Date: 2013/11/7
Subject: Phỏng Vấn: Chủ nhân tương ớt Con Gà (Sriracha)
To:
Đặt chân vào thị trường Hoa Kỳ
Thiên An/Người Việt
Thân người lọt thỏm sau hệ thống máy xay ớt cao cỡ tòa nhà ba tầng lầu của công ty Huy Fong Foods, ông Trần Đức loay hoay kiểm tra từng bộ phận kỹ thuật. Người triệu phú Việt gốc Hoa này đang chuẩn bị cho công ty trước mùa thu hoạch cuối Tháng Tám. Khi lên tàu vượt biên hơn 30 năm trước, ông Trần Đức “không thể tưởng tượng được” là những giờ múc từng muỗng ớt rót vào chai lại là bước đầu cho hành trình tạo dựng cơ nghiệp trị giá hàng chục triệu đô trên xứ người.
Tương ớt hiệu con gà thường được các chợ Châu Á đặc biệt trưng phía ngoài. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
|
Sản phẩm của công ty Huy Fong Foods, nhất là chai tương ớt sriracha mà người Việt hay dùng ăn phở, từ độ chục năm nay đã không còn xa lạ với người dân Hoa Kỳ. Hình ảnh con gà, biểu tượng công ty cũng là tuổi ta của ông Trần Đức, xuất hiện không chỉ tại các trang mạng xã hội với hàng trăm ngàn người “like”, mà còn được họ thiết kế trên bao điện thoại, chai nước, hay thậm chí xâm lên vai, lên bắp tay.
Vượt ra khỏi các tiệm ăn trong cộng đồng gốc Á, tương ớt con gà dần hoà vào văn hoá ẩm thực của các sắc dân bản xứ. Từ tiệm mì Momofuku Noodle Bar ở New York miền Đông, đến nhà hàng hạng sang Lalime's ở California miền Tây, các đầu bếp bậc nhất Hoa Kỳ quen dần với chai tương đỏ nắp xanh Huy Fong.
“Xuất hiện trên bàn ăn của các nhà hàng danh tiếng là bước đầu tiên trong quá trình chiếm lĩnh thị trường.” Bà Kara Nielsen, nhân viên định hướng phát triển của CCD Innovation, cho biết.
Vượt ra khỏi các tiệm ăn trong cộng đồng gốc Á, tương ớt con gà dần hoà vào văn hoá ẩm thực của các sắc dân bản xứ. Từ tiệm mì Momofuku Noodle Bar ở New York miền Đông, đến nhà hàng hạng sang Lalime's ở California miền Tây, các đầu bếp bậc nhất Hoa Kỳ quen dần với chai tương đỏ nắp xanh Huy Fong.
“Xuất hiện trên bàn ăn của các nhà hàng danh tiếng là bước đầu tiên trong quá trình chiếm lĩnh thị trường.” Bà Kara Nielsen, nhân viên định hướng phát triển của CCD Innovation, cho biết.
Ông Trần Đức với chiếc bao điện thoại mua trên mạng có biểu tượng công ty Huy Fong Foods. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
Điều này phần nào giải thích cho lợi nhuận tăng gần 20% mỗi năm của Huy Fong Foods.
Danh tiếng
Tuy chẳng bao giờ quảng cáo, tên tuổi công ty Huy Fong nhiều lần xuất hiện trên phương tiện truyền thông Hoa Kỳ. Báo chí Mỹ thường dùng tên David Trần để nhắc đến vị “triệu phú tương ớt,” hơn là cái tên Việt Nam trên giấy khai sinh của ông.
Tờ Bloomberg Businessweek có bài phóng sự nói “ đây là một trong những công ty thực phẩm phát triển nhanh nhất Hoa Kỳ” và “có nhiều loại tương sriracha, nhưng chỉ có một tương con gà mà thôi.” Tờ báo này cũng đề cập đến bức hình NASA chụp hai phi hành gia cùng chai tương sriracha Huy Fong trôi vô trọng lực bên bàn ăn của phi thuyền không gian.
New York Times có bài “Hot Stuff in a Squeeze Bottle” sau khi đến thăm ông Trần Đức và người con trai Wiliam Trần, nay được giao chức vụ giám đốc công ty Huy Fong. Một bài phóng sự khác của Los Angeles Times liệt kê một loạt các điểm chính xoay quanh công ty như lịch sử hình thành và các đối thủ cạnh tranh. The Huffington Post hay Chicagoist thì viết về bộ phim tài liệu và cuốn sách dạy nấu ăn từ tương sriracha con gà nổi tiếng.
Còn nữa nhiều ví dụ khác.
Sản phẩm
Bắt đầu từ Los Angeles và Houston, nay Walmart, hệ thống bán lẻ lớn nhất Hoa Kỳ, có gần 3000 chi nhánh bán loại tương ớt này.
Công ty Huy Fong Foods không phải là công ty duy nhất tại Mỹ giàu lên nhờ kinh doanh thực phẩm. Chai tương ớt sriracha ăn phở cũng không phải là sản phẩm duy nhất được sản xuất tại đây.
Danh tiếng
Tuy chẳng bao giờ quảng cáo, tên tuổi công ty Huy Fong nhiều lần xuất hiện trên phương tiện truyền thông Hoa Kỳ. Báo chí Mỹ thường dùng tên David Trần để nhắc đến vị “triệu phú tương ớt,” hơn là cái tên Việt Nam trên giấy khai sinh của ông.
Tờ Bloomberg Businessweek có bài phóng sự nói “ đây là một trong những công ty thực phẩm phát triển nhanh nhất Hoa Kỳ” và “có nhiều loại tương sriracha, nhưng chỉ có một tương con gà mà thôi.” Tờ báo này cũng đề cập đến bức hình NASA chụp hai phi hành gia cùng chai tương sriracha Huy Fong trôi vô trọng lực bên bàn ăn của phi thuyền không gian.
New York Times có bài “Hot Stuff in a Squeeze Bottle” sau khi đến thăm ông Trần Đức và người con trai Wiliam Trần, nay được giao chức vụ giám đốc công ty Huy Fong. Một bài phóng sự khác của Los Angeles Times liệt kê một loạt các điểm chính xoay quanh công ty như lịch sử hình thành và các đối thủ cạnh tranh. The Huffington Post hay Chicagoist thì viết về bộ phim tài liệu và cuốn sách dạy nấu ăn từ tương sriracha con gà nổi tiếng.
Còn nữa nhiều ví dụ khác.
Sản phẩm
Bắt đầu từ Los Angeles và Houston, nay Walmart, hệ thống bán lẻ lớn nhất Hoa Kỳ, có gần 3000 chi nhánh bán loại tương ớt này.
Công ty Huy Fong Foods không phải là công ty duy nhất tại Mỹ giàu lên nhờ kinh doanh thực phẩm. Chai tương ớt sriracha ăn phở cũng không phải là sản phẩm duy nhất được sản xuất tại đây.
Một góc xưởng Huy Fong Foods với các thùng phi trữ ớt để bán quanh năm. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
Công ty nghiên cứu thị trường IBIS World nói ngành sản xuất tương là một trong những ngành phát triển nhanh nhất tại Hoa Kỳ, lợi nhuận hơn $1 tỉ vào năm 2012. Riêng tại Huy Fong Foods, mỗi năm có 20 triệu chai tương ớt được thành phẩm, tổng trị giá khoảng $50 triệu.
Công ty Huy Fong Foods có thể không là công ty lớn nhất trong ngành, nhưng là công ty duy nhất do một thuyền nhân- di dân làm chủ.
Huy Fong Foods có tổng cộng ba sản phẩm: ớt tỏi xay, tương ớt sambal oelek theo mùi vị Indonesia, và tương ớt sriracha theo mùi vị Thái Lan. Công ty ban đầu hướng vào khách hàng người Đông Nam Á tại Mỹ. Tỏi ớt xay của Huy Fong có thể dùng để pha nước mắm. Sambal oelek có màu và hương vị hơi lạ, nhưng cũng là ớt và tỏi xay. Tương ớt sriracha tuy có tên Thái nhưng chính là loại tương đỏ, hơi lỏng và có mùi tỏi và hơi chua ngọt, mà người Việt thường dùng chấm khô mực, bò viên…
Loại tương sriracha là sản phẩm mấu chốt đưa tên tuổi của Huy Fong tiến vào thị trường Hoa Kỳ, một thị trường mà tỉ lệ khách hàng gốc Á ngày càng tăng. Tuy cùng phổ biến song song với món phở, tương ớt hiệu con gà nay được các sắc dân khác chế biến đủ kiểu tùy theo khẩu vị. Cuốn sriracha còn hướng dẫn pha tương ớt với thức uống có cồn.
Ngoài đại lý tại khắp 50 tiểu bang Hoa Kỳ, các công ty xuất nhập khẩu ở một số nước khác cũng ghi danh xin bán tương ớt hiệu con gà của Huy Fong Foods, như Lybian, Qatar hay Dubai. Tuy nhiên, không phải lúc nào công ty cũng có đủ hàng cung cấp.
“Trước giờ cũng vậy, lúc nào cũng không có đủ ớt để bán.” Ông Trần Đức nói.
Được khách hàng đón nhận, công ty Huy Fong Foods liên tục phát triển trong suốt 33 năm hoạt động. Từ xưởng rộng 2,500 sq ft (thước vuông) tại North Springs với năm người trong nhà cùng làm bằng phương pháp thủ công, Huy Fong nay có xưởng đặt tại Irwindale , rộng gần 700,000 sq ft với máy móc hoàn toàn tự động.
Công ty Huy Fong Foods có thể không là công ty lớn nhất trong ngành, nhưng là công ty duy nhất do một thuyền nhân- di dân làm chủ.
Huy Fong Foods có tổng cộng ba sản phẩm: ớt tỏi xay, tương ớt sambal oelek theo mùi vị Indonesia, và tương ớt sriracha theo mùi vị Thái Lan. Công ty ban đầu hướng vào khách hàng người Đông Nam Á tại Mỹ. Tỏi ớt xay của Huy Fong có thể dùng để pha nước mắm. Sambal oelek có màu và hương vị hơi lạ, nhưng cũng là ớt và tỏi xay. Tương ớt sriracha tuy có tên Thái nhưng chính là loại tương đỏ, hơi lỏng và có mùi tỏi và hơi chua ngọt, mà người Việt thường dùng chấm khô mực, bò viên…
Loại tương sriracha là sản phẩm mấu chốt đưa tên tuổi của Huy Fong tiến vào thị trường Hoa Kỳ, một thị trường mà tỉ lệ khách hàng gốc Á ngày càng tăng. Tuy cùng phổ biến song song với món phở, tương ớt hiệu con gà nay được các sắc dân khác chế biến đủ kiểu tùy theo khẩu vị. Cuốn sriracha còn hướng dẫn pha tương ớt với thức uống có cồn.
Ngoài đại lý tại khắp 50 tiểu bang Hoa Kỳ, các công ty xuất nhập khẩu ở một số nước khác cũng ghi danh xin bán tương ớt hiệu con gà của Huy Fong Foods, như Lybian, Qatar hay Dubai. Tuy nhiên, không phải lúc nào công ty cũng có đủ hàng cung cấp.
“Trước giờ cũng vậy, lúc nào cũng không có đủ ớt để bán.” Ông Trần Đức nói.
Được khách hàng đón nhận, công ty Huy Fong Foods liên tục phát triển trong suốt 33 năm hoạt động. Từ xưởng rộng 2,500 sq ft (thước vuông) tại North Springs với năm người trong nhà cùng làm bằng phương pháp thủ công, Huy Fong nay có xưởng đặt tại Irwindale , rộng gần 700,000 sq ft với máy móc hoàn toàn tự động.
Hình của khách hàng của tương ớt sriracha hiệu con gà, chụp từ máy tính. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
Chủ nhân
Nhà “triệu phú tương ớt” vừa bước qua tuổi 68, ông nhỏ con, da nhăn có chút đồi mồi, đầu trọc để lộ đôi tai lớn so với khuôn mặt. Phong thái ông nhanh nhẹn không thua gì thanh niên, nếu không muốn nói là có phần trội hơn. Một ngày làm việc của ông bắt đầu khi mặt trời mọc, và có thể, kết thúc khi mặt trời lặn.
“Nó (công ty) giống như vợ bé của tui vậy đó. Rảnh là chạy ra đây. Cuối tuần xưởng không có ai đi làm, ngoài mình tui.” Ông Trần Đức nói giọng người Nam kỳ. Nếu tinh ý, người nghe vẫn có thể bắt gặp vài từ ông Đức phát âm đúng kiểu người Hoa.
Tuy gia đình là người Hoa và sống tại Mỹ hơn nửa đời người, ông nói Tiếng Việt chuẩn, vì sinh ra và lớn lên tại Ba Xuyên (nay là Sóc Trăng). Mười sáu tuổi, ông cùng gia đình chuyển lên Long Bình, khi đó là ngoại ô Sài Gòn, làm nghề trồng ớt.
Sau 1975, gia đình ông Đức bắt đầu làm và bán sa tế Tiều Châu cho các nơi ở Sài Gòn. Năm 1979, người thân và bạn bè ông lần lượt lên tàu vượt biên theo diện bán chính thức cho người Hoa. Mỗi người nộp 10 lượng vàng cho chính phủ. Gia đình ông Đức gom góp tiền bạc, chia thành bốn đoàn, lên tàu đi. Vợ ông cùng con trai đi trước, đến Indonesia. Ông đi sau, đến Hồng Kông. Ông học nghề đầu bếp trong mấy tháng ở đây, trước khi đoàn tụ với vợ con tại Boston.
Theo lời ông Đức, những ngày đầu đặt chân tới Mỹ , cũng như nhiều người khác, ông Trần Đức chỉ mong tìm được một công việc đủ nuôi vợ, nuôi con. Khi vẫn đang tìm việc tại Boston, ông nghe người nhà nói ở California có trồng được ớt đỏ. Lập tức, ông mang gia đình chuyển đến tiểu bang ấm áp này sinh sống.
“Khó nhất là phải có nguồn ớt đỏ,” ông Đức nói. Nông dân Mỹ thường hái ớt khi còn xanh để giữ được lâu. Ớt đỏ rẻ giá hơn, khi bán ra là đã gần hư, sắp đổ.
Ban đầu, ông và người nhà cứ đi khắp các chợ tìm mua ớt. Mang về, họ dùng máy xay thịt để xay, trộn. Những người em vợ ông múc ớt bỏ vào chai, rồi đóng nhãn. Họ dùng một chiếc xe van đi giao ớt các nơi, thu nhập mỗi tháng vài ngàn đồng.
“Có ớt làm, là có người mua. Chỉ sợ những lúc không có ớt để làm.” Ông nhớ về những buổi đầu lập nghiệp ở Mỹ.
Kinh nghiệm trồng ớt, làm ớt ở Long Bình, và cả bí quyết học được từ ẩm thực của người Việt giúp ông Đức giải quyết được vấn đề trữ được ớt để bán quanh năm, dù mùa ớt chỉ kéo dài ba tháng.
33 năm làm việc không ngừng nghỉ, ông Đức trở thành triệu phú Mỹ chỉ với món tương ớt ăn phở. Tuy từ lâu đã giao chức vụ giám đốc công ty lại cho hai người con, ông Đức vẫn ra xưởng mỗi ngày. Ông tự tay thiết kế toàn bộ hệ thống máy móc và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
“Nói là nghỉ hưu mà lúc nào cũng ra đây hết.” Ông Đức cười.
Ông mở máy, cho xe cart chạy, tiến về góc xưởng nơi có một vòi nước có lẽ bị rò, đang cần người kiểm tra.
Đằng sau “may mắn”
Người “triệu phú tương ớt” dùng hai chữ “may mắn” để tóm gọn về hành trình xây dựng cơ nghiệp trị giá hàng chục triệu đô. Chia sẻ về những “dịp may”, ông Trần Đức kể về quãng thời gian trồng ớt ở Sài Gòn, lợi ích không ngờ của ba tháng đi biệt động quân VNCH, việc khai thuế và lần đầu tiên đi mượn ngân hàng ở Mỹ…
Người “triệu phú tương ớt” dùng hai chữ “may mắn” để tóm gọn về hành trình xây dựng cơ nghiệp trị giá hàng chục triệu đô. Chia sẻ về những “dịp may”, ông Trần Đức kể về quãng thời gian trồng ớt ở Sài Gòn, lợi ích không ngờ của ba tháng đi biệt động quân VNCH, việc khai thuế và lần đầu tiên đi mượn ngân hàng ở Mỹ…
Ông Trần Đức, "triệu phú tương ớt", với chiếc bao điện thoại có biểu tượng con gà ông tình cờ mua trên mạng. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
“Tùy đánh giá của từng người thôi, người thì nói tui thành đạt, người khác bảo là tui ngu, cù lần.” Ông Đức cười, nói. Riêng ông tự nhận mình là nhờ số may.“Dễ mà, mình làm có ba loại ớt. Vậy thôi.”
Ông không nhắc đến những ngày đầu múc từng muỗng ớt cho vào chai, lái xe đi giao từng khách hàng, là khổ cực, hy sinh. Ông không than phiền về quãng thời gian ba mươi ba năm ròng làm việc bảy ngày mỗi tuần, không một kỳ nghỉ mát. Ông không coi những lần bỏ qua cơ hội làm giàu là thất bại.
Ngược lại, với ông, công việc là đam mê, thành công là tự đến.
Công ty Huy Fong Foods là “vợ bé” của ông Đức. Ông dành thời gian thiết kế máy móc mới, kiểm tra hệ thống kỹ thuật hiện hành, thăm ruộng ớt, coi lại chất lượng sản phẩm trước khi giao hàng. Ông coi bộ phận sản xuất, việc buôn bán, điều hành ông giao lại cho người nhà.
“Trước giờ vẫn vậy, khách hàng tự tìm tới. Miễn sao mình có ớt bán.” Ông Đức nói. Đó là một trong những lý do ông thường xuyên lên mạng xem những ý kiến khách hàng về sản phẩm.
Bỏ qua tất cả lời mời đầu tư vào ngành nghề và thị trường khác, đến mức bị chửi “ngu,” ông Đức vẫn chỉ tập trung vào ba sản phẩm duy nhất của công ty. “Làm sao để có đủ ớt bán, bán rẻ hơn” là điều quan trọng nhất mà nhà “triệu phú tương ớt” dành thời gian suy nghĩ.
Ông Trần Đức cho rằng thành công từ tương ớt đến một cách “dễ dàng”, và ông “không tiếc” các cơ hội làm ăn khác đã đi qua. “Triệu phú được rồi, thêm mấy số không nữa làm gì. Tỉ phú khổ lắm, chết mà chưa xài hết tiền.”
“Ông mãn nguyện với thành quả của mình?” Câu hỏi của phóng viên làm ông trầm lại.
Dừng một chút trước khi trả lời, ông Đức hồi tưởng về quãng thời gian niên thiếu của hai người con.
“Con tôi lớn lên, tôi không dạy dỗ được chúng nó. Tôi quá bận rộn. Bà xã coi, săn sóc tụi nó. Mỗi ngày, mặt trời lên mình đi làm, mặt trời tắt rồi mình mới về nhà. Tôi thành công trong việc làm ra tiền, nhưng tôi thua (lost) trong việc làm người dạy dỗ con cái.”
“Tụi nó lớn lên, có cách nghĩ riêng của tụi nó. Những thanh niên khác bây giờ cũng vậy, có cách nghĩ riêng của nó. Mình ‘cù lần’, tụi nó không theo nữa.”
--
Sau đây là một vài bí quyết kinh doanh mà người triệu phú gốc Hoa chia sẻ với phóng viên, để lý giải phần nào cho các “dịp may” “tình cờ” đến với ông.
“Chất lượng nhà giàu, giá nhà nghèo”
Ông Đức kể: “Thời Việt Nam mình mới qua, vừa không hợp, vừa không có tiền ăn tương ớt tabasco của Mỹ, chai nhỏ xíu mà mắc lắm. Tương ớt tui làm nhất định phải rẻ để ai cũng có thể mua được.”
Chai tương ớt sriracha của Huy Fong Foods vào năm 1980 có giá $2/chai. Nếu theo tính toán của Bộ Lao Động Hoa Kỳ dựa trên tỉ lệ lạm phát, giá đó giờ phải lên là $5.57/chai. Trên thực tế, giá bán sỉ hiện tại của một chai tương Huy Fong Foods là $1.66/chai. Các đối thủ cạnh tranh khó mà thắng được công ty của ông Trần Đức.
“Ba mươi mấy năm trước mình bán giá này cũng có income rồi. Mình không cần bán giá mắc. Tiền công, cái gì cũng lên. Nếu mình cũng lên giá theo phần trăm, mình chắc billionaire rồi. Nhưng không cần.” Ông Đức nói.
“Mình okay là được rồi, không cần làm billionaire chi, rất khổ. Cha mẹ cũng không để gì cho mình. Mình đâu cần lo phải để thật nhiều cho con cái. Tự nó sống, tự nó làm.”
“Thành thử, mình không cần lên giá. Lên giá chi.”
Đi đầu
Nhắc đến giá cả và các đối thủ cạnh tranh, ông Đức nói không coi các hãng tương ớt khác là “đối thủ.”
“Nếu một chậu bông hoàn toàn là bông đỏ, thì cũng buồn lắm. Phải có bông đỏ, bông vàng, có lá có cành.” Ông nói về thị trường sản xuất tương ớt. “Người ta làm cũng là người ta muốn kiếm cái bữa ăn thôi.”
Ông nói ông có các may mắn hơn các hãng khác là nhờ đúng thời, giúp ông đi đầu trong ngành sản xuất tương ớt.
Ông không nhắc đến những ngày đầu múc từng muỗng ớt cho vào chai, lái xe đi giao từng khách hàng, là khổ cực, hy sinh. Ông không than phiền về quãng thời gian ba mươi ba năm ròng làm việc bảy ngày mỗi tuần, không một kỳ nghỉ mát. Ông không coi những lần bỏ qua cơ hội làm giàu là thất bại.
Ngược lại, với ông, công việc là đam mê, thành công là tự đến.
Công ty Huy Fong Foods là “vợ bé” của ông Đức. Ông dành thời gian thiết kế máy móc mới, kiểm tra hệ thống kỹ thuật hiện hành, thăm ruộng ớt, coi lại chất lượng sản phẩm trước khi giao hàng. Ông coi bộ phận sản xuất, việc buôn bán, điều hành ông giao lại cho người nhà.
“Trước giờ vẫn vậy, khách hàng tự tìm tới. Miễn sao mình có ớt bán.” Ông Đức nói. Đó là một trong những lý do ông thường xuyên lên mạng xem những ý kiến khách hàng về sản phẩm.
Bỏ qua tất cả lời mời đầu tư vào ngành nghề và thị trường khác, đến mức bị chửi “ngu,” ông Đức vẫn chỉ tập trung vào ba sản phẩm duy nhất của công ty. “Làm sao để có đủ ớt bán, bán rẻ hơn” là điều quan trọng nhất mà nhà “triệu phú tương ớt” dành thời gian suy nghĩ.
Ông Trần Đức cho rằng thành công từ tương ớt đến một cách “dễ dàng”, và ông “không tiếc” các cơ hội làm ăn khác đã đi qua. “Triệu phú được rồi, thêm mấy số không nữa làm gì. Tỉ phú khổ lắm, chết mà chưa xài hết tiền.”
“Ông mãn nguyện với thành quả của mình?” Câu hỏi của phóng viên làm ông trầm lại.
Dừng một chút trước khi trả lời, ông Đức hồi tưởng về quãng thời gian niên thiếu của hai người con.
“Con tôi lớn lên, tôi không dạy dỗ được chúng nó. Tôi quá bận rộn. Bà xã coi, săn sóc tụi nó. Mỗi ngày, mặt trời lên mình đi làm, mặt trời tắt rồi mình mới về nhà. Tôi thành công trong việc làm ra tiền, nhưng tôi thua (lost) trong việc làm người dạy dỗ con cái.”
“Tụi nó lớn lên, có cách nghĩ riêng của tụi nó. Những thanh niên khác bây giờ cũng vậy, có cách nghĩ riêng của nó. Mình ‘cù lần’, tụi nó không theo nữa.”
--
Sau đây là một vài bí quyết kinh doanh mà người triệu phú gốc Hoa chia sẻ với phóng viên, để lý giải phần nào cho các “dịp may” “tình cờ” đến với ông.
“Chất lượng nhà giàu, giá nhà nghèo”
Ông Đức kể: “Thời Việt Nam mình mới qua, vừa không hợp, vừa không có tiền ăn tương ớt tabasco của Mỹ, chai nhỏ xíu mà mắc lắm. Tương ớt tui làm nhất định phải rẻ để ai cũng có thể mua được.”
Chai tương ớt sriracha của Huy Fong Foods vào năm 1980 có giá $2/chai. Nếu theo tính toán của Bộ Lao Động Hoa Kỳ dựa trên tỉ lệ lạm phát, giá đó giờ phải lên là $5.57/chai. Trên thực tế, giá bán sỉ hiện tại của một chai tương Huy Fong Foods là $1.66/chai. Các đối thủ cạnh tranh khó mà thắng được công ty của ông Trần Đức.
“Ba mươi mấy năm trước mình bán giá này cũng có income rồi. Mình không cần bán giá mắc. Tiền công, cái gì cũng lên. Nếu mình cũng lên giá theo phần trăm, mình chắc billionaire rồi. Nhưng không cần.” Ông Đức nói.
“Mình okay là được rồi, không cần làm billionaire chi, rất khổ. Cha mẹ cũng không để gì cho mình. Mình đâu cần lo phải để thật nhiều cho con cái. Tự nó sống, tự nó làm.”
“Thành thử, mình không cần lên giá. Lên giá chi.”
Đi đầu
Nhắc đến giá cả và các đối thủ cạnh tranh, ông Đức nói không coi các hãng tương ớt khác là “đối thủ.”
“Nếu một chậu bông hoàn toàn là bông đỏ, thì cũng buồn lắm. Phải có bông đỏ, bông vàng, có lá có cành.” Ông nói về thị trường sản xuất tương ớt. “Người ta làm cũng là người ta muốn kiếm cái bữa ăn thôi.”
Ông nói ông có các may mắn hơn các hãng khác là nhờ đúng thời, giúp ông đi đầu trong ngành sản xuất tương ớt.
Ông Trần Đức trên xe cart nhỏ, đi vòng quanh xưởng. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
“May mắn, rất may mắn. Nhờ năm 1980 mình tới đây người Việt không có bao nhiêu, người Đài Loan đã nhiều. Tương ớt tabasco không ăn hợp với đồ Việt Nam mình. Ớt mình ăn đâu có như tabasco, mình phải ăn với tỏi. Cái thị trường nó cần cái mình có. Nên mình được.”
“Bữa nay, ai mang tiền mấy triệu ra đầu tư cũng không được cái thời. Thị trường đã bị mình chiếm rồi, mình ra quá nhiều rồi. Nó làm rồi nó sẽ bị lỗ. Mình may mắn vì mình là người đi trước.”
Không tham gian
Với một số người khen ông là khôn ngoan trong kinh doanh, ông Trần Đức trả lời: “Đừng ăn hiếp người ta, và cũng đừng để người ta ăn hiếp mình.”
Ông lấy việc mua ớt làm ví dụ. Ông có thuê bao một trang trại trồng ớt. Đây là người duy nhất ông hợp tác. “Nếu mình tham, mình mua nhiều nơi để cho tụi nó cạnh tranh với nhau, bán rẻ cho mình. Nhưng nó không có lời, nó không làm ăn đàng hoàng, thì mình cũng bị ảnh hưởng. Ăn hiếp người ta thì người ta cũng không chịu làm ăn với mình nữa.”
Ông cũng khuyên hãy làm theo đúng luật, đóng thuế, để vừa thanh thản tinh thần, và vừa có những lợi thế khi kinh doanh tại Mỹ. Ông kể về những người khuyên mang tiền đi đầu tư nơi khác, khai thu nhập lại, để khỏi đóng thuế. Đến khi ông vay mượn ngân hàng để mở rộng công ty, ngân hàng từ chối, nói “trồng ớt hả?”, nhưng nhờ vào số tiền thuế ông khai đều đặn mỗi năm, “đủ mua một căn nhà,” thì ngân hàng tin tưởng và cho vay.
“Tui thấy bạn bè tui, những người cũng bắt đầu sự nghiệp giống tui, nhưng không mượn được tiền để phát triển được. Ngân hàng ở đây, mình đâu có mời nó đi ăn được, mà nó nhìn giấy tờ hết. Tiền mặt nếu mang ra nước ngoài đầu tư, đâu tự nhiên đùng một cách xách về xây xưởng được. ”
“Vậy đó, không tham và phải biết nghĩ đến sự giúp đỡ của người khác. Tham, chỉ biết có mình là không thành công đâu.”
Giữ bí kíp gia truyền
Ít cho báo chí phỏng vấn, không nhận tiền đầu tư của “người ngoài”, tự tay thiết kế trang thiết bị… cũng nhằm mục đích giấu biệt công thức làm ớt của ông Trần Đức.
Hình xưởng ớt chụp từ camera. Toàn bộ máy móc do chính ông Trần Đức thiết kế, mướn người gia công. (Hình: Thiên An/Người Việt)
|
“Báo chí hay hỏi làm thế nào, cứ hỏi, nhưng mình đâu có trả lời được.” Ông Đức nói. “Người ngoài xin hợp tác, nó học được cách làm rồi lại đi mở xưởng cạnh tranh với mình thì sao. Mệt lắm.”
“Mình lập nghiệp cực khổ lắm, từng chút từng chút một. Khuếch trương ra làm là không có bền vững như cách truyền thống gia đình. Mình chỉ làm người nhà với nhau thôi.”
“Ở Mỹ không có thị trường ớt đỏ tươi. Đặc biệt, bí kíp, là ở đây. Mình phải làm sao mà mua ớt đỏ về, biến chế thế nào mà khi bán, ớt vẫn giữ nguyên mùi vị. Khi mùa hay không mùa, mình vẫn bán rẻ, giá không đổi trong cả năm. Nhờ kinh nghiệm trồng ớt ở Việt Nam, mình biết.”
“ Mà bí kíp là không có nói được.”
--
Trong quá trình nói chuyện với phóng viên về may mắn lớn nhất đã giúp ông chế biến thành công mùi vị sriracha, tuy mang tiếng là tương ớt Thái nhưng có vị rất riêng, ông Trần Đức có bật mí:
“Tui biết cái bí quyết làm ớt là khi tui đi lính Việt Nam Cộng Hòa. Đi biệt động quân. Ở trại huấn luyện, cực khổ lắm, mình lót tiền rồi nó cho làm đầu bếp cho lính ăn. Nhưng mình không có biết bắn, lúc đó đánh giặc chắc mình chết hay chạy trước.”
“Mình làm bếp, nấu cơm cho một đội là hai trăm người ăn. Đâu có đồ ăn, chỉ có cơm trắng, cá chiên với nước mắm. Mình phải mua ớt tỏi về làm, mà phải làm sao cho thiệt ngon. Cơm chan nước mắm ăn mà. Nên mình học được cái bí quyết.”
“Làm nước mắm ớt mà ngon là phải hỏi người Việt Nam. Người Hoa ở Việt Nam, giống gia đình tui, làm nước mắm hổng ngon. Chính cống người Việt làm mới ngon. Không biết phải toàn người Việt không, nhưng những người tui tiếp xúc, bán bún, bánh xèo, pha nước mắm đặc biệt ngon.”
“Nước mắm có đường, nước, chanh. Đi lính ảnh hưởng nhiều lắm đến cách làm ớt của tui. Tui rất may mắn.”
"Mà thôi, đừng hỏi nữa, không có nói được."
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.