Việt Nam cần gì và cần làm gì trong quan hệ với Hoa Kỳ?
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-07
2014-10-07
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến
của Bạn
- Email
10072014-kinhhoa.mp3
Tổng thống Mỹ Barack
Obama tiếp Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tại White House, Washington, DC
hôm 25/7/2013
AFP photo
Giáo sư Jonathan
London hiên đang giảng dạy tại Đại học Thành thị Hồng Kong, là một người từng
làm việc và nghiên cứu nhiều năm ở Việt Nam.
Sau khi lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ
đối với Việt Nam được dỡ bỏ một phần, ông có viết một bài phân tích những điểm
mà Việt Nam có lợi khi mối quan hệ Việt Mỹ được cải thiện. Bài viết này được
dịch và phổ biến trên truyền thông trong nước.
Từ Hồng Kong, Giáo
sư Jonathan London dành cho Kính Hòa cuộc phỏng vấn làm rõ thêm những quan điểm
của ông về mối quan hệ Việt Mỹ.
Kính Hòa:
Thưa ông Jonathan London, nhân bài viết của ông được truyền thông trong nước
dịch lại, về quan hệ Việt Mỹ sau khi lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam của
Mỹ được dỡ bỏ một phần, ông có thể giải thích thêm về điều mà ông nói là Niềm
tin đáng tin cậy và bền vững mà Việt Nam cần, là như thế nào?
GS Jonathan London:
Từ trước đến nay chiến lược của Việt Nam là làm bạn với mọi nước, đa phương đa
dạng. Nhưng ý tôi muốn nói là muốn có quan hệ tốt là một điều nhưng nếu không
có một quan hệ đáng tin cậy thì những quan hệ kia có một giá trị nhất định mà
thôi. Mà nếu có một sự cố nào đó thì khó có thể nhờ một nước thứ hai hay thứ ba
để giúp mình. Những quan hệ như vậy chỉ phát triển đến mức sơ bộ mà thôi.
Dù chúng ta có
những quan điểm khác nhau thì chúng ta cũng có thể đồng ý là Việt Nam hiện nay
có một số điều trong thể chế của đất nước cần phải thay đổi.
- GS Jonathan London
- GS Jonathan London
Thực sự Việt Nam
muốn có một quan hệ sâu với Mỹ là một điều rất hứa hẹn, và nếu nó là thực sự
quan trọng thì phải đưa vào sự hiểu biết lẫn nhau chứ không nên là một quan hệ
mang tính tượng trưng.
Kính Hòa:
Thưa ông đây có phải là một cách nói về một từ khác là đồng minh không?
GS Jonathan London:
Vâng đúng rồi! Chúng ta có thể đồng ý là Việt Nam vẫn có một lập trường là
không có một đồng minh nào, lý do cũng có thể hiểu là vị trí địa lý của Việt
Nam, rồi quan hệ với Trung quốc, … Nhưng rất khó có thể có một sức mạnh nếu
chúng ta không có đồng minh.
Tôi nghĩ là hy
vọng của Việt Nam là chúng ta đang ở trong một thời đại đa phương. Đó là
một ý rất là hay nếu không muốn nói là lãng mạn (cười).
Nhưng thực tế thì
sau cùng thì cũng phải có những người bạn thân thiết, nếu không thì rất khó để
đối phó với những thách thức.
Kính Hòa:
Trong bài viết của ông có một đoạn nói rằng giữa hiện tại của Việt Nam và
tương lai thịnh vượng của Việt Nam thì cần nhiều quyết định quan trọng về phát
triển thể chế. Ở đây có hàm ý sự khác biệt về thể chế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
không, hay là cũng hàm ý rằng có những vấn đề về nhân quyền mà Việt Nam cần
phải giải quyết không thưa ông?
Ngoại trưởng Mỹ
John Kerry (phải) tiếp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình
Minh tại Washington DC hôm 02 tháng 10 năm 2014. AFP photo
GS Jonathan London:
Vâng, thì vấn đề thể chế của Việt Nam là một vấn đề hết sức quan trọng như
nhiều người đã đồng ý kể cả một số người trong chính quyền của Việt Nam. Nhưng
vấn đề này có thể xem ở những khía cạnh khác nhau.
Dù là có những vấn
đề cực lớn như là thể chế chính trị nên là như thế nào, hoặc là Hiến pháp của
Việt Nam hiện nay có những đặc trưng phù hợp với một nước hiện đại văn minh hay
không. Những vấn đề này cũng đã được tranh luận rất nhiều, và tôi cũng có những
ý kiến, chẳng hạn như vấn đề trong hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay
thiếu minh bạch, tôi cũng là một người rất là lo về những vấn đề nhân quyền ở
Việt Nam.
Dù chúng ta có
những quan điểm khác nhau thì chúng ta cũng có thể đồng ý là Việt Nam hiện nay
có một số điều trong thể chế của đất nước cần phải thay đổi. Nếu không thay đổi
thì Việt Nam rất khó mà khắc phục những vấn đề chủ chốt về quản lý kinh tế, vấn
đề phát triển, vấn đề quan hệ song phương, đa phương …
Trước đây tôi đã
lý luận rằng nếu Việt Nam muốn có sự ủng hộ của quốc tế trong những tranh chấp
với Trung quốc thì phải cải cách, phải đề cập thực sự đến những hạn chế của thể
chế của đất nước hiện nay như tự do báo chí, nhân quyền, v.v…
Thực sự Việt Nam
muốn có một quan hệ sâu với Mỹ là một điều rất hứa hẹn, và nếu nó là thực sự
quan trọng thì phải đưa vào sự hiểu biết lẫn nhau chứ không nên là một quan hệ
mang tính tượng trưng.
- GS Jonathan London
- GS Jonathan London
Tôi hiện nay đang
cố gắng xem thế nào có thể mở một cuộc thảo luận cởi mở về những vấn đề nhạy
cảm này ở Việt Nam.
Bởi vì tình hình hiện nay khá là khác so với trước. Chẳng
hạn như có những người trong bộ máy nhà nước cũng sẳn sàng chấp nhận thay đổi.
Điều đó không có nghĩa là nó giống hoàn toàn quan điểm của những người đứng bên
ngoài bộ máy, nhưng việc mà chúng ta thảo luận công khai những vấn đề này cũng
là một sự phát triển tốt.
Nói thế không có
nghĩa là tôi không lo lắng những vấn đề trong nước, chẳng hạn như những người
bị công an bắt, bị sách nhiễu, v.v… vẫn còn.
Kính Hòa:
Xin ông cho câu hỏi cuối cùng là sau chuyến thăm của Bộ trưởng ngoại giao
Việt Nam thì sắp tới, trong tương lai gần, ông có dự đoán là có một chuyến thăm
để thúc đẩy quan hệ lên cao hơn không?
GS Jonathan London:
Có nhiều người dự báo là có thể sang năm Tổng thống Barrack Obama sẽ sang thăm
Việt Nam trong thời điểm mà có những cuộc đàm phán khác nhau trong khu vực Đông
Á. Nhưng sự quan trọng và nội dung chuyến thăm đó phụ thuộc vào những sự kiện
và phát triển từ đây đến đó, còn quá sớm để mà đánh giá. Bởi vì có quá nhiều sự
phát triển chính trị trong bộ máy của Việt Nam. Hiện nay thì chính trị của Việt
Nam rất thú vị dù rất khó đọc, khó biết, khó đoán … (cười)
Kính Hòa:
Cám ơn ông đã dành thời giờ cho đài Á Châu Tự Do.
__._,_.___
Ai quyết định Ngoại trưởng Minh đi Mỹ?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng Gửi
cho BBC từ Sài Gòn
- 7 tháng
10 2014
Cũng sau 7 năm tính từ
thời điểm gia nhập WTO 2007, mới có một bộ trưởng ngoại giao Việt Nam mang về
cho nước nhà tấm huy chương “thành tích đàm phán song phương” có chút dư vị với
người Mỹ.
Tuy thế, chút dư âm còn
lại mà người ta muốn biết là làm sao ông Phạm Bình Minh đến được Hoa Kỳ, trong
khi cách đây không lâu chuyến đi của ủy viên trung ương đảng này còn bị hoãn
lại chưa biết đến khi nào.
Đi sau đảng
Đáng lý, ông Phạm Bình
Minh đã được “về nhà” từ tháng 6/2014 khi nhận lời mời trực tiếp của Ngoại
trưởng John Kerry, ngay sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc tiến
chiếm Biển Đông. Nghe nói chuyến khởi hành hụt này đã được sắp lịch và ngoại
trưởng Việt Nam đã chuẩn bị hành lý, chỉ còn chờ lên xe ra sân bay Nội Bài.
Thế nhưng cũng nghe nói
có một yêu cầu kín đáo nào đó khiến ông không thể dứt áo ra đi được. Thay vào
đó, ông Minh lại phải dự tiếp Dương Khiết Trì là ủy viên quốc vụ viện Trung Hoa
ở Hà Nội, hoặc tiếp xúc căng cứng và chán ngắt với bộ trưởng ngoại giao Trung
Quốc là Vương Nghị mà giới blogger mô tả “những đôi mắt mang hình viên đạn”.
Bất chấp sự có mặt đột
xuất ở Hà Nội của hai thượng nghị sĩ John McCain và Whitehouse, cùng sau đó là
Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ Martin Dempsey, vai trò của
Trung Quốc đã lấy lại thế lấn lướt kể từ thời điểm Dương Khiết Trì sang Việt
Nam “vấn an” những người có cùng ý thức hệ.
Chỉ vào cuối tháng 9,
đầu tháng 10/2014, vai trò của ông Phạm Bình Minh mới thực sự phần nào có ý nghĩa,
ít ra cũng trên danh nghĩa khi được Bộ chính trị chấp thuận cho đàm phán song
phương với Hoa Kỳ.
Nhưng ngay trước chuyến
“về nhà”, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh lại “phải” tham dự
hai sự kiện ở Quảng Tây vào trung tuần tháng 9/2014 nhằm “thúc đẩy hợp tác giữa
Việt Nam và Trung Quốc”. Chuyến “Bắc du” này diễn ra chỉ ít ngày sau chuyến
công du Bắc Kinh gây tranh luận đặc biệt của “Đặc phái viên Tổng bí thư” Lê
Hồng Anh.
Hệ quả nối tiếp nhau của
những chuyến công du hướng Bắc và sang Tây có thể coi là rõ mồn một.
Sự thể đó càng có vẻ
“minh bạch” hơn bằng vào cá tính thích trưng bày thể diện của những người bên
đảng. Gần như cùng lúc với sự có mặt ở Washington của ông Phạm Bình Minh, một
phái đoàn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng xuất hiện ở Hàn Quốc, với kết
quả đặc biệt nhất sau 21 phát đại bác là phía Việt Nam đã đồng thuận với Hàn
Quốc trong tuyên bố chung về “không chấp nhận” (có người dịch là “không dung
thứ”) việc CHDCND Triều Tiên leo thang vũ khí hạt nhân và đe dọa nền hòa bình
quốc tế.
Cùng lúc, những tờ báo
đảng như Quân Đội Nhân Dân bắt đầu hy vọng về “niềm tin đối tác hợp tác chiến
lược” giữa Việt Nam với một quốc gia đồng minh quân sự truyền thống của Mỹ là
Hàn Quốc. Ngược lại, bình diện ngoại giao Việt Nam - Triều Tiên đang có nguy cơ
bị “đảo chính”.
Đảng đang quyết
định
Nhìn lại, có thể nhận ra
việc ông Phạm Bình Minh đã chỉ đến Washington sau khi một người cùng họ nhưng
có cấp bậc trong đảng cao hơn hẳn ông - ủy viên bộ chính trị - đi Hoa Thịnh Đốn
vào cuối tháng 7/2014.
Nhiều khả năng, quyết
định công du cho ông Phạm Bình Minh không hẳn do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một
mình quyết định. Sự thể này là khác khá nhiều với thời gian cuối năm 2013, khi
ông Nguyễn Tấn Dũng một mình đi New York để bàn về TPP và “quy chế thị trường
đầy đủ” cho Việt Nam.
Tương quan so le về quan
hệ đối ngoại như thế cũng phần nào phản ánh cục diện có vẻ bất cân xứng về đối nội
hiện nay giữa Chính phủ và những người bên đảng.
Tuy thế, cũng có thể
hiểu là mặc dù không chiếm thế thượng phong, nếu không nói là ngược lại, trong
các cuộc tiếp xúc song phương Việt - Mỹ từ tháng 7/2014 đến nay, việc gia tăng
quan hệ với Mỹ cũng làm cho những người bên chính phủ cảm thấy hài lòng hơn,
tuy có thể còn ít ỏi so với tham vọng “Mỹ tiến” của họ.
Câu hỏi trước mắt là với
những nước cờ có tính gia tốc của khối đảng từ tháng 7/2014 đến nay, liệu phía
chính phủ có dự liệu những quyết sách và cú nhảy nước rút nào để ít nhất trung
hòa trạng thái win win – chúng ta cùng thắng?
Bài viết thể hiện quan
điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do tại thành phố Hồ Chí
Minh.
__._,_.___
Xưa "Chống Mỹ Cứu Nước" – Giờ Sao Núp Rãnh Mương? - Lão Móc
http://vietduongnhan.blogspot.com.au/2013/06/xua-chong-my-cuu-nuoc-gio-sao-nup-ranh.html
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.