi người không còn chỉ biết hùng hục lo cho miếng cơm manh áo, những nhu cầu sơ đẳng và nhỏ nhặt hằng ngày; ba, một môi trường quốc tế thích hợp và có tác động tích cực đến xu hướng dân chủ hóa; và bốn, quan trọng nhất, là thái độ của quần chúng.
Nhìn vào tình hình chính trị ở châu Á những năm gầy đây, các nhà nghiên cứu cho rằng hầu hết các nền dân chủ non trẻ ở đây đều gặp thử thách nghiêm trọng. Không kể Trung Quốc, nơi chưa có dân chủ, từ Hong Kong đến Đài Loan, từ Thái Lan đến Mông Cổ, từ Hàn Quốc đến Nhật Bản, ở đâu cũng có những đợt khủng hoảng, với những mức độ khác nhau, về dân chủ.
Lý do chính, theo các tác giả của cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào là vì nền tảng của tính chính đáng của dân chủ ở đó còn rất yếu ớt và mong manh. Một mặt, nhiều người dân vẫn nuối tiếc cái thời độc tài đã qua. Tự do gắn liền với cạnh tranh; cạnh tranh cần sự quyết liệt và có sự hơn thua rõ ràng: Những người thua cuộc, nhất là trong cuộc chạy đua về kinh tế và quyền lực, dễ có tâm lý bất mãn. Tâm lý này, thật ra, cũng rất dễ nhìn thấy ở Nga và Đông Âu hiện nay: người ta thấy cuộc sống dưới chế độ độc tài cộng sản trước đây có vẻ dễ dàng hơn, ở đó, ai an phận nấy, cứ đến tháng lại cầm sổ lương thực đi mua thịt mua cá, không phải tính toán hay cố gắng gì nhiều, dù với cái giá người ta phải trả là mất tự do. Mặt khác, người ta vẫn chưa quen với trò chơi dân chủ, chưa phục tùng quyết định của đa số, vẫn muốn dùng sức mạnh, hoặc bằng bạo lực hoặc của đám đông qua các cuộc xuống đường biểu tình để xóa bỏ kết quả của các cuộc bầu cử.
Điều cuối cùng vừa nêu thấy rõ nhất là ở Thái Lan. Cứ bất mãn chính phủ điều gì là người ta lại xuống đường biểu tình để đòi thay chính phủ, bất chấp sự kiện chính phủ ấy đã chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu trước đó. Xin lưu ý là ở các quốc gia có truyền thống dân chủ lâu dài và vững chắc ở Tây phương, người ta cũng thường xuống đường biểu tình nhưng mục tiêu của các cuộc biểu tình ấy là nhằm để gây sức ép làm thay đổi một số chính sách nào đó chứ không phải là thay đổi bản thân chính phủ. Việc thay đổi chính phủ, người ta để các lá phiếu quyết định.
Ở đây, chúng ta thấy có sự khác biệt quan trọng trong nội dung của văn hóa chính trị ở các nước đã có dân chủ, dù là dân chủ non trẻ và ở các nước chưa có dân chủ. Điều kiện để nuôi dưỡng dân chủ, ở các nước đã ít nhiều có dân chủ, là sự tin tưởng vào thể chế và giới hạn mục tiêu tranh đấu vào lãnh vực chính sách, trong khi đó, ở các nước chưa có dân chủ, điều kiện thiết yếu là sự bất tín nhiệm đối với thể chế hiện hữu và nhắm đến mục tiêu thay đổi thể chế.
Trong trường hợp thứ hai, tiến trình dân chủ hóa ở các nước chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác gặp nhiều khó khăn hơn, chủ yếu, vì áp lực của các huyền thoại giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vốn được hệ thống tuyên truyền của nhà nước nuôi dưỡng quá lâu. Với các huyền thoại ấy, người ta hoặc vẫn tiếp tục có ảo tưởng vào một tương lai tươi sáng nào đó hoặc đâm ra dễ dàng tha thứ cho các tội ác trong hiện tại, xem chúng như những cái giá cần phải trả cho một thiên đường mai hậu. Đó là chưa kể, vì sống quá lâu dưới ách độc tài, chỉ cần một lời hứa hẹn hoặc một sự thay đổi nho nhỏ, người ta đã thấy thỏa mãn.
Chính sự thỏa mãn ấy là dưỡng khí cần thiết của các chế độ độc tài.
Tương Lại Con Người Việt Nam Trong Xã Hội Chủ
Nghiã
Chào các bạn,
do các hoàn cảnh của người trẻ tuổi hoặc sinh
viên gây ra, hiện đang có 322 trẻ cô nhi được nuôi từ lúc thai nhi bị vứt bỏ
sọt rác, cột điện…..bởi 1 người mẹ tên
Hương tốt bụng. Tết có nhiều Bảo Mẫu xin về quê ăn Tết, nếu bạn nào không vê
quê & yêu trẻ, muốn làm điều ý nghĩa cho cuộc sống thêm thi vị hãy đến
chung tay
vì
trẻ thơ nhé. Ở đây các bạn có thể giúp trung tâm tắm em, thay bỉm, mặc quần áo
cho em, chơi đùa với em...tùy sức mình. Trung tâm có nơi ăn chốn ở cho các
tình
nguyện viên khách mời. Ai cũng có 1 tuổi thơ, tuổi thơ các cháu từ cõi chết về
đầy dữ dội Do các con rất đông, muốn hỗ trợ mẹ Hương 1 chút, bên mình sẽ đón
150
Con và muốn đem lại 1 cái Tết nhỏ nhỏ tại 250 Nguyễn Thị Minh Khai vào 3hpm
(24/01/2013). ** Định làm: - Hoạt động ăn uống (trung bình 80k/bé) – Cho
chơi
Lego (ráp hình nhựa) , chú Hề làm bong bóng… - Tặng phần quà nhỏ trị giá khoảng
50k/con Cả nhà ai muốn đóng góp: phụ tham gia cùng tổ chức, tặng quà
cho
các cháu hay đơn giản là ngắm nhìn các con chơi, chơi cùng con….đều được nhé.
Cây nhà lá vườn. LH chi tiết 0917114409 (Ms.) Betty Cohen PS NẾU ANH CHỊ
KHÔNG
THAM GIA ĐƯỢC NHỚ SHARE GIÚP ĐỂ CÁC MẠNH THƯỜNG QUÂN KHÁC BIẾT NHÉ. Happy New
Year 2014
Báo Hàn Quốc : Bình Nhưỡng xử
tử toàn bộ gia tộc Jang Song Thaek
Ảnh chụp ngày 16/02/ 2012, Kim Jong Un và tướng Jang Sung Thaek,
lúc còn đầy uy quyền.
© Reuters/Télévision coréenne.
Thanh Hà
Hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap ngày
26/01/2014 cho biết chị ruột của ông Jang Song
Thaek cùng chồng, con và cháu nội đã bị hành quyết vào khoảng tháng 12/2013,
chỉ vài ngày sau khi nhân vật số 2 của chính quyền Bắc Triều Tiên bị thanh trừng. Bộ Thống nhất Hàn Quốc chưa xác định tin trên.
Trích dẫn một nguồn tin giấu tên, hãng
Yonhap cho biết chính lãnh đạo tối cao Bắc Triều Tiên « Kim Jong Un đã ra lệnh hành quyết toàn bộ dòng tộc và gia đình
Jang Song Thaek », chồng của cô ruột ông ta.
Tướng Jang từng là Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, cơ quan được coi là có quyền lực mạnh nhất ở Bắc Triều Tiên và ông
này thường được xem là nhân vật số 2 trong hàng ngũ
lãnh đạo Bắc Triều Tiên.
Nguồn tin trên nói
thêm, lệnh « tru di » đã được áp dụng kể cả với những thành viên nhỏ tuổi nhất trong dòng họ Jang và lệnh đó hiện vẫn còn tính thời sự.
Cụ thể hơn, nguồn tin trên tiết lộ : Người chị ruột của ông Jang Song
Thaek là bà Jang Kye Sun cùng chồng là ông Jon
Yong Jin và 1 người con trai, hai đứa cháu nội đều đã bị triệu hồi về Bình Nhưỡng trước khi bị thủ tiêu.
Anh rể ông Jang Song Thaek, Jon
Yong Jin, đang là đại sứ của Bắc Triều Tiên tại Cuba. Còn người cháu gọi ông bằng cậu ruột đang giữ chức đại diện tối cao của chính quyền Bình Nhưỡng tại Malaysia.
Nhiều nguồn tin khác được báo Hàn Quốc, Korea Herald số đề ngày 27/01/2017
trích dẫn, cho biết thêm là ngoài việc triệt hạ toàn bộ gia đình người chị ruột của ông Jang Song
Thaek, chính quyền Bình Nhưỡng đã sát hại luôn toàn bộ gia đình người anh ruột của ông này. Ông anh của tướng Jang từng là một sĩ quan cao cấp của chế độ. Ông này đã qua đời vì bệnh tật. Trong đợt thanh trừng cuối năm 2013, Bình
Nhưỡng đã không dung tha cho con và cháu thuộc thế hệ sau ông Jang.
Giám đốc Trung tâm
nghiên cứu về Bắc Triều Tiên, Anh Chan
Il, được báo Korea Herald trích dẫn gắn liền việc Bình Nhưỡng tru di tam tộc gia đình ông
Jang Song Thaek có thể được gắn liền với chính sách cứng rắn của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên : Chính
quyền Bình Nhưỡng muốn trả đũa việc Bắc Kinh giới hạn viện trợ cho Bắc Triều Tiên. Ông Jang từng được xem là một trong những nhân vật thân Bắc Kinh của chính quyền Bình Nhưỡng.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.