Ảnh
hưởng của các đập trên phụ lưu sông Mekong
Nguyễn Minh Quang
Tháng 10 năm 2014
Tác giả là Kỹ sư Công
chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của Tiểu bang California. Tốt
nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm
1972; Trưởng ty Kế hoạch của Ủy ban Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và
Giao thông đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học
Nebraska, Hoa Kỳ năm 1985; Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị
Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990, Kỹ sư Giám sát
trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố
vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.
LỜI DẪN NHẬP
Việc xây dựng 11 đập
thủy điện trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong do Ủy ban Quốc tế Mekong
(Mekong Committee) đề nghị năm 1994 [1] và quyết định của Lào trong việc tiến
hành 2 trong số các đập đó – đập Xayaburi ở Bắc Lào năm 2007 [2] và đập Don
Sahong ở Nam Lào năm 2008 [3] – đã gặp sự chống đối mạnh mẽ của ngư/cư dân Thái
Lan ở ven sông (Hình 1); của các tổ chức môi trường trên thế giới như Quỹ Bảo
tồn Thiên nhiên Thế giới (World Wildlife Fund (WWF)),
Hệ thống Sông ngòi Quốc
tế (International Rivers Network (IRN)), Oxfam Australia, Hãy Cứu sông Mekong
(Save the Mekong (STM))…; và nhất là của Việt Nam. Các tổ chức môi trường và
Việt Nam – dựa theo thẩm định của Trung tâm Quản trị Môi trường Quốc tế
(International Centre for Environmental Management (ICEM)) [4] – yêu cầu Lào
hoãn việc xây đập trong 10 năm để nghiên cứu thêm những ảnh hưởng tai hại của chúng,
nhất là sự tồn vong của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam (ĐBSCL) [5-8].
Hình 1. Phản đối việc xây đập Don Sahong [Ảnh: Internet]
Đối với các đập trên
phụ lưu sông Mekong trong lãnh thổ Thái Lan, Lào, Cambodia, và Việt Nam, sự
chống đối của các tổ chức môi trường có vẻ rất nhẹ nhàng, chỉ tập trung vào
việc bồi thường cho người dân tái định cư và ảnh hưởng ở trong vùng xây đập,
như trường hợp của đập Nam Theun 2 ở Lào [9] và đập Hạ Se San 2 ở Cambodia
[10].
Phía Việt Nam thì hoàn toàn im lặng, có lẽ vì Việt Nam đã xây nhiều đập
thủy điện trên Se San và Sre Pok (phụ lưu sông Mekong ở Cao nguyên Trung phần)
[11] hoặc vì “chánh sách”“không nên xây dựng thủy điện trên dòng chính, mà
chỉ nên xây dựng trên dòng nhánh [phụ lưu],” qua lời tuyên bố của Giáo
sư Tiến sĩ Phạm Hồng Giang, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, hiện là Chủ tịch Hội đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam [12].
Tại sao chỉ nên xây
dựng thủy điện trên phụ lưu mà không xây trên dòng chánh? Có phải vì các đập
thủy điện trên phụ lưu không có hoặc có ít ảnh hưởng hơn các đập trên dòng
chánh đối với các quốc gia ở hạ nguồn? Bài viết nầy có mục đích tìm hiểu về ảnh
hưởng của các đập đã và sẽ xây trên phụ lưu sông Mekong qua kết quả khảo sát
tại chỗ hoặc kết quả nghiên cứu đã được phổ biến và lý do tại sao các đập trên
phụ lưu không được chú ý bằng các đập trên dòng chính.
VÀI ĐẶC TÍNH CỦA SÔNG
MEKONG
Theo tài liệu của Ủy
hội sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) [13], sông Mekong dài 4.800 km,
đứng thứ 12 trên thế giới, phát nguyên từ Cao nguyên Tây tạng và chảy qua Trung
Hoa, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam. Khi đến Phnom Penh, sông
chia làm 2 nhánh – sông Tiền (Mekong) và sông Hậu (Bassac) – trước khi chảy vào
Việt Nam ở Tân Châu và Châu Đốc rồi đổ ra biển (Hình 2). Sông Mekong có lưu vực
rộng 795.000 km2 được chia làm 2 phần: thượng lưu vực nằm trong
Cao nguyên Tây tạng và Trung Hoa rộng 165.000 km2 và hạ lưu vực
nằm trong 5 quốc gia còn lại rộng 630.000 km2.
Thượng lưu vực hẹp và
sâu nên không có phụ lưu lớn. Hạ lưu vực trải rộng nên có nhiều phụ lưu. Các
phụ lưu quan trọng ở phía tả ngạn gồm có, từ thượng nguồn xuống hạ nguồn: Nam
Tha, Nam Ou, Nam Soung, Nam Khan, Nam Ngum, Nam Ca Ding, Xe Bang Fai, Xe Bang
Hieng và Se Done trong lãnh thổ Lào và Se Kong, Se San và Sre Pok (3S) trong
lãnh thổ Lào, Việt Nam và Cambodia. Các phụ lưu quan trọng ở hữu ngạn gồm có,
từ thượng nguồn xuống hạ nguồn: Nam Mae Kok, Nam Mae Ing, Songkhram, Nam Chi và
Nam Mun trong lãnh thổ Thái Lan và Tônlé Sap trong lãnh thổ Cambodia [14].
Hình 2. Lưu vực sông Mekong [13]
Sông Mekong có lưu
lượng trung bình tại cửa sông là 475 km3/năm, đứng thứ 10 trên thế
giới. Lưu lượng nầy bao gồm 16% từ Trung Hoa, 2% từ Miến Điện, 18% từ Thái Lan,
35% từ Lào, 18% từ Cambodia và 11% từ Việt Nam (Bảng 1). Hệ thống phụ lưu 3S có
lưu lượng cao nhất trong hạ lưu vực, chiếm hơn 25% lưu lượng trung bình hàng
năm của sông Mekong tại Kratie và giữ một vai trò then chốt đối với dòng chảy
của Tônlé Sap. Hệ thống phụ lưu Nam Chi và Nam Mun có lưu lượng thấp nhất,
chiếm 6% lưu lượng trung bình hàng năm của sông Mekong.
Bảng 1. Diện tích lưu vực và lưu lượng của sông Mekong
Những nghiên cứu gần
đây [15] cho thấy hầu hết phù sa ở ĐBSCL phát xuất từ vùng Tam Giang – vùng mà
3 con sông Mekong, Dương Tử, và Salween chảy gần nhau – ở Trung Hoa (40%) và
vùng Cao nguyên Trung phần ở Việt Nam (52%). Phần còn lại của lưu vực chiếm 8%.
Cao nguyên Khorat ở Thái Lan là vùng có độ phù sa rất thấp. Một nghiên cứu khác
ước tính 40% phù sa trong dòng chánh sông Mekong phát xuất từ thượng lưu vực,
40% từ hệ thống phụ lưu 3S, và 20% từ các phụ lưu còn lại trong hạ lưu vực
[16]. Dựa theo dữ kiện đo đạc độ phù sa và lưu lượng trong khoảng thời gian từ
1962 đến 1992, lượng phù sa trung bình hàng năm được ước tính vào khoảng 74,1
triệu tấn tại Chiang Sean, 73,0 triệu tấn tại Luang Prabang, 74,4 triệu tấn tại
Nong Khai, 97,5 triệu tấn tại Mukdahan, 166,0 triệu tấn tại Khong Chiam, và
151,1 triệu tấn tại Pakse [17]. Lượng phù sa trung bình hàng năm cho toàn hạ
lưu vực được ước tính khoảng 160 triệu tấn [15].
Hình 3. Các nhóm cá trong hạ lưu vực sông Mekong [18]
Có khoảng 850 loài cá
sống trong hạ lưu vực sông Mekong [15]. Chúng được chia làm 3 nhóm chính dựa
theo sinh thái và tập quán di cư của chúng (Hình 3). Nhóm “cá đen (black
fishes)” sinh sống trong sông rạch hoặc vùng ngập nước ven sông và ít di cư,
thí dụ như cá lóc, cá trê, và cá rô. Nhóm “cá trắng (white fishes)” di cư rất
xa trong các vùng ngập nước hoặc dòng chánh Mekong, thí dụ như cá chép, cá tra,
cá bông lau, cá ba sa. Nhóm “cá xám (grey fishes)” sinh sống trong vùng ngập
nước vào mùa lũ nhưng theo nước rút xuống các phụ lưu và không di cư xa, thí dụ
như cá tra vàng, cá trèn, cá tra sọc.
Những vùng ngập nước dọc theo phụ lưu
sông Mekong ở hạ nguồn Vientiane trong lãnh thổ Lào, Thái Lan và Cambodia được
xem là có ảnh hưởng quan trọng đối với sự sinh trưởng của di ngư (migrant
fish); trong khi dòng chánh sông Mekong ở hạ nguồn Vientiane, Biển Hồ và ĐBSCL
có ảnh hưởng quan trọng đến việc đánh bắt (Hình 4) [18]. Số lượng cá đánh bắt
trong hạ lưu vực sông Mekong được ước tính vào khoảng 1,9 triệu tấn trong năm
2000. Số lượng di ngư trung bình hàng năm trong hạ lưu vực sông Mekong được ước
tính khoảng 20.000 tấn trong lưu vực từ biên giới Trung Hoa đến Vientiane,
khoảng 500.000-600.000 tấn trong lưu vực từ Vientiane đến thác Khone, và khoảng
750.000-950.000 tấn trong lưu vực phía dưới thác Khone [19].
Hình 4. Vùng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và việc đánh bắt di
ngư [18]
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẬP TRÊN
PHỤ LƯU
Dựa trên các đặc tính
vừa nêu, đập trên phụ lưu – thường là đập tạo nên hồ chứa nước – có ảnh hưởng
rất lớn đối với tình trạng thủy học, lượng phù sa và thủy sản của hạ lưu vực
sông Mekong ở hạ nguồn Vientiane. Về phương diện thủy học, đập trên các phụ lưu
trong lãnh thổ Lào, Cambodia và Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến khoảng 60% lưu lượng
của sông Mekong khi chảy vào Việt Nam. Quan trọng nhất là các đập trên hệ thống
phụ lưu 3S vì chúng có ảnh hưởng đến 25% lưu lượng của sông Mekong ở Kratie và
có thể ảnh hưởng đến dòng chảy của Tônlé Sap từ sông Mekong vào Biển Hồ ở
Cambodia.
Về phương diện phù sa, những hồ chứa nước lớn của các đập trên hệ
thống phụ lưu 3S có ảnh hưởng đến 40% lượng phù sa của sông Mekong ở ĐBSCL; đặc
biệt là các đập ở Cao nguyên Trung phần, vì theo một nghiên cứu khác, chúng có
thể ảnh hưởng đến 52% lượng phù sa của sông Mekong. Về phương diện thủy sản,
đập trên phụ lưu có ảnh hưởng đến vùng sinh trưởng rộng lớn của nhóm di ngư
trong phụ lưu vực ở hạ nguồn Vientiane trong lãnh thổ Thái Lan, Lào, Cambodia
và Việt Nam.
Theo tài liệu của MRC
[16], có tất cả 11 vị trí trên dòng chánh và 125 vị trí trên phụ lưu có thể xây
đập trong hạ lưu vực sông Mekong. Các vị trí trên phụ lưu gồm có 91 vị trí ở
Lào, 7 vị trí ở Thái Lan, 12 vị trí ở Cambodia và 15 vị trí ở Việt Nam (Hình
5). Có 10 đập đã được xây ở Lào, 7 đập ở Thái Lan, 6 đập ở Việt Nam và 1 đập ở
Cambodia.
Ngoài ra, còn có 9 đập đang được xây ở Lào và 5 đập ở Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu trong tài liệu nầy cho thấy 56 đập được dự trù trên phụ lưu trong
vòng 20 năm tới có thể làm tăng lưu lượng trung bình hàng tháng trong mùa khô
của hạ lưu vực sông Mekong khoảng 357 m3/sec, làm giảm lưu lượng
trung bình hàng ngày trong mùa lũ của hạ lưu vực sông Mekong khoảng 887 m3/sec,
làm giảm số lượng nước chảy vào Tônlé Sap khoảng 1,787 triệu m3, và
làm giảm sản lượng cá đánh bắt hàng năm khoảng 142.000 tấn.
Hình 5. Vị trí có thể xây đập trong lưu vực sông Mekong [16]
Trong một nghiên cứu
khác [4], 77 đập được dự trù trên phụ lưu có thể làm giảm lượng phù sa của sông
Mekong ở Kratie từ 165 triệu tấn/năm xuống còn 88 triệu tấn/năm (khoảng 47%),
của vùng ngập lụt ở Cambodia từ 34 triệu tấn/năm xuống còn 18 triệu tấn/năm (47%),
và của vùng ngập lụt ở ĐBSCL từ 26 triệu tấn/năm xuống còn 14 triệu tấn/năm
(khoảng 46%). Sản lượng cá đánh bắt trong hạ lưu vực sông Mekong, được ước tính
khoảng 2,1 triệu tấn trong năm 2000, có thể giảm từ 150.000 đến 480.000 tấn/năm
trong năm 2015 nếu có 31 đập được xây trên phụ lưu và có thể giảm từ 210.000
đến 540.000 tấn/năm trong năm 2030 nếu có 61 đập trên phụ lưu được xây dựng.
Ảnh hưởng của đập Pak
Mun
Đập Pak Mun (Hình 6)
là đập thủy điện có công suất 136 MW được khởi công trong năm 1991 và hoàn tất
vào năm 1994. Nó là con đập sau cùng được xây trong lưu vực Nam Chi và Nam Mun,
một phụ lưu quan trọng của sông Mekong nằm trọn trong lãnh thổ Thái Lan với
diện tích 117.000 km2 (15% hạ lưu vực) và lưu lượng đo đạc
trung bình là 21,3 km3/năm (4,5% hạ lưu vực) [20]. Các con đập khác
gồm có Ubolrathana (thủy điện, 1965), Lam Pao và Lam Phra Phloeng (thủy nông,
1968), Lam Takhong (thủy nông, 1969), Sirinthorn (thủy điện, 1970), Chulaphon
(thủy điện, 1972), và Nam Nang Rong (thủy nông, 1991).
Hình 6. Đập Pak Mun [Ảnh: Internet]
Đập bằng bê tông, dài
300 m, cao 17 m, được xây cách hợp lưu với sông Mekong 5,5 km trong tỉnh Ubon
Ratchathani. Tuy là đập thủy điện dùng dòng chảy (run-of-the-river), nó cũng
tạo nên một hồ chứa rộng 60 km2 với dung tích 225 triệu m3.
Đập có 8 cửa xả lũ, mỗi cửa rộng 22,5 m và cao 15 m (Hình 7). Khi đập sắp hoàn
tất, một máng nước dành cho di ngư (fish ladder) mới được thực hiện (Hình 8).
Đây là máng nước dành cho di ngư đầu tiên được xây dựng trong vùng Đông Nam Á
nhưng không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Hình 7. Cửa xả lũ của đập Pak Mun [Ảnh: Internet]
Đập Pak Mun ảnh hưởng
đến sự di chuyển cũng như sự đa dạng của thủy sản trong lưu vực Nam Mun. Trước
năm 1994, khi đập Pak Mun chưa được hoàn tất, lưu vực có 265 loại cá với 77
loại là di ngư; khảo sát mới nhất cho thấy vùng thượng lưu đập hiện chỉ còn 96
loại cá. Sản lượng cá đánh bắt ngay phía thượng lưu đập giảm từ 60 đến 80 % sau
khi đập được hoàn tất [20]. Vì lý do đó, ngư dân trong vùng và một số tổ chức
môi trường phản đối liên tục, đòi mở cửa xả nước cho cá di chuyển. Năm 2001,
chánh phủ Thái Lan cho mở tất cả các cửa xả trong 1 năm để nghiên cứu ảnh
hưởng. Kết quả khảo sát cho thấy có 184 loại cá trong vùng nghiên cứu và lợi
tức của ngư dân cũng gia tăng đáng kể [21]. Theo đề nghị của nghiên cứu, chánh
phủ Thái Lan quyết định mở cửa xả trong đầu mùa lũ, từ tháng 7 đến tháng 10
hàng năm.
Hình 8. Máng nước dành cho di ngư ở đập Pak Mun [Ảnh: Internet]
Đập Theun-Hinboun
Hình 9. Đập Theun-Hinboun [22]
Đập Theun-Hinboun là
đập thủy điện được xây trên phụ lưu Nam Theun ở Ban Kengbit trong tỉnh
Bolikhamxay, Lào trong năm 1994 và hoàn tất vào năm 1998. Đập bằng bê tông, dài
268m và cao 27 m với 5 cửa xả lũ nhưng không có máng nước dành cho di ngư (Hình
9).
Tại vị trí đập, Nam Theun có lưu vực rộng khoảng 4.900 km2 với
lưu lượng trung bình
hàng năm 180 m3/sec. Đập rẽ một lưu lượng 110 m3/sec của
Nam Theun qua một đường hầm dài 6 km đến nhà máy thủy điện có công suất 220 MW
với thủy thế 235 m nằm ở Ban Khounkham, tỉnh Khammouane (Hình 10) trong thung
lũng Nam Hai, một nhánh của
Nam Hinboun, phụ lưu của sông Mekong. Đập và nhà máy thủy điện Theun-Hinboun
được gọi là dự án Theun-Hinboun, khởi công trong năm 1994 và hoàn tất trong năm
1998 [22].
Hình 10. Nhà máy thủy điện Theun-Hinboun [22]
Sau khi đập thủy điện
Nam Theun 2 được xây trên Nam Theun ở Nakai, cách đập Theun-Hinboun khoảng 32
km về phía thượng lưu, hầu hết nước trong lưu vực Nam Theun được chuyển sang
lưu vực Xe Bang Fai. Vì thế, một đập thủy điện được xây trên Nam Gnouang, một nhánh
của Nam Theun, để cung cấp nước cho đập Theun-Hinboun (Hình 11).
Đập Nam
Gnouang bằng bê tông, dài 480 m, cao 65 m và tạo nên một hồ chứa nước có diện
tích 105 km2với dung tích hữu dụng 2,262 triệu m3. Một
lưu lượng 220 m3/sec chảy qua một nhà máy thủy điện có công suất 60
MW ở chân đập trước khi đến đập Theun-Hinboun. Lưu lượng nầy đủ để nới rộng
công suất của nhà máy thủy điện Theun-Hinboun lên 440 MW. Việc xây đập Nam
Gnouang và nới rộng nhà máy thủy điện Theun-Hinboun được gọi là dự án
Theun-Hinboun Nới rộng, hoàn tất vào năm 2012 sau 4 năm xây dựng.
Hình 11. Dự án thủy điện Theun-Hinboun, Theun-Hinboun Nới rộng
và Nam Theun 2 [23]
Đập Theun-Hinboun ảnh
hưởng đến tình trạng thủy học của Nam Theun (còn có tên là Nam Cading trước khi
đổ vào sông Mekong), Nam Hai, Nam Hinboun, và sông Mekong. Lưu lượng lũ trung
bình của Nam Theun ở hạ lưu đập Theun-Hinboun giảm từ 1.030 xuống còn 160 m3/sec
hay 87%, còn lưu lượng trung bình trong mùa khô 5 m3/sec thì không
thay đổi vì số lượng nước nầy được xả từ đập Theun-Hinboun [24]. Nhưng theo dữ
kiện đo đạc trong năm 1998 trước khi đập được hoàn tất, lưu lượng trong mùa khô
(tháng 1 đến tháng 5) tại vị trí đập thay đổi từ 46 đến 59 m3/sec
[25]. Như vậy, lưu lượng của Nam Theun trong mùa khô có thể giảm từ 89 đến 91%.
Lưu lượng trung bình của Nam Hai ở Ban Namsanam tăng từ 250 m3/sec
lên 360 m3/sec hay 44% trong mùa lũ và từ 0 đến 110 m3/sec
trong mùa khô. Lưu lượng trung bình của Nam Hinboun ở Ban Khen tăng từ 870 m3/sec
lên 980 m3/sec hay 13% trong mùa lũ và từ 2.7 đến 113.7 m3/sec
hay 41 lần trong mùa khô. Lưu lượng của sông Mekong giảm 1.070 m3/sec
hay 8% trong mùa lũ và tăng 3-4% trong mùa khô ở hạ lưu Nam Cading, và giảm 7%
trong mùa lũ và tăng 4-5% ở hạ lưu Nam Hinboun. Lưu lượng sông Mekong ở hạ lưu
Nam Hinboun sẽ giảm 4% trong mùa lũ và tăng 14% trong mùa khô nếu đập Nam Theun
2 được xây dựng.
Về phương diện thủy
sản, đập Theun-Hinboun ảnh hưởng đến sự đa dạng, sự di chuyển của di ngư và sản
lượng cá đánh bắt trong lưu vực Nam Cading/Nam Theun và Nam Hinboun. Một nghiên
cứu trong năm 1992 cho thấy có 102 loại cá được tìm thấy trong lưu vực Nam
Cading/Nam Theun phía dưới thác Keng Vang Fong (cách sông Mekong khoảng 38 km
về phía thượng lưu), 79 loại được tìm thấy trong vùng đập Theun-Hinboun, và 118
loại cá được tìm thấy trong lưu vực Nam Hinboun. Sau khi xây đập, số loại cá ở
thượng lưu đập giảm hơn 1/3. Chỉ có 71 loại cá được tìm thấy trong lưu vực Nam
Cading/Nam Theun qua cuộc khảo sát thủy sản năm 2002 [24].
Đập Theun-Hinboun và
sự thay đổi dòng chảy của Nam Theun phía dưới đập và của Nam Hinboun ảnh hưởng
đến sản lượng cá đánh bắt trong lưu vực Nam Cading/Nam Theun và Nam Hinboun.
Một cuộc khảo sát qua phỏng vấn ngư dân trong năm 1998 cho thấy sản lượng cá
đánh bắt giảm từ 50 đến 70% ở hạ lưu đập, giảm từ 30 đến 50% ở thượng lưu đập
và giảm 90% trong lưu vực Nam Hinboun [26].
Đập IaLy (Yali hay
Yaly)
Hình 12. Đập IaLy [Ảnh: Internet]
Đập IaLy là đập thủy
điện được xây trên Se San ở tỉnh Gia Lai, Việt Nam trong năm 1993 và hoàn tất
trong năm 2002, cách biên giới Cambodia khoảng 70 km về phía thượng lưu. Tại vị
trí đập, Se San có lưu vực rộng 7.454 km2 với một lưu lượng
trung bình hàng năm 259 m3/sec [27]. Đập bằng đá đầm với lõi chống
thấm bằng đất sét ở giữa thân đập, dài 522 m, cao 69 m và tạo một hồ chứa nước rộng
64,5 km2 với một dung tích hữu dụng 779 triệu m3.
Đập có 6 cửa xả lũ bằng thép, mỗi cửa rộng 15 m cao 16,3 m với lưu lượng xả tối
đa là 13.733 m3/sec (Hình 12). Nước từ hồ chứa, với lưu lượng 424 m3/sec,
được dẫn qua hai đường hầm dài 3,8 km đến nhà máy thủy điện (Hình 13) có công
suất 720 MW, nằm khoảng 4 km về phía hạ lưu và thấp hơn mực nước trong hồ chứa
190 m. Nước từ nhà máy thủy điện được xả trở lại Se San. [28]
Hình 13. Nhà máy thủy điện IaLy [Ảnh: Trịnh Minh Phú]
Đập IaLy ảnh hưởng đến
tình trạng thủy học của Se San ở hạ lưu đập trong tỉnh Ratanakiri, Cambodia và
của sông Mekong ở hạ lưu Stung Treng. Kết quả khảo sát trong tỉnh Ratanakiri
[29] cho thấy tình trạng lũ lụt tệ hại trong năm 1996 một phần là do việc xả lũ
từ đập IaLy.
Trong mùa khô, mực nước Se San lên xuống bất thường, có khi sai
biệt đến 2 m. Lưu lượng xả nước từ nhà máy thủy điện IaLy, 424 m3/sec,
cao gấp 5 lần lưu lượng thấp nhất trung bình (average minimum flow) đo đạc được
ở Ban Komphun, tỉnh Stung Treng từ năm 1961 đến 1970 là 85 m3/sec
[30] và gia tăng lưu lượng thấp nhất trung bình đo đạc được ở Kratie, Cambodia
từ năm 1960 đến năm 2004 (2.220 m3/sec [13]) lên 19%. Ảnh hưởng của
việc xả lũ từ đập IaLy đối với tình trạng lũ lụt lại được ghi nhận trong tỉnh
Ratanakiri từ ngày 3 đến 13 tháng 8 năm 2005 [31] và có lẽ đã làm mực nước nội đồng
Đồng Tháp Mười ở ĐBSCL đang tăng nhanh lại càng tăng nhanh hơn vào trung tuần
tháng 8 [32].
Về phương diện thủy
sản, đập IaLy ảnh hưởng đến sự đa dạng và di chuyển của di ngư và sản lượng cá
đánh bắt trong lưu vực Se San. Kết quả nghiên cứu cho thấy lưu vực Se San có
133 loại cá, trong đó có 7 loại chỉ sống trong lưu vực và 54 loại di ngư [30].
Sau khi đập IaLy được xây dựng, lưu vực Se San chỉ còn 111 loại cá, có nhiều
loại trở nên khan hiếm và 6 loại biến mất hẳn. Sản lượng cá đánh bắt trong lưu
vực Se San giảm 26,7% [33].
Đập IaLy cũng ảnh
hưởng đến lượng phù sa của Se San ở hạ lưu đập và của sông Mekong ở hạ lưu
Stung Treng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đập IaLy có thể giữ lại 94% lượng phù
sa trung bình hàng năm của Se San tại vị trí đập, tức 2,432 triệu tấn/năm [34].
Lượng phù sa bị đập IaLy giữ lại chiếm khoảng 7% của vùng ngập lụt ở Cambodia
và khoảng 9% của vùng ngập lụt ở ĐBSCL.
Đập Hạ Se San 2
Đập thủy điện Hạ Se
San 2 sẽ được xây trên Se San, cách hợp lưu với Sre Pok khoảng 1,5 km về phía
hạ lưu và cách sông Mekong khoảng 25 km về phía thượng lưu (Hình 14). Tại vị
trí đập, Se San có diện tích lưu vực rộng 49.070 km2 với một
lưu lượng trung bình hàng năm là 1.306 m3/sec [36]. Đập được chánh
phủ Cambodia chuẩn thuận vào tháng 11 năm 2011, được khởi công (Hình 15) [37],
và dự trù hoàn tất vào năm 2016. Chủ công trình là Hydropower Lower Sesan 2
Company, một liên doanh giữa Royal Group của Cambodia (39%), Hydrolancang
International Energy Company của Trung Hoa (HIEC) (51%), và Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN) (10%) [38].
Cổ phần của EVN đã giảm từ 51 xuống còn 10% và của
Royal Group giảm từ 49 xuống còn 39% sau khi HIEC tham gia vào liên doanh [39].
EVN cũng sẽ xây một đường dây điện 220 kV để cung cấp 50% sản lượng của nhà máy
thủy điện Hạ Se San 2 cho mạng lưới điện của Việt Nam [35].
Hình 14. Vị trí của đập Hạ Se San 2 [35]
Hình 15. Công trường xây đập Hạ Se San 2 [Ảnh: Internet]
Đập Hạ Se San 2 sẽ
được xây bằng đất, dài 8 km, cao 38 m và tạo nên một hồ chứa rộng 334 km2 với
dung tích 1.792,5 triệu m3 (dung tích hữu dụng là 333,2 triệu m3).
Đập xả lũ bằng bê tông, dài 245 m, cao 38 m, có 10 cửa xả bằng thép mỗi cửa
rộng 15 m và cao 16 m với lưu lượng xả nước 27.942 m3/sec. Nước từ
hồ sẽ được dẫn qua một đường hầm rộng 9,4 m, cao 12,25 m, dài 29 m với một lưu
lượng thay đổi từ 459 đến 2.118 m3/sec đến nhà máy thủy điện có công
suất 400 MW nằm ở chân đập [36]. Nước từ nhà máy thủy điện sẽ được xả trở lại
Se San.
Đập Hạ Se San 2 sẽ ảnh
hưởng đến tình trạng thủy học của Se San ở hạ lưu đập và của sông Mekong ở hạ
lưu Stung Treng. Đập có thể gia tăng lưu lượng thấp nhất trong mùa khô của Se
San ở phía hạ lưu đập lên 25 lần, từ 85 m3/sec lên 2.118 m3/sec
và của sông Mekong ở Kratie lên 96%. Nếu được xả tối đa trong mùa lũ, đập sẽ
gia tăng lưu lượng cao nhất trung bình của Se San ở hạ lưu đập lên 2,3 lần (từ
12.400 m3/sec lên 27.942 m3/sec) và gia tăng lưu lượng
cao nhất trung bình từ 1924 đến 2003 của sông Mekong ở Kratie (41.000 m3/sec
[13]) lên 68%.
Hình 16. Vùng trồng lúa (màu vàng) ở hạ lưu vực Mekong [16]
Về phương diện thủy
sản, đập Hạ Se San 2 ảnh hưởng đến sự đa dạng và di chuyển của di ngư và sản
lượng cá đánh bắt trong lưu vực Se San và Sre Pok. Kết quả khảo sát [30] cho
thấy lưu vực Se San có 133 loại cá, trong số đó có 54 loại di ngư và 7 loại chỉ
sống trong lưu vực nầy. Lưu vực Sre Pok có 240 loại cá, trong số đó có 81 loại
di ngư và 95 loại chỉ sống trong lưu vực nầy. Di ngư chiếm 60% số lượng cá đánh
bắt trong vùng. Đập Hạ Se San 2 có thể làm giảm 9,3% lượng cá của hạ lưu vực
Mekong [40], ngăn chận 50% lượng phù sa tại vị trí đập và giảm lượng phù sa của
sông Mekong từ 6 đến 8% [35].
PHẦN THẢO LUẬN
Việc các tổ chức môi
trường trên thế giới, các tổ chức phi chánh phủ (NGOs), và các nhà hoạt động
môi trường trong và ngoài nước lớn tiếng chống đối việc xây dựng các đập thủy
điện trên dòng chánh sông Mekong và làm ồn ào những sự kiện mà họ cho là hậu
quả của các đập ở Trung Hoa [8,41-44] – vô tình hoặc có dụng ý – đánh lạc hướng
dư luận, khỏa lấp ảnh hưởng của các dự án thủy lợi đã hoặc sẽ được xây trên phụ
lưu, và bảo vệ kỹ nghệ du lịch “sinh thái” dọc theo sông Mekong ở Thái Lan và
Lào. Ngoài đập Pak Mun ở Thái Lan và đập Theun-Hinboun và Nam Theun 2 ở Lào
được các tổ chức nầy ít nhiều đề cập đến, có rất nhiều đập trên phụ lưu đã được
hoàn tất hoặc đang được xây dựng “trong âm thầm,” thí dụ như 3 đập trên Nam Ou
[45] và 7 đập trên Se Kong ở Lào, 9 đập trên Se San và 4 đập trên Sre Pok ở
Việt Nam [46].
Đây có lẽ là chủ ý của
Thái Lan và Việt Nam, hai thành viên có thế lực nhất trong MRC, nhằm được “tự
do” khai thác các dự án trên lãnh thổ Lào và Việt Nam; điển hình là dự án thủy
nông Kong-Chi-Mun của Thái Lan (chuyển 6,32 tỉ m3 nước từ lưu
vực Nam Ngum và Xe Bang Hiang ở Lào sang lưu vực Nam Chi và Nam Mun ở Thái Lan
để trồng 160.000-480.000 ha lúa trong mùa khô [47] (Hình 16)), đập thủy điện
IaLy và các đập khác trong lưu vực Se San và Sre Pok và dự án khai thác triệt
để ĐBSCL của Việt Nam (sử dụng tất cả lưu lượng kiệt của sông Mekong để trồng
lúa trong mùa khô [47]).
Chính vì thế mà trong Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả
chấp Lưu vực sông Mekong (Agreement on the
Cooperation for the Sustainable
Development of the Mekong River Basin) – được ký kết tại Chiang Rai, Thái Lan năm
1995 để thành lập MRC (Thỏa ước MRC 1995) – không có một điều khoản ràng buộc
pháp lý nào về việc sử dụng nước trên phụ lưu ngoài việc thông báo
(notification), và đó có lẽ là lý do chánh khiến cho các đập trên phụ lưu không
được sự chú ý của các tổ chức và nhà hoạt động môi trường trên thế giới.
Hình 17. Sông Mekong ở Nong Khai trong mùa khô 2010 [Ảnh:
Internet]
Ảnh hưởng của các đập
thủy điện ở Trung Hoa được làm ồn ào khắp nơi trên thế giới tiếp theo sau bản
tin của Michael Casey (Associated Press (AP)) được đánh đi từ Bangkok ngày 21
tháng 5 năm 2009. Bản tin nói rằng một phúc trình của Liên Hiệp Quốc cho biết “hành
động xây đập thiếu kiểm soát ở Trung Hoa là mối đe dọa lớn nhất cho tương lai
của sông Mekong đang bị quấy nhiễu (a dam-building spree in China poses the
greatest threat to the future of the already beleagued Mekong)” [47].
Sau bản tin của AP, báo chí Việt ngữ trong và ngoài nước cũng chạy tin với
những hàng tít “rất đáng lo ngại và kinh sợ,” chẳng hạn như “Trung Quốc xây
hàng loạt đập thủy điện làm hại dân hạ lưu sông Cửu Long” [48], “Vn [Việt Nam]:
Tq [Trung Quốc] Giết Mekong, Sông Thành Sa Mạc” [49], “Bức tử sông Mekong với
đập cao 292 m” [50], “Đập Tiểu Loan đe dọa đồng bằng sông Cửu Long” [51], hoặc
“TQ [Trung Quốc] khai thác sông Mê Kông và nguy cơ giết chết ĐBSCL” [52].
Truyền thông khắp nơi
lại càng ồn ào hơn sau bản tin của AFP vào ngày 25 tháng 2 năm 2010 cho biết“mực
nước sông Mekong ở phía bắc xuống tới mức thấp kỷ lục, đe dọa đến cấp thủy,
thủy vận, và thủy nông dọc theo dòng nước mà hàng triệu người đang cư trú…” [53]
(Hình 17). Họ cáo buộc các đập thủy điện của Trung Hoa – đã làm cho mực nước
xuống thấp và gây khó khăn cho người dân sống ven sông ở Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Cambodia, và Việt Nam, đặc biệt là ở Chiang Saen, Luang Prabang, Chiang
Khan, Vientiane, và Nong Khai ở Bắc Lào và Thái Lan [41-42,54-56] – dường như
để khỏa lấp ảnh hưởng của các dự án sử dụng nước ở Thái Lan và Lào.
Những dự án
nầy, cộng với tình trạng hạn hán trong năm 2010, có lẽ đã làm cho mực nước sông
Mekong xuống thấp kỷ lục vì chúng đã bơm nước sông Mekong để cung cấp nước uống
cho Vientiane và Nong Khai cũng như để canh tác trong mùa khô ở nhiều vùng dọc
theo sông Mekong ở Lào và Cambodia [57]. Các đập thủy điện ở Trung Hoa còn bị
cáo buộc xả nước gây lũ lụt ở hạ lưu [44], khiến cho MRC phải lên tiếng để làm
rõ sự việc [58-59].
Một lý do khác khiến
các tổ chức môi trường trên thế giới, nhất là các NGOs ở Thái Lan, chống đối
các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong vì họ cho rằng chúng ảnh hưởng đến kỹ
nghệ du lịch “sinh thái” dọc theo sông Mekong ở Thái Lan và Lào. Một trong
những vùng được chú ý nhất là thác Khone, vì“đây là thiên đàng du lịch sinh
thái có tất cả điều kiện để trở thành một Di sản Thế giới (World Heritage) với
tất cả nguồn lợi du lịch một khi nó được công nhận.” [60] Chính vì thế
mà ngay cả Bộ trưởng Du lịch Lào cũng lên tiếng phản đối [61].
Các đập thủy điện trên
dòng chánh Mekong ở Trung Hoa, đập Xayaburi và Don Sahong ở Lào cùng các đập
khác chắc chắn sẽ còn bị cáo buộc là “thủ phạm” của những ảnh hưởng tai hại ở
hạ lưu vực Mekong. Nhưng kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy các đập thủy
điện ở Trung Hoa và 11 đập được đề nghị ở hạ lưu vực có ít ảnh hưởng hơn các
đập trên phụ lưu. Về phương diện thủy học, chỉ riêng các đập trên phụ lưu 3S
(Se Kong, Se San, và Sre Pok) có thể làm lưu lượng sông Mekong tại Kratie giảm
khoảng 4.000 m3/sec trong mùa lũ (10%) và tăng khoảng 2.200 m3/sec
trong mùa khô (100%). Ảnh hưởng nầy cao gấp 2 lần ảnh hưởng của các đập ở Trung
Hoa và 10 lần ảnh hưởng của 11 đập ở hạ lưu vực (Bảng 2).
Bảng 2. Ảnh hưởng đối với lưu lượng sông Mekong ở Kratie
Về phương diện thủy
sản, các đập trên phụ lưu có ảnh hưởng nhiều hơn 11 đập trên dòng chánh, ngoại
trừ ở Cambodia, như được trình bày trong Bảng 3. Kết quả nầy phù hợp với kết quả
của một nghiên cứu khác [18], cho thấy sản lượng cá trong sông và đồng lụt ở hạ
lưu vực có thể giảm 121.000 tấn/năm nếu có 31 đập được xây trên phụ lưu, giảm
187.000 tấn/năm nếu có 61 đập được xây trên phụ lưu, giảm 65.000 tấn/năm nếu có
6 đập trên dòng chánh được xây ở Bắc Lào, giảm 78.000 tấn/năm nếu 3 đập trên
dòng chánh được xây ở Nam Lào, và 203.000 tấn/năm nếu 2 đập trên dòng chánh
được xây ở Cambodia.
Bảng 3. Ảnh hưởng đối với sản lượng cá của hạ lưu vực Mekong
Đập trên dòng chánh
sông Mekong ở hạ lưu vực cũng có ít ảnh hưởng hơn các đập trên phụ lưu đối với
lượng phù sa của sông Mekong. Chúng có thể làm giảm lượng phù sa của sông
Mekong ở Kratie khoảng 47 triệu tấn/năm (so với 77 triệu tấn/năm của 77 đập
trên phụ lưu), của vùng ngập lụt ở Cambodia khoảng 10 triệu tấn/năm (so với 16
triệu tấn/năm của 77 đập trên phụ lưu), và của vùng ngập lụt ở ĐBSCL khoảng 7
triệu tấn/năm (so với 12 triệu tấn/năm của 77 đập trên phụ lưu) [4].
KẾT LUẬN
Từ trước cho đến nay,
các tổ chức môi trường trên thế giới như WWF, IRN, Oxfam Australia; các tổ chức
NGOs trong vùng như STM và 3S Rivers Protection Network; và các nhà hoạt động
môi trường trong và ngoài nước lớn tiếng chống đối các đập thủy điện trên dòng
chánh sông Mekong, sau khi Lào quyết định xây đập Xayaburi và Don Sahong, và
làm ồn ào những sự kiện mà họ cho là hậu quả của các đập ở Trung Hoa. Họ – vô
tình hoặc có dụng ý – bỏ quên các dự án thủy điện và thủy nông đã hoặc sẽ được
xây trên phụ lưu. Điển hình là 3 đập trên Nam Ou và 7 đập trên Se Kong ở Lào, 9
đập trên Se San và 4 đập trên Sre Pok ở Việt Nam đã được hoàn tất hoặc đang
được xây dựng “trong âm thầm.”
Kết quả của nhiều cuộc
nghiên cứu và khảo sát gần đây cho thấy các đập trên phụ lưu sông Mekong có ảnh
hưởng không kém các đập trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa và 11 đập được dự
trù xây trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong, ít nhất là về phương diện
thủy học, sản lượng cá đánh bắt, và lượng phù sa. Các đập trên phụ lưu hiện nay
có thể làm giảm 902 m3/sec (so với 400 m3/sec của 11 đập
ở hạ lưu vực) lưu lượng trong mùa lũ và tăng 406 m3/sec (so với 200
m3/sec của 11 đập ở hạ lưu vực) lưu lượng trong mùa khô của sông
Mekong ở Kratie. Nếu tất cả các đập trên phụ lưu 3S (Se Kong, Se San, và Sre
Pok) được xây dựng, chúng có thể làm giảm 4.000 m3/sec (so với 1.807
m3/sec của các đập ở Trung Hoa) lưu lượng trong mùa lũ và tăng 2.200
m3/sec (so với 812 m3/sec của các đập ở Trung Hoa) lưu
lượng trong mùa khô của sông Mekong ở Kratie.
Sản lượng cá trong
sông và đồng lụt ở hạ lưu vực có thể giảm từ 121.000 đến 187.000 tấn/năm nếu có
31-61 đập được xây trên phụ lưu, so với 346.000 tấn/năm của 11 đập trên dòng
chánh ở hạ lưu vực. Tuy nhiên, sản lượng cá sẽ sụt xuống 65.000 tấn/năm nếu có
chỉ 6 đập trên dòng chánh được xây ở Bắc Lào, xuống 78.000 tấn/năm nếu chỉ có 3
đập trên dòng chánh được xây ở Nam Lào, và xuống 203.000 tấn/năm nếu chỉ có 2
đập trên dòng chánh được xây ở Cambodia (Stung Treng và Sambor) (Hình 16).
Về lượng phù sa, các
đập trên phụ lưu cũng có ảnh hưởng nhiều hơn 11 đập trên dòng chánh ở hạ lưu
vực Mekong. Nếu 77 đập được xây trên phụ lưu, chúng có thể giảm lượng phù sa
của sông Mekong ở Kratie khoảng 77 triệu tấn/năm (so với 47 triệu tấn/năm của
11 đập), của vùng ngập lụt ở Cambodia 16 triệu tấn/năm (so với 10 triệu tấn/năm
của 11 đập), và của vùng ngập lụt ở ĐBSCL 12 triệu tấn/năm (so với 7 triệu
tấn/năm của 11 đập).
Mặc dù ảnh hưởng của
các đập trên phụ lưu có ảnh hưởng không kém các đập trên dòng chánh Mekong ở
Trung Hoa và 11 đập được dự trù xây trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong,
Thái Lan và Việt Nam – hai thành viên có thế lực nhất của MRC – dường như đã
“phớt lờ” khi ký kết Thỏa ước MRC 1995 vì cả hai đều muốn khai thác các dự án
trên phụ lưu và các dự án thủy nông trong lưu vực Nam Chi-Nam Mun ở Đông bắc
Thái Lan và ở ĐBSCL.
Thái Lan và Việt Nam có lẽ cũng rất “hài lòng” vì các tổ
chức môi trường thế giới, nhất là các NGOs ở Thái Lan, đã “chĩa mũi dùi” vào
các đập thủy điện của Trung Hoa, cáo buộc chúng là “thủ phạm” đã, đang, và sẽ
gây những “thảm họa” ở hạ lưu vực Mekong – kể cả ĐBSCL và Mũi Cà Mau – thay cho
“thủ phạm thật sự,” đã, đang, và sẽ hiện diện trong khắp các phụ lưu từ Nam Ou
cho đến Se Kong, Se San, và Sre Pok. Các NGOs ở Thái Lan dường như cũng “không
thích” các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong trong lãnh thổ Lào, có lẽ chúng
có thể có ảnh hưởng đến kỹ nghệ du lịch “sinh thái” dọc theo sông Mekong của
Thái Lan.
Với ảnh hưởng của các
đập trên phụ lưu cùng với tinh thần “mạnh ai nấy làm” của Thỏa ước MRC 1995,
nguy cơ trước mắt của ĐBSCL dường như không phát xuất từ các đập trên dòng
chánh sông Mekong ở Trung Hoa hay ở Lào, mà phát xuất từ các đập trên phụ lưu,
quan trọng nhất là hệ thống phụ lưu 3S (Se Kong, Se San, và Sre Pok) với đập Hạ
Se San 2. Các đập trên phụ lưu 3S có ảnh hưởng rất lớn đối với tình trạng thủy
học, sản lượng cá, và lượng phù sa của ĐBSCL.
Đập Hạ Se San 2 có thể biến một
mùa nước nổi bình thường thành một trận lũ lụt chưa từng thấy trong lịch sử nếu
tất cả các cửa xả của nó được mở tối đa để xả lũ. Nếu các đập trên dòng chánh ở
Trung Hoa được xem là “những quả bom nước khổng lồ lơ lửng trên đầu
hàng triệu người dân ĐBSCL [62],” thì đập Hạ Se San 2 cũng là một quả
bom nước khổng lồ lơ lửng trên đầu hàng triệu người dân ĐBSCL. Chỉ khác một
điều là những quả bom nước ở Trung Hoa được treo bằng “bê tông,” còn quả bom
nước ở Cambodia sẽ được treo bằng… “đất,” tương tự như quả bom Đầm Hà Động
(Long Châu Hà) (Hình 18) vừa “giáng” xuống đầu người dân ở huyện Đầm Hà, Quảng
Ninh hôm 30 tháng 10 vừa qua [63].
Hình 18. Đập Đầm Hà Động bị vỡ [63]
Đối với 11 đập được đề
nghị trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong, thì 6 đập ở Bắc Lào có ảnh hưởng
nhỏ nhất và 2 đập ở Cambodia có ảnh hưởng lớn nhất, nhất là về phương diện thủy
sản. Do đó, điểm đáng nhắm phải là Stung Treng và Sambor chứ không phải là
Xayaburi hay Don Sahong.
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.