From: Lê Thăng Long -
Lincoln Lê <
Date: 2014-10-06 3:55 GMT-07:00
Subject: TÂM THƯ NGỎ ĐẶC BIỆT VẬN ĐỘNG THỰC HIỆN CHẾ TÀI NHÂN QUYỀN CHÍNH QUYỀN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI VIỆT NAM - 3
To: Khoi8406hoaky
Date: 2014-10-06 3:55 GMT-07:00
Subject: TÂM THƯ NGỎ ĐẶC BIỆT VẬN ĐỘNG THỰC HIỆN CHẾ TÀI NHÂN QUYỀN CHÍNH QUYỀN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI VIỆT NAM - 3
To: Khoi8406hoaky
Thân gửi: Khối 8406 Hoa Kỳ
Tôi xin gửi “TÂM THƯ NGỎ ĐẶC BIỆT VẬN ĐỘNG THỰC
HIỆN CHẾ TÀI NHÂN QUYỀN CHÍNH QUYỀN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI VIỆT NAM” để quý vị quan tâm, ủng hộ và chia
sẻ cho cộng đồng. Dưới đây là Phần 3.
Xin cảm ơn và thân chào,
Sài Gòn – TP.HCM, 06/10/2014, Lê
Thăng Long – Lincoln Lê.
TÂM THƯ NGỎ ĐẶC BIỆT VẬN ĐỘNG THỰC HIỆN CHẾ TÀI NHÂN QUYỀN CHÍNH
QUYỀN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI VIỆT NAM
(Phần
3)
II/
LÝ DO CƠ BẢN THỨ 2 DẪN ĐẾN BUỘC PHẢI SỚM TIẾN HÀNH CHẾ TÀI NHÂN
QUYỀN ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI VIỆT NAM:
Thời gian
gần đây bắt đầu có khá nhiều người Việt Nam ở trong nước và nước
ngoài bàn tán khá rôm rả về vấn đề Hội nghị Thành Đô. Thông tin về
Hội nghị Thành Đô và những vấn đề bàn luận về nó trên mạng Internet
trong thời gian gần đây ngày càng nhiều. Bắt đầu có một làn sóng,
một phong trào mới xuất hiện tại Việt Nam và có xu hướng lan rộng
rất nhanh đó là phong trào với chủ đề: Tôi muốn biết! Hoặc là:
Chúng tôi muốn biết! Vậy người Việt Nam ngày nay muốn biết cái gì
vậy?! Tôi đã tìm hiểu qua một số thành viên tham gia cái phong trào:
“Tôi muốn biết!” và “Chúng tôi muốn biết!” này. Hóa ra là họ muốn
biết về sự thật Hội nghị Thành Đô.
Hội nghị
Thành Đô là cái hội nghị gì vậy?! Làm sao mà ngày nay bắt đầu có
nhiều người Việt Nam quan tâm đến như vậy?! Hội nghị Thành Đô có gì
quan trọng tới vận mệnh của dân tộc Việt Nam hay không?!
Đọc thông
tin trên mạng Internet và thu nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau
từ năm 1990 đến nay tôi cũng biết khá nhiều về vấn đề Hội nghị
Thành Đô. Tuy vậy tôi cũng mới chỉ biết một phần về sự thật Hội
nghị Thành Đô mà thôi. Mặc dầu mới chỉ biết được một phần nhỏ sự
thật nhưng tôi đã cảm nhận thấy ngay được là vấn đề Hội nghị Thành
Đô vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Bởi thế
ngày nay bắt đầu có nhiều người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài
quan tâm đến Hội nghị Thành Đô là lẽ đương nhiên. Tôi tin vấn đề Hội
nghị Thành Đô sẽ trở thành chủ đề bàn luận nóng nhất đối với đông
đảo người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài trong thời gian tới.
Vấn đề Hội nghị Thành Đô có lẽ là điều nhân dân Việt Nam sẽ còn
quan tâm hơn cả vấn đề Trung Quốc đem giàn khoan HD 981 vào vùng lãnh
thổ biển đảo của Việt Nam trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 năm
2014.
Hội nghị
Thành Đô được tổ chức tại thành phố Thành Đô thuộc Trung Quốc vào
năm 1990. Đây là một hội nghị bí mật họp cấp cao của 2 chính quyền
đảng Cộng sản Việt Nam độc tài và chính quyền đảng Cộng sản Trung
Quốc độc tài. Hội nghị Thành Đô này 2 bên Việt Nam và Trung Quốc đã
thỏa thuận bí mật rất nhiều vấn đề quan trọng quan hệ giữa 2
nước. Tôi không gọi đây là hội nghị bí mật giữa 2 chính quyền nhân
dân 2 nước Việt Nam và Trung Quốc.
Vì bản chất thật sự vào thời
điểm năm 1990 cả 2 nước Việt Nam và Trung Quốc đều chưa có chính
quyền thực sự là của nhân dân. Từ năm 1945 đến nay đảng Cộng sản
Việt Nam đã tiếm quyền, đã lừa gạt để cưỡng chiếm mất chính quyền
của nhân dân Việt Nam để trở thành chính quyền tựa như là của đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại Trung Quốc từ năm 1949 tới nay đảng Cộng sản
Trung Quốc cũng tiếm quyền, lừa gạt để cưỡng chiếm mất chính quyền
của nhân dân Trung Quốc để trở thành tựa như là chính quyền của đảng
Cộng sản Trung Quốc. Như vậy bản chất thật sự năm 1990 tại Hội nghị
Thành Đô đó chỉ là hội nghị thỏa thuận của 2 chính quyền: chính
quyền đảng Cộng sản độc tài Việt Nam và chính quyền đảng Cộng sản
độc tài Trung Quốc mà thôi. Khẳng định chắc chắn 100% toàn bộ nội
dung thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990 hoàn toàn không phải
là những thỏa thuận ký kết của chính quyền nhân dân 2 nước Việt Nam
và Trung Quốc.
Thưa quý
vị và các bạn!
Thời gian
gần đây đã có rất nhiều người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài
tỏ ra căm hận, tức giận về vấn đề Hội nghị Thành Đô. Tôi rất đồng
cảm, thông cảm với những nỗi bức xúc, uất hận đó của nhân dân Việt
Nam về vấn đề Hội nghị Thành Đô. Nếu quả thực những nội dung trên
mạng Internet nói về Hội nghị Thành Đô là hoàn toàn đúng thì đó là
những điều không thể nào có thể tha thứ được.
Thông tin
trên mạng Internet mô tả nội dung Hội nghị Thành Đô đó là những thỏa
thuận bán nước của chính quyền đảng Cộng sản độc tài Việt Nam.
Chính quyền đảng Cộng sản độc tài Việt Nam đã thỏa thuận ký kết
với chính quyền đảng Cộng sản độc tài Trung Quốc nhiều vấn đề bí
mật quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Trong những
thông tin đó có một số vấn đề đặc biệt quan trọng như sau đây:
1/ Xác
định tiến trình 30 năm từ năm 1990 đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành
một tỉnh tự trị thuộc Trung Quốc.
2/ Việt
Nam sẽ trở thành một bộ phận của gia đình lớn Trung Hoa. Khi đó mọi
người dân Trung Quốc được tự do sang Việt Nam: du lịch, sinh sống, ứng
cử, bầu cử, lãnh đạo chính quyền, mua bất động sản y hệt như là
người dân Việt Nam. Quân đội và công an Việt Nam sẽ trở thành một bộ
phận của quân đội và công an Trung Quốc. Chính quyền Việt Nam khi đó
tựa như chính quyền của một tỉnh thuộc Trung Quốc như: Quảng Đông,
Quảng Tây, Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông …
3/ Trong
giai đoạn quá độ từ năm 1990 đến năm 2020 chính quyền đảng Cộng sản
Việt Nam buộc phải tuân thủ sự chỉ đạo đường lối phát triển theo
sách lược và chiến lược của chính quyền đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cụ thể là:
3.1/ Phải
tiếp tục giữ vững quan điểm chính trị xã hội chủ nghĩa. Không đi
theo đường lối cải cách của hơn 20 quốc gia cộng sản châu Âu để từ
bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội.
3.2/ Việt
Nam tuyệt đối không được thân Mỹ và các quốc gia dân chủ khác.
3.3/ Việt
Nam phải đặc biệt ưu tiên phát triển quan hệ toàn diện chiến lược
tốt số 1 với Trung Quốc.
4/ Từng
bước từ năm 1990 đến năm 2020 trong giai đoạn quá độ Việt Nam phải cho
Trung Quốc cài người vào hầu hết các bộ máy lãnh đạo của mọi bộ
ngành của Việt Nam. Trung Quốc sẽ chỉ đạo việc gài người là tình
báo của Trung Quốc hoặc người Hoa ở Việt Nam vào bộ máy lãnh đạo
của Việt Nam.
5/ Toàn
bộ bộ máy nhân sự lãnh đạo cao cấp, quan trọng của Việt Nam khi muốn
bổ nhiệm phải trình Trung Quốc. Khi được Trung Quốc đồng ý thì Việt
Nam mới được phép cất nhắc bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp, quan trọng.
Những lãnh đạo chính quyền Việt Nam chống đối hoặc có ý chống đối
Trung Quốc phải bị loại bỏ ngay theo ý kiến của Trung Quốc.
6/ Đặc
biệt ưu đãi đối với Hoa kiều tại Việt Nam trên mọi phương diện: cuộc
sống, phát triển kinh doanh …
7/ Từng
bước cho phép Hoa Kiều đã về Trung Quốc giai đoạn chiến tranh biên
giới Việt Nam với Trung Quốc năm 1979 – 1988 trở lại sinh sống, nhập
lại quốc tịch Việt Nam.
8/ Việt
Nam không được hoặc hạn chế tối đa việc tuyên truyền về lịch sử Trung
Quốc đã xâm lược quân sự Việt Nam năm 1979 và lịch sử hơn 1 ngàn năm
Trung Quốc đã xâm lược đô hộ Việt Nam. Thay vì sử sách, báo chí tuyên
truyền về quá khứ lịch sử chiến tranh giữa 2 dân tộc Việt Nam với
Trung Quốc thì hãy tuyên truyền về lịch sử chiến tranh trong quá khứ
giữa Việt Nam với: Pháp, Nhật, Mỹ …
9/ Việt
Nam phải lùi đất cho Trung Quốc tại biên giới phía Bắc khi phân định
biên giới trên bộ với diện tích bằng ít nhất tương đương 1 tỉnh của
Việt Nam.
10/ Việt
Nam phải tuyệt đối không tuyên truyền, nhắc nhở gì đến việc Trung
Quốc đã xâm lược chiếm giữ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam.
11/ Còn
rất nhiều những thỏa thuận khác đã được ký kết bí mật giữa một
số lãnh đạo cấp cao của 2 chính quyền đảng Cộng sản độc tài Việt
Nam và chính quyền đảng Cộng sản độc tài Trung Quốc.
Vào thời
điểm năm 1990 tham gia đi dự và hậu trường quyết định thỏa thuận ký
kết với phía Trung Quốc thì Việt Nam chỉ có một số ít người đó
là: 1/ Đỗ Mười, 2/ Lê Đức Anh, 3/ Nguyễn Văn Linh, 4/ Phạm Văn Đồng.
Vậy 4 con người này vào thời điểm năm 1990 đã phải thực sự đầy đủ
pháp lý để đại diện quyền lợi cho toàn thể dân tộc Việt Nam hay
chưa?! Ký kết những thỏa thuận quan trọng về chủ quyền lãnh thổ và
nhiều việc quan trọng đối với dân tộc Việt Nam thì điều đó buộc
phải thể hiện được ý chí đồng tình của toàn thể nhân dân dân tộc
Việt Nam.
Dân tộc
Việt Nam có hơn 4 ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Để có
được lãnh thổ đất đai, biển đảo, vùng trời dân tộc Việt Nam đã phải
mất rất nhiều xương máu trong hơn 4 ngàn năm lịch sử. Dân tộc Việt Nam
là bao gồm nhân dân Việt Nam sống ở trong nước và Việt kiều sống ở
nước ngoài. Việt kiều hiển nhiên là máu, thịt, xương, là con đẻ của
dân tộc Việt Nam rồi. Lãnh thổ Việt Nam (đất đai, vùng biển, đảo,
vùng trời) chính là của hồi môn của nhiều thế hệ người Việt Nam
thuở trước trong hơn 4 ngàn năm lịch sử để lại cho thế hệ người Việt
Nam về sau. Do vậy không phải chỉ có nhân dân Việt Nam ở trong nước
được toàn quyền sở hữu, toàn quyền quyết định về chủ quyền lãnh
thổ. Việt kiều hoàn toàn có quyền bình đẳng để được quyền chia
thừa kế của hồi môn lãnh thổ dân tộc Việt Nam do nhiều thế hệ người
Việt Nam trong hơn 4 ngàn năm lịch sử để lại. Ví như theo luật: con
gái đi lấy chồng, ở nhà chồng nhưng đến khi cha mẹ mất đi vẫn có
quyền quay trở về nhà cha mẹ đẻ để được quyền chia thừa kế tài sản
do cha mẹ để lại vậy. Mọi ký kết về lãnh thổ của Việt Nam với
quốc gia khác chỉ thực sự đầy đủ pháp lý khi có sự trưng cầu dân
ý, đồng ý của tất cả nhân dân Việt Nam ở trong nước và Việt kiều ở
nước ngoài trước khi ký kết. Như vậy việc 4 cái ông: Phạm Văn Đồng,
Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh khi ký kết nhiều vấn đề quan
trọng tại Hội nghị Thành Đô năm 1990 hoàn toàn không có đủ tư cách
pháp lý vì:
a/ Bốn
cái ông đó là đại diện của chính quyền đảng Cộng sản độc tài Việt
Nam chứ chưa phải là đại diện của chính quyền nhân dân Việt Nam.
b/ Không
có sự trưng cầu dân ý công khai, rộng rãi và được sự đồng ý của
toàn thể nhân dân Việt Nam ở trong nước cùng tất cả Việt kiều ở
nước ngoài.
c/ Việc
ký kết những điều khoản quan trọng giữa 2 dân tộc, 2 nước Việt Nam
với Trung Quốc buộc phải được sự đồng ý, công khai, rộng rãi cho
toàn thể nhân dân và Việt kiều của 2 nước Việt Nam và Trung Quốc
cùng biết, cùng đồng ý thì mới là hợp pháp.
d/ Nếu
là việc đàng hoàng chính đại tại sao lại phải ký kết bí mật, tại
sao lại không thông báo ngay lập tức trong năm 1990 cho toàn thể nhân dân
Việt Nam ở trong nước và Việt kiều cùng biết.
e/ Việc
ký kết những điều khoản quan trọng như Hội nghị Thành Đô năm 1990
đáng lý 2 nước Việt Nam và Trung Quốc buộc phải thông báo cho Liên
hợp quốc, ASEAN và toàn thể cộng đồng thế giới biết mới phải.
f/ Theo
thông lệ quốc tế những thỏa thuận ký kết quan trọng giữa 2 quốc gia
dân tộc tương tự như Hội nghị Thành Đô năm 1990 giữa Việt Nam với Trung
Quốc thì cần phải có được sự làm chứng của rất nhiều thành phần
như:
f.1/ Đại
diện Liên hợp quốc.
f.2/ Đại
diện Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
f.3/ Đại
diện Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc.
f.4/ Đại
diện tòa án công lý quốc tế.
f.5/ Đại
diện của ASEAN.
f.6/ Đại
diện ngoại giao của chính phủ nhiều quốc gia khác trên thế giới.
f.7/ Đại
diện đông đảo nhân dân 2 nước, 2 dân tộc Việt Nam và Trung Quốc.
Hiện nay
đông đảo nhân dân Việt Nam ở trong nước và Việt kiều cùng bè bạn
quốc tế đã cho rằng 4 cái ông: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Lê Đức Anh thực sự đã bí mật, qua mặt, lừa gạt toàn thể nhân
dân Việt Nam ở trong nước và Việt kiều để ký kết thỏa thuận bán
nước cho Trung Quốc.
Có một
số nguồn tin họ cho rằng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng từ
rất lâu rồi đã là những tên gián điệp của Trung Quốc được gài “trèo
cao chui sâu” vào bộ máy chính quyền Việt Nam.
Về logic sự
việc với những thông tin nêu trên về Hội nghị Thành Đô thì thông tin về các ông
nói trên khá thuyết phục với nhiều người. Tuy nhiên quan điểm của cá nhân
tôi hiện thời lại thiên về hướng cho rằng: Tại thời điểm năm 1990 khi các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nước Nga (Liên Xô cũ) không còn “chống lưng”
cho Việt Nam về nhiều lĩnh vực, trong khi Việt Nam chưa thân được với Mỹ và các
nước dân chủ, do đó đây là một bước lùi của các vị này để tránh tai họa cho Việt
Nam. Tại thời điểm đó, các vị này bị Trung Quốc dồn ép vào bước đường cùng, nên
họ buộc phải tính kế nếu Việt Nam không tạm lùi, chấp nhận tạm mất một phần, giả
vờ cầu hòa, tìm kế hoãn binh, thì sẽ bị Trung Quốc xâm chiếm và sáp nhập toàn bộ
đất nước một cách dễ dàng vì lúc đó thế nước quá yếu. Các vị đó đã cho rằng hậu
thế sẽ tìm cách hóa giải vấn đề này cho tiền nhân?! Tôi mong rằng hai ông Đỗ Mười,
Lê Đức Anh còn sống hãy sớm chia sẻ, giải trình công khai minh bạch cho tôi và
nhân dân Việt Nam những điều này để mọi người được tỏ tường, tránh những hiểu lầm
về các tiền nhân!
Tôi chưa
có quyền lực lớn, chưa có cơ quan an ninh mật vụ trong tay để có thể
tiến hành điều tra xác minh lại toàn bộ những nguồn tin mà tôi đã
thu nhận được về nội dung thật sự của Hội nghị Thành Đô năm 1990
cùng với nguồn gốc bản chất 4 con người: Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê
Đức Anh, Nguyễn Văn Linh. Tôi đề nghị dân tộc Việt Nam (nhân dân Việt
Nam ở trong nước và Việt kiều) hãy sớm thành lập được chính quyền
thực sự là của nhân dân Việt Nam. Sau đó chỉ có cơ quan an ninh thực
sự là của nhân dân Việt Nam mới có đủ thẩm quyền để điều tra, xác
minh lại gốc gác lai lịch bản chất của 4 ông: Phạm Văn Đồng, Đỗ
Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh.
Cả 2
nước Việt Nam và Trung Quốc cần sớm thực hiện dân chủ hóa toàn diện
để sớm có chính quyền thực sự là của nhân dân. Chỉ có chính quyền
thực sự là của nhân dân thì 2 nước Việt Nam và Trung Quốc mới có đủ
cơ sở pháp lý để ký kết những điều khoản quan trọng giữa 2 nước về
chủ quyền lãnh thổ hoặc sáp nhập Việt Nam trở thành 1 tỉnh tự trị
trực thuộc Trung Quốc.
Những điều
đã cam kết tại Hội nghị Thành Đô năm 1990 của các ông: Phạm Văn Đồng,
Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh chỉ là đại diện cho đảng Cộng
sản Việt Nam và chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam để ký kết
với Trung Quốc. Đó hoàn toàn không phải là cam kết của toàn thể nhân
dân Việt Nam vì 4 ông: Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn
Linh chưa phải là đại diện của chính quyền nhân dân Việt Nam.
Lý do
gì?! Nguyên nhân nào mà Hội nghị Thành Đô năm 1990 lại phải tổ chức
bí mật?! Tại sao từ năm 1990 đến nay đã gần 30 năm rồi mà chính
quyền đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa hề công bố công khai rộng rãi
toàn bộ nội dung đã ký kết ở Hội nghị Thành Đô cho toàn thể nhân
dân Việt Nam ở trong nước và Việt kiều cùng bè bạn quốc tế biết?!
Vậy phải chăng là 4 ông: Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn
Văn Linh đã qua mặt toàn thể đồng bào Việt Nam và toàn bộ đảng viên
đảng Cộng sản Việt Nam, công chức chính quyền Việt Nam. Cho đến nay
khoảng 3,9 triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam và khoảng 2 triệu
công chức chính quyền Việt Nam còn bị mù tịt không hiểu gì mấy về Hội
nghị Thành Đô.
Đã đến
lúc rất bức thiết, cấp bách cần phải sớm công bố công khai rộng rãi
toàn bộ nội dung đã ký kết, đã bàn ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 cho
toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, toàn thể
đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam và công chức chính quyền Việt Nam
cùng bè bạn quốc tế được biết.
Tôi bán
nước là tội không thể nào tha thứ. Nếu lỡ bán nước mà biết hối
lỗi và biết ra sức khắc phục hậu quả đã gây ra thì sẽ được giảm
một phần tội lỗi. Dân tộc, nhân dân Việt Nam nay yêu cầu, bắt buộc
những ai tham gia, những ai biết rõ về Hội nghị Thành Đô buộc phải
sớm lên tiếng công bố toàn bộ nội dung đã bàn, đã ký kết tại Hội
nghị Thành Đô năm 1990. Dân tộc, nhân dân, bè bạn quốc tế cần sớm
biết để có kế hoạch tốt nhằm sớm tháo gỡ mọi vướng mắc, bế tắc
do lỡ sai lầm ở Hội nghị Thành Đô.
Tôi không
được đi dự Hội nghị Thành Đô năm 1990. Những thông tin từ nhiều nguồn
mà tôi nhận được về Hội nghị Thành Đô từ năm 1990 đến nay tôi cũng
chưa dám tin đó là hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn chính xác. Những
quan sát thực tế những gì đã diễn ra từ năm 1990 đến nay thì nhận
thấy đã có rất nhiều nội dung mà tôi vửa nêu trong bài viết này về
Hội nghị Thành Đô năm 1990 đã trở thành hiện thực.
Dân tộc,
nhân dân Việt Nam và bè bạn quốc tế không thể nào ngồi im chờ đợi
đến năm 2020 (tức chỉ còn 5 năm nữa) Việt Nam sẽ chính thức trở
thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc, Việt Nam sẽ không còn là một
quốc gia độc lập có tên trên bản đồ thế giới nữa.
Nếu Hội
nghị Thành Đô đã ký kết những nội dung như tôi vừa nêu thì thật sự
đó chính là sự ký kết bán nước của một số nhà cầm quyền độc tài
đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đó họ đã phản bội, lừa gạt dân tộc và
nhân dân Việt Nam. Hầu hết gần 4 triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt
Nam, gần 2 triệu công chức chính quyền Việt Nam, trên 90 triệu nhân dân
Việt Nam ở trong nước và gần 5 triệu Việt kiều đều bị lừa vì họ
không được biết, không được tham gia, không đồng ý với những nội dung
đã được ký kết ở Hội nghị Thành Đô.
Dân tộc
Việt Nam có hơn 4 ngàn năm lịch sử. Trong hơn 4 ngàn năm lịch sử ấy
có hơn 1 ngàn năm dân tộc Việt Nam bị dân tộc Trung Quốc xâm lược đô
hộ dã man, tàn bạo. Nhiều thế hệ người Việt Nam bị đau khổ do dân
tộc Trung Quốc xâm lược đô hộ trong hơn 1 ngàn năm lịch sử chưa đủ hay
sao?! Phải chăng dân tộc Việt Nam ngày nay mong muốn bị dân tộc Trung
Quốc tiếp tục cai trị, đô hộ?!
Với tôi
cho dù thà chết, nhất định chiến đấu chứ không bao giờ chấp nhận cho
phép dân tộc Trung Quốc xâm lược đô hộ cai trị nhân dân Việt Nam một
lần nữa.
Thời
gian gần đây chính quyền đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ
hơn biểu hiện về sự nhu nhược trước Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc,
ý đồ bán nước ngày càng lộ rõ ở một số quan chức chính quyền
đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là một trong những lý do dẫn tới
cần thiết, buộc phải sớm tiến hành chế tài nhân quyền tại Việt Nam.
(Hết
Phần 3)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.