Cải cách ruộng đất tại miền
Bắc Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết này có nhiều yêu cầu chú thích
nguồn gốc chưa được đáp ứng.
Xin giúp cải thiện bài viết bằng cách chú giải từ các nguồn có uy tín để người đọc có thể kiểm chứng được thông tin. Những câu văn hay đoạn văn không có chú thích kiểm chứng được có thể bị thay thế hoặc xóa đi bất cứ lúc nào. |
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm
xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt
các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp,
chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ,
Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt
Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956.
Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho
bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ.
Đây là một trong những phương cách chính yếu
mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ
rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên
chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một
cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marxđã tuyên bố: "cách mạng ruộng
đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô hình "thổ
địa cải cách" của Trung Quốc (1946–1949),
cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp
triệt để[1] với sự cố vấn trực
tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc[2]
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân
chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa
chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt giáo điều các biện pháp dập khuôn từ cải
cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều phương hại và tổn thất.[3] Cuộc cải cách và đấu
tố này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây tác
hại đến sự đoàn kết dân tộc của người Việt, ảnh hưởng tới niềm tin của một số
tầng lớp nhân dân với Đảng Lao Động Việt
Nam. Suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa
sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức
nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.
Mục lục
- 1 Mục đích
- 2 Tổ chức
- 3 Ban lãnh đạo
- 4 Tiến trình
- 4.1 Huấn luyện cán bộ
- 4.2 Chiến dịch Giảm tô
- 4.3 Chiến dịch Cải cách ruộng đất
- 4.4 Chiến dịch sửa sai
- 5 Các đợt cải cách
- 6 Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch
- 7 Số người bị đấu tố
- 8 Ý kiến và nhận định riêng
- 9 Tham khảo
- 10 Ghi chú
- 11 Xem thêm
- 12 Liên kết ngoài
Mục đích[sửa]
Chương trình cải cách ruộng đất là một bước
trong tiến trình đưa miền Bắc Việt Nam tiến
lên xã hội chủ nghĩa,
do Đảng Lao động Việt
Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn
rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đã làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:
1.
Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp,
người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang vì
chiến tranh;
2.
Phân chia cho tá điền;
3.
Cắt giảm địa tô;
4.
Bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt
Nam thì các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục
từng bước giải quyết trong kháng chiến chống
Pháp, nhưng đến 1953 thì mới được phát
triển rộng (khởi sự tại Thái Nguyên).[4]
Tại kì họp thứ ba của Quốc hội, để
phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải
cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm
cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố
đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ".[5]
Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa
ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những
ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những
người mà chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị
kết tội thông đồng với Pháp.
Tổ chức[sửa]
Tháng 12 năm 1953,
Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhóm họp và thông qua Dự luật Cải cách ruộng
đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này
vào ngày 19 tháng 12 năm
1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng
đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị
thi hành cải cách ruộng đất sâu rộng trên toàn lãnh thổ. Đảng này cũng chỉ định
một ủy ban lãnh đạo chương trình cải cách ruộng đất và hoạch định tiến trình
cải cách ruộng đất.
Ban lãnh
đạo[sửa]
- Trưởng ban
chỉ đạo: Trường Chinh (Tổng
Bí thư đảng)
- Trưởng ban
chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt (Ủy
viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
- Trưởng ban
chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: Lê Văn Lương (Ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
- Giám đốc
trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Tiến trình[sửa]
Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng
qua bốn bước chính:
Huấn luyện cán bộ[sửa]
Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách
ruộng đất được đưa đi học khóa chỉnh huấn 1953,
và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc.[cần dẫn nguồn] Các
chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải
cách ruộng đất, quán triệt quan điểm: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc
tận rễ".[cần dẫn nguồn] Tổng
số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.
Chiến dịch Giảm tô[sửa]
Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất
đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ,
cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành
"rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch
từng bước như sau:
- Phân định
thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong
xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c)
trung nông cứng - sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa
- sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay
không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con lợn đã có thể
gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông
thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên
5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
- Phân loại
địa chủ: Tất cả
các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách
phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ
thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị
đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
- Áp dụng
thoái tô: Đối với
các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về
các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm: sắc
lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, Sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền
Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau
mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô
cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó — gọi là "thoái tô".
Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau
bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều
người đến chỗ tự sát — vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không
biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[6]
- Học tập tố
khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi",
"rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học
viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra
tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố
khổ nhiều du kích và cốt cán cải cách ruộng đất tìm bắt địa chủ, Việt
gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái
địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".[7]
- Công khai
đấu tố: Các buổi
đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu
tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một
đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các
bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có
tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá
Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi
tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để
chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị
cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.
- Xử án địa
chủ: Tại các huyện,
một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa
chủ. Sau khi kết án, nếu bị kết án tử hình, đội tự vệ xã sẽ thi hành án
trước công chúng. Những người không bị xử bắn thì bị cô lập trong các làng
xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
Chiến
dịch Cải cách ruộng đất[sửa]
Nhiều tháng sau khi chiến dịch Giảm tô được
triển khai, chương trình Cải cách ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức
tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích
kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong
kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến
hành tại 3.314 xã. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là
một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, bà là địa chủ kháng chiến có
nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam.[8]
Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ
cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc,
chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn.
Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm
soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc
chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân
dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã xuất
hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng
đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên
đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết
oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải
cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ
năm 1953 tới 1957,
810.000 hecta ruộng đất ở đồng bằng và trung du
miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông
dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945,
chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện
cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đã có
rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều
nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan
là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến
trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh
Tường,[6] đã làm Đảng Cộng sản
Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.
Chiến dịch sửa sai[sửa]
Trong tuyên bố của Hội nghị Trung ương 10 của
Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9 năm 1956 đã nghiêm khắc phê bình:
“
|
Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc
biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và
thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của
những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh đạo. Vì thế Ban chấp hành
Trung ương nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham gia trực tiếp đã kiểm
điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những hình thức kỷ luật nghiêm
khắc.
|
”
|
Do nhận định chiến dịch Cải cách ruộng đất
giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao
động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
- Tháng 2
năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9
tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
- Tháng 3
năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và
biện pháp sửa sai.
- Ngày 18
tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn
nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm
điểm các sai lầm.
- Ngày 24
tháng 8 năm 1956, báo Nhân Dân công
bố có một số đảng viên trung kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến
dịch Cải cách Ruộng đất.
- Tháng 9
năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8
đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện
pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau:
ông Trường Chinh phải
từ chức Tổng Bí thư đảng, nhưng vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt ra
khỏi Bộ Chính trị, xuống ủy viên Trung ương và Lê Văn Lương ra
khỏi Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và Bí thư Trung ương Đảng xuống ủy
viên dự khuyết TW.[9], và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra
khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Ngày 29
tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương trình Cải cách Ruộng
đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban
Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội,
kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài
sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957,
thì chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số
người bị kết án. Theo báo Nhân Dân thì bản thân chiến dịch sửa
sai cũng gây thêm chết chóc khi những người được phục hồi trả thù những người
đã đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc
trả thù.[cần dẫn nguồn]
Phong trào trả thù lan rộng và biến thành bạo
động tại nhiều nơi khiến chính quyền phải điều động quân đội để đánh dẹp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông
dân dùng gậy gộc gây bạo động khiến chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái
lập trật tự.[10] Một số gửi thỉnh
nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy ban Đình chiến, xin di cư vào Nam.[11]
Tuy nhiên, theo một số nhân chứng, có những
trường hợp việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần
(từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không được trả lại tài sản,
nhà đất. Đến năm 2004, theo báo Hà Nội Mới, Ủy ban Nhân dân thành
phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành
phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kì Cải cách Ruộng đất với
mức ba triệu đồng một trường hợp.[1]
Các đợt
cải cách[sửa]
Đợt
Thời điểm |
Địa bàn
|
Số xã thực
hiện
cải cách uộng đất |
Đợt
Thí điểm
(25 tháng 12 năm 1953 - 22 tháng 10 năm 1954) |
không
rõ
|
|
Đợt
1
(1 tháng 4 năm 1954 - 15 tháng 1 năm 1955) |
Một
số các vùng kiểm soát
|
không
rõ
|
Đợt
2
(23 tháng 10 năm 1954 - 15 tháng 01 năm 1955) |
22
|
|
100
|
||
22
|
||
66
|
||
Đợt
3
(18 tháng 02 - 20 tháng 06 năm 1955) |
65
|
|
106
|
||
84
|
||
22
|
||
115
|
||
74
|
||
Đợt
4
(27 tháng 06 - 31 tháng 12 năm 1955) |
111
|
|
17
|
||
1
|
||
60
|
||
71
|
||
207
|
||
5
|
||
227
|
||
98
|
||
47
|
||
Đợt
5
(25 tháng 12 năm 1955 - 30 tháng 7 năm 1956) |
8
|
|
163
|
||
6
|
||
45
|
||
118
|
||
21
|
||
217
|
||
149
|
||
294
|
Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch[sửa]
Thành tích tạm thời[sửa]
Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam
bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả
nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần
địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố
nông. Chính việc cải cách này đã góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của
dân chúng để dồn sức cho kháng chiến.
Cuộc cải cách đã phân chia lại đất canh tác
một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000
hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ
nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố
ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng
số ruộng đất.[12]
Quyền tư hữu ruộng đất của nông dân tuy vậy
chỉ được tạm thời vì sau đó năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định rằng tập
thể hóa là mục tiêu phát triển nông thôn.[13] Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 kế
tiếp hợp thức hóa chính sách đó và xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và
thay vào đó là quyền sở hữu tập thể.[14] Đất đai dần tập trung
vào tay Nhà Nước qua việc thành lập những hợp tác xã do
chính phủ quản lý. Nhà nông bị ép buộc gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960,
86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào
năm 1970.[13]Khi Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 được
soạn ra thì quyền tư hữu ruộng đất của nông dân hoàn toàn biến mất, quyền sở
hữu đất trên toàn cõi đất nước thuộc về Nhà nước.[15] Cuộc cải cách ruộng
đất của thập niên 1950 theo
quá trình trên thì chính quyền phát đất cho nông dân một lần nhưng thu hồi hai
lần; một lần bán chính thức qua dạng hợp tác xã, lần sau
qua quốc hữu hóa toàn
diện.[16]
Hồ Chí Minh trong lá thư gửi “đồng bào nông
thôn” ngày đề ngày 18 tháng 8 năm 1956, xác định cải cách ruộng đất là “một
thắng lợi vô cùng to lớn” và “có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có
chính sách đúng đắn”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống
phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go"[17].
Sai
lầm chung[sửa]
- Đánh giá
sai lầm về tình hình khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá
tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc.[2]
- So sánh
mục tiêu và phương tiện thì phương pháp đấu tố và truất hữu quá cứng rắn
khi mà nghiên cứu của Liên Xô tính rằng địa chủ trung bình
ở miền Bắc chỉ sở hữu 0,65 hécta đất, một diện tích khá nhỏ so
với mức của thế giới.[11]
- Yếu tố bạo
lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy
bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo
trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ, số khác thì vì ghen tức với
tài sản của địa chủ. Cộng với trình độ nhận thức thấp của đa số cán bộ cấp
xã thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá
nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc đấu tố. Theo đánh giá của
William Duiker, hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm,
nhưng có thể nhìn nhận như những "sản phẩm phụ" không thể tránh
khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào[18] (tương tự như làn sóng tàn
sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789).
- Đánh giá
sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản
lượng là 32-35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít
nhất phải 25-28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở
Liên Xô cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi
(terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hecta. Như vậy là với phương
tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm
nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hecta, nghĩa là còn hơn
một mẫu ta..."[19]
- Chiến dịch
càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến tình trạng vô chính phủ,
nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục hình với gia đình người bị đấu tố.
Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển
hình như:
·
Trường hợp tử hình bà Nguyễn
Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có
con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Trong "Tuần Lễ Vàng", gia đình bà cũng đã
hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.[2]
·
Trường hợp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư
lệnh Đại đoàn 308, nguyên Tư lệnh Mặt trận Hà Nội năm 1946, Chủ tịch Ủy ban
Quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người
đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không
rõ ràng".[cần dẫn nguồn]
·
Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu,
trong đó có một người là trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con,
nhưng cũng bị quy là địa chủ.[19]
·
Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng,
Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê
nhà Diễn Châu.[20]
- Ngoài việc
tịch thu nhà đất của những người bị quy là địa chủ và chia đều cho nông
dân, những mục đích khác của chiến dịch không đạt được. Kết quả sản xuất
sau cuộc cải cách ruộng đất lại không như người nông dân mong đợi khi vụ
mùa năm 1957 được đánh giá là thất thu.
Sai
lầm trên phương diện pháp lý[sửa]
Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc
tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách
ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan còn hơn để
sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp
luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án
oan". Cụ thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm là:
- Không xử
phạt các tội đã phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
- Trách
nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ
con, gia đình.
- Muốn kết án
một người phải có bằng chứng xác đáng.
- Thủ tục
điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ
luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình truy tố và xét xử;
khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không được dùng nhục
hình.
Các nguyên nhân sai lầm được cho là: quan
điểm ta-địch, thù-bạn của chính quyền đương nhiệm rất mơ hồ; chính quyền bất
chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý; bất chấp ý kiến của giới chuyên
môn.[6]
Số người bị đấu tố[sửa]
Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa
chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng
chiến dịch Cải cách ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448
trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho
2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha,
0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.
Số lượng người bị giết trong chương trình Cái
cách ruộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo
chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt
gian" để mang ra đấu tố[3] thì con số sẽ không
ít.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng
người bị giết dao động khá lớn:
- Theo tuần
báo Time ngày 1 tháng 7 năm 1957 thì khoảng 15.000 người
bị xử tử.[21]
- Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2.500;[22] theo Edwin E. Moise (sau một
công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000; theo giáo sư sử họcJames
P. Harrison: vào khoảng 1.500 cộng với 1.500 bị cầm tù.[23]
- Vũ Thư
Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số 15.000 dẫn ở trên rất
nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu
nào cụ thể:
"Người ta thường nói
tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu
của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng
số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai
người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên
tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan
(kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ
4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta
biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học." [cần dẫn nguồn]
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa thì cuộc cải cách ruộng đất
là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954.
Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng đã
bị giảm sút trong 2 năm cải cách ruộng đất và 1 năm sau đó.
Ý kiến và nhận định riêng[sửa]
- Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã
nói về tình cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ
Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội:
“
|
Qua cuộc Cải cách ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ
cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng
chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống
giam hay bị hành hình. [...] Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những
đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui
sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ
chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh
liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai
lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết
với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn
nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến
cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?[6]
|
”
|
- Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn
nhận:
“
|
Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công
thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách
mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và
kinh tế.[24]
|
”
|
Tham khảo[sửa]
- Lịch Sử
Việt Nam, 1954-1965, Cao Văn Lượng chủ biên, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội, 1995.
- Đại Cương
Lịch Sử Việt Nam, 1945-2000 tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 2000.
- Góp phần
tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam PGS TS Nguyễn Trọng Phúc chủ
biên, Nxb Chính Trị Quốc Gia: Viện Lịch sử Đảng, Học Viên Chính trị Quốc
Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- Việt Nam,
1945-1995 tập I, GS Lê Xuân Khoa, Nxb Tiên Rồng, Maryland, 2004.
- Qua Những
Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo, LS
Nguyễn Mạnh Tường, diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng Mười
1956 tại Hà Nội.
- The Viet
Minh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of
Vietnam, Bernard
Fall, Greenwood Press, Connecticut, 1975.
Ghi chú[sửa]
1.
^ a b Báo BBC — Trợ cấp cho nạn nhân cải cách ruộng đất
2.
^ a b c Đài RFA — Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (Cựu
Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội), Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN
(bài 4)
3.
^ a b Bùi Tín — Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng
hổi
4.
^ Theo Đại
cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, trang 94 thì từ đầu năm 1953, đảng và chính
phủ đã phát động quần chúng triệt để tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất
tại các vùng tự do.
6.
^ a b c d Luật sư Nguyễn Mạnh Tường — Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất - Xây dựng
quan điểm lãnh đạo, diễn văn đọc trước phiên họp của Mặt trận Tổ
quốc ở Hà Nội, ngày 30 tháng Mười, 1956.
8.
^ Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước
đây tại miền Bắc VN: "...Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động
trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên
gọi khác là bà Cát Thanh Long)..."
9.
^ Sau
đó, Hoàng Quốc Việt (tức
Hạ Bá Cang) làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và công
tác ở Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
Sau này, Lê Văn Lương được bầu lại làm Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV (1976-1981); có những khoảng thời gian trong 1976-1986 ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội
Sau này, Lê Văn Lương được bầu lại làm Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV (1976-1981); có những khoảng thời gian trong 1976-1986 ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội
10.
^ Dommen,
Arthur, The Indochinese Experience of the French and the Americans:
Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam, Bloomington, IN:
Đại học Indiana Press, 2001, trang 341.
13.
^ a b Trần Thị Quế. Vietnam's Agriculture: The
Challenges and Achievements, Institute of Southeast Asian Studies
(Singapore), 1998, tr 12-27.
15.
^ [www.harvard-yenching.org/sites/harvard-yenching.org/files/KUONG_Teilee_Development_of_Property_Law.pdf+state+ownership+land+vietnam+1959&hl=en&gl=us&pid=bl&srcid=ADGEESjIJtxpo8EN3hrmjNQJzYP1FyTeq-_SwwMZ16k1FzOedUnNjt7sKdBPLyzEdYF47E43N0ru1a5dzELlLxHs_OD-8e4ozIkT_HBibzKE4ZBwtq0XAktSvEQaFVFvgfJqYLYVEuRn&sig=AHIEtbRw86VIbsXMZdvsoVOuWy-h9vrB4Q
Development of Propert Law in Cambodia, Vietnam and China]
16.
^ Võ Nhân
Trí. Vietnam's Economic Policy Since 1975, Institute of Southeast
Asian Studies (Singapore), 1990, tr 8.
22.
^ Gavin W.
Jones, "Population Trends and Policies in Vietnam: Population and
Development Review", Vol. 8, No. 4 (Dec., 1982), pp. 783-810
23.
^ The
Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press,
1989, trang 149
24.
^ Nhận định của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt về đại đoàn
kết dân tộc trên website Bộ Ngoại giao Việt Nam
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.