Ba
vấn đề lớn trong các “đại án kinh tế”, qua vụ án Vinalines
Phan Châu Thành
(Danlambao) -
Ngày mai, 16/12 phiên tòa “đại án Vinalines” xử
Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc, Trần Hải Sơn... sẽ có phán quyết cuối cùng nặng
nề với 2 án tử hình và một án tù giam 34 năm (vẫn chưa phải án chung thân!).
Tội danh chính gồm 2 phần: Vi phạm qui định nhà nước và tham nhũng (đưa và nhận
hối lộ), cả hai đều gây thất thuất tài sản lớn của nhà nước...
Phiên tòa là bức tranh chung
đại diện cho nền kinh tế cũng như cho cả thể chế nước ta hiện nay. Từ đó, tôi
thấy có ba vấn đề lớn trong vụ án này cũng như trong các “vụ đại án kinh” khác
của Việt Nam, đó là: Cơ sở pháp lý (cả lập pháp, tư pháp lẫn hành pháp), của vụ
án này không ổn, và như thế chẳng qua là họ đang lừa dân biểu diễn màn hài kịch
“chống tham những”, đang lợi dụng pháp lý để các phe nhóm lợi ích trong đảng
đấu đá nhau mà thôi; hai là: Cơ chế kinh tế - dùng các đơn vị kinh doanh quốc
doanh làm chỉ đạo - tạo ra các vấn đề trầm trọng thể hiện rất rõ trong các vụ
án, luôn luôn và tất yếu gây nên đỏ vỡ kinh tế lớn cho đất nước; và thứ ba là
cách dùng người và cách quản lý kinh tế của chế độ này hay cơ chế đó rất không
ổn: không theo hiệu quả làm việc mà theo “phân công của đảng” tức bổ nhiệm theo
thế lực thực tế của các phê nhóm lợi ích trong đảng với nhau trong từng lĩnh
vực cụ thể, mà chỉ ra sức khai thác thực tế “thắng lợi cách mạng” đã để lại
hiện nay...
Vậy nên tôi xin có vài ý kiến
chia sẻ về điều đó, và xin bỏ qua phần tội danh tham nhũng vốn là bản chất hệ
thống và là đặc thù (vừa là phương tiện vừa là mục đích cách mạng) của các quan
cộng sản, ở đâu cũng có, và trong cơ quan nào cũng có thể thấy rõ mọi lúc mọi
nơi, dù bao giờ khi khởi tố các vụ án cũng chỉ là “vi phạm các qui định quản lý
nhà nước”...
Phần 1: Những vấn đề trong cơ sở pháp lý của
vụ án Vinalines
Cơ sở pháp lý để luận tội “vi
phạm các qui định quản lý nhà nước” ở đây, trong ví dụ vụ “đại án kinh tế”
Vinalines là Nghị định 49/2006/NĐ-CP của Thủ Tướng mới lên lúc đó NTD ký ngày
18/5/2006 (NĐ 49/CP).
Về lập pháp, trước
2006 cả nền kinh tế phát triển khá rầm rộ và việc các đơn vị, địa phương ồ ạt
nhập tầu biển cũ về kinh doanh là rất phổ biến, vì nói chung cách đó khá hiệu
quả đối với nền kinh tế vừa mới mở ra của ta thời kỳ đó. Việc quản lý nhập khẩu
tàu biển về VN trên phạm vị quốc gia với cái nhìn vì lợi ích cả nền kinh tế khi
đó và bao giờ cũng là cần thiết. Nhưng không hiểu sao người chấp bút cho nghị
định CP này lại là... Vinashin. Vinashin chính là “nạn nhân” của “phong trào”
nhập tầu biển cũ ồ ạt làm các xưởng tàu trong nước chết thảm nhiều năm (20 năm
dài, từ 1986) trước đó, nhất là các xưởng tàu lớn của Vinashin... Vì thế, Nghị
định 49 đã ghi rõ cấm nhập các tàu biển trên 15 tuổi... Mục tiêu “lập pháp” lớn
nhất của Vinashin lúc đó là bắt các anh “bạn vàng” lớn nhất trong nước như
Vinalines, PetroVietnam, Petrolimex và các loại tổng công ty “im-ếch” và các
công ty vận tải biển khác “của nhà nước” phải đặt hàng họ - Vinashin đóng tàu
mới trong nước thay vì đi mua tàu cũ… Chính phủ thì coi đây là nghị định bảo hộ
kinh tế của mình giúp Vinashin - quả đấm thép đặc biệt “sáng” lên...
Đầu 2006, tôi đã được ông
Bình và ông Ánh (TGĐ và PTGĐ Vinashin) khoe về thành tích “lập pháp” đó của họ
như sau: “Bọn tớ đang sắp lùa được chúng nó vào rọ hết rồi. Từ 1.6.2006 chúng
nó có muốn cũng không thể chạy thoát việc đặt hàng đóng mới ở Vinashin...”, và
họ nói về nội dung Nghị định 49/CP mà N.T.Dũng sẽ ký... (“Chúng nó” ở đây là
“các ông bạn vàng” đã kể trên), rồi họ say sưa nói đến tương lai ngành đóng tàu
Việt Nam sẽ trở thành trụ cột nền kinh tế Biển, sẽ đứng thứ tư (trong kế hoạch
gửi CP họ rút xuống thứ 7) thế giới, vào năm 2010...
Tôi đã đưa ra bốn lý do chính
mà theo tôi một NĐ như thế dù CP có thông qua cũng sẽ khó thực hiện là: Người
mua tầu cũ, dù trên 15 năm tuổi, thường sẽ khai thác hiệu quả hơn đóng mới rất
nhiều (vì nước ta còn nghèo, dân ta chưa quan tâm đến cấc vấn đề an toàn và môi
tường...); thứ hai: tầu trên 15 tuổi mà do Nhật hay Châu Âu đóng thì khả năng
chất lượng còn rất tốt và thiết bị kỹ thuật hiện đại... hơn tàu Vinasshin đóng
mới là rất cao, (tàu Vinashin đóng mới chỉ hơn tàu cũ của... TQ đóng thôi!), và
thứ ba: Thế giới đóng tàu là để dùng 50-60 năm (có khi cả trăm năm) thì mới
hiệu quả, chứ có phải chỉ dùng 15 năm đâu? Tầu dưới 15 tuổi rất ít chủ tàu bán
đi vì đang “ngon” và khai thác chưa thu hồi hết vốn và bán đi thì khó vì giá
phải cao; và lý do thứ tư, quan trọng nhất: Khi đi mua tầu ở nước ngoài, người
ta vừa được du hí bằng tiền nhà nước, vừa được chủ tầu “lại quả” rất ngon vì
người ta mua bằng tiền nhà nước mà...
Như vậy, vấn đề trong lập
pháp ở đây là, Nghị định 49/CP là một chính sách cực kỳ sai lầm của chính phủ
vì nó không khả thi, vì nó đi ngược các nguyên tắc kinh tế cơ bản trên.
Tôi không biết trên thế giới
có nước nào “chơi sang” mà dám có chính sách bảo hộ “tự hại” như NĐ 49/CP cấm
nhập tầu biển trên 15 tuổi như VN? Thường thì, các chính phủ không khuyến khích
việc nhập tàu biển cao tuổi bằng các chính sách thuế cao (thế nhập khẩu và thuế
khai thác), và bằng các qui định cao về an toàn, đăng kiểm, bảo hiểm... với tàu
biển mà thôi. Ví dụ, vì các lý do cụ thể là bảo vệ môi trường biển, nước Úc cấm
tàu trên 30 tuổi vào cảng của họ, vì bảo vệ an toàn con người đi biển các nước
Tây Âu đánh thuế rất cao chủ tàu của họ khi khai thác tàu cũ trên 25 năm nhưng
vẫn cho khai thác vô thời hạn, miễn là đăng kiểm và bảo hiểm chấp nhận... hay
vì tham gia các công ước quốc tế về biển như IMO, SOLAS... mà các nước đều phải
gia tăng các yêu cầu đăng kiểm an toàn kỹ thuật tàu biển… Chỉ có VN mới có tư
duy điều hành kinh tế bằng mệnh lệnh với vô số các nghị định như kiểu NĐ 49/CP
đó...
Có thể những người thông qua
nghị định 49/CP (là VPCP) và người ký nó (TTg Nguyễn Tấn Dũng) chả hiểu tí gì
về tầu biển và sự nguy hiểm của bảo hộ kinh tế trực tiếp, nhưng họ cũng đã
không biết học theo “đại ca” của mình là Đặng Tiểu Bình khi ông này đã từng nói
và làm trong thời điểm mở cửa nước Trung Hoa rằng: “đóng tàu không bằng mua
tàu, mua tàu không bằng thuê tàu...” để thực hiện chính sách “mèo trắng hay mèo
đen, miễn mèo nào bắt được chuột!” của ông.
Trong kinh tế của các “quả
đấm thép” VN thì câu đó là: mua tàu hay đóng tầu hay thuê tàu, miễn là đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất? Thế là, để mở cửa nền kinh tế, TQ thì bắt đầu bằng thuê
tầu và họ cứ thế đi lên, còn VN bắt đầu bằng mua tàu (cũ) và đóng tàu (nát) -
VN cứ thế mà chìm nghỉm. Ngày hôm nay, công nghiệp đóng tàu TQ đứng đầu thế
giới (về sản lượng và thị trường, chất lượng thì còn lâu - vì đó là vấn đề “đạo
đức cộng sản”), đóng tàu VN cũng đứng đầu thế giới, nhưng về tai tiếng và ân
oán nợ nần...
Chính sách đó (Nghị định
49/CP) đã phá sản hoàn toàn mà, về hành pháp, đến hôm nay nó vẫn được dùng như
Kinh thánh để làm cơ sở pháp lý quản lý kinh tế trong nước và cho các vụ án,
nhất là trong các vụ “đại án linh tế” như vụ Vinalines... Tức là nó đang là cơ
sở pháp lý để kết án tử hình hai ông Dũng và Phúc...
Cần phải nhắc lại là, chính
trong vụ đại án Vinashin mới gần đây thôi, người ta cũng đã dùng Nghị định 49/CP
này để kết án các quan chức vô lại Vinashin khi chính họ đã vi phạm cái nghị
định mà họ soạn thảo ra rồi “lobby” để Thủ tướng ký năm 2006 đó! Đó là khi họ
được giao một đống tiền của nhà nước và họ biết nếu họ tự đóng tàu thì chỉ có
lỗ nên họ đã... đi mua hàng loạt tàu cũ về và lập nên các công ty hàng hải
Vinashinlines, Biển Đông, tàu khách Bắc Nam Vinashin, từ số O tròn trĩnh thành
những “người khổng lồ” trong ngành trong mấy tháng!
Khoảng thời gian đó
(2007-2008?), tôi lại quay lại hỏi các ông Bình, Ánh... “Sao các anh vi phạm NĐ
49/CP? Sao các anh không “vì tương lai nghành đóng tàu Việt nam” mà tự đóng tàu
rồi khai thác?’ Có phải vì mấy nguyên nhân làm NĐ 49/CP sẽ bất khả thi mà tôi
đã đưa ra?...” Thì tôi được trả lời: Vinashin được Thủ tướng giao nhiệm vụ cấp
tốc phát triển tuyến vận tải hành khách và container Bắc-Nam để khẳng định vai
trò kinh tế biển của Việt Nam, nên không thể đợi đóng tàu được! Và vì thế...
tất cả các con tàu họ mua “cấp tốc” về đều có tuổi vượt xa tuổi 15 - “sắp trăng
tròn” mà họ đã yêu cầu CP cấm nhập...
Như vậy, việc hành pháp với
NĐ 49/CP cũng chỉ là trò hề, họ thích thì theo, không thích thì thôi, có người
phải theo, có người không phải theo, và bao giờ họ cũng có lý do gì đó cao hơn
pháp luật, ví dụ ở đây là “chỉ thị của thủ tướng”... Vậy pháp luật là gì, nghị
định CP là gì mà bắt cả nước phải tuân theo nếu vẫn có những thứ luôn cao hơn
pháp luật?
Khuôn mặt thứ ba của hệ thống
Pháp lý là tư pháp, với Nghị định 49/CP năm 2006 thì nó là cái gì, trông như
thế nào? Trong ngành vận tải sông biển và đóng tàu (cả trong dầu khí, thủy sản
và một số ngành công nghiệp khác...) có một dạng tổ chức độc lập đóng vai trò
tư vấn pháp lý và kỹ thuật trong ngành, vai trò tư pháp, đó là tổ chức Đăng
kiểm Hàng hải Việt nam. Ở nước ta Đăng kiểm Hàng hải là cơ quan nhà nước vừa có
vài trò lập pháp (lập ra các qui phạm, qui định kỹ thuật), vừa có vài trò hành
pháp (giám sát thực hiện) và vừa có vai trò tư pháp (giải thích, điều chỉnh, tư
vấn kỹ thuật...)
Trong NĐ 49/CP. Đăng Kiểm VN
đã bị cho đứng ngoài từ đầu trong việc tham gia tư vấn “lập pháp”, tức là góp ý
cho NĐ 49/CP, ít nhất là về chuyên môn kỹ thuật hàng hải. Vì thế cho nên khái
niệm cơ bản như ụ nổi 83M có phải là tàu biển không và có chịu sự áp đặt của
Nghị định 49/CP đó không, mà đến nay người ta cũng vẫn còn cãi nhau suốt, đã
gần chục năm áp dụng NĐ rồi, thỉ quả là… bó tay chấm cơm!
Việc này nếu đưa ra tòa án
hay trọng tài quốc tế, thì chỉ cần một câu giải thích định nghĩa từ ship - tầu
biển trong NĐ 49/CP của một cơ quan đăng kiểm quốc tế là xong. Nghị định 49/CP
điều tiết việc nhập khẩu tầu biển nhưng không có định nghĩa “tầu biển” chính
xác và được các bên liên quan hiểu “tầu biển” nhất quán là gì, thể hiện cách
làm luật của ta nó “chuyên nghiệp” ra sao, cách thực hiện luật pháp nó rối loạn
thế nào và cách giải thích và áp dụng nó bế tắc làm sao!
Luật ra ám muội như thế,
những người “cảnh sát kinh tế” cho việc áp dụng luật, ở đây là NG 49/CP và việc
nhập khấu ụ nổi 83m của Vinalines là Hải Quan lại thường là những người biết ít
nhất về kỹ thuật, nhất là kỹ thuật hàng hải, thì làm sao hiểu cho tường tận NĐ
49/CP để thực hiện! Thế mà họ đã hiểu đúng và thực hiện đúng, họ đã cho thông
quan Ụ nổi vì đó đúng là không phải tầu biển – đối tượng áp dụng của NĐ 49/CP!
Thế mà, hôm qua và hôm nay,
đọc các bài báo lề phải về “đại án Vinalines”, về chi tiết các vị công tố viên
dùng biên bản của Đăng kiểm VN để “đập lại” các đăng kiềm viên và cán bộ hải
quan hiện đã là những bị can tại tòa, rằng “Ụ nổi 83M không phải là tàu biển
thì là mớ rau à?”, tôi thấy đau lòng và uất nghẹn cho người dân trước hệ thống
tư pháp ngu và ác đến tột cùng của chế độ này quá! Chẳng khác gì như công an
bắc Giang tra tấn ép cung ông Chấn để lập thành tích phá án nhanh, các công tố
viên Viện Kiểm “nhân dân” đang công khai “ép cung, tức đổi trắng thành đen giữa
phiên tòa, đưa các “đồng chí” vô tội của mình vào vòng lao lý, để lập thành
tích chống tham nhũng với đảng, và đảng thì với dân!
Đó cũng là một lý do trực
tiếp làm tôi phải xóa các cuộc hẹn chiều nay để ngồi viết bài này.
Ý của tôi là: Những người
đang đứng trước vành móng ngựa hôm nay ít nhiều một số cũng có tội và đáng bị
xử, nhưng có lẽ không phải tất cả - có nhiều người không có tội “vi phạm các
qui định pháp luật” như cán bộ đăng kiểm (Lê Văn Dương) và ba cán bộ hải quan
(Huỳnh Hữu Đức, Lê Văn Lừng và Lê Ngọc Triện). Với tôi, những kẻ đang xử họ còn
có tội lớn hơn nhiều, là đang vận hành một chế độ pháp lý đại ngu đại ác đại
bất công như thế!
Tôi xin mạn phép đưa ra 2
định nghĩa tàu biển và Ụ nổi của các đăng kiểm quốc tế (như ABS, DNV-GL, LR,
BV…) dùng phổ biến trong các tài liệu pháp lý, tài liệu kỹ thuật, qui phạm,
tiêu chuẩn kỹ thuật… trong các nghành đóng tàu, hàng hải, dầu khí quốc tế như
sau: Tàu biển (seagoing ships) là phương tiện nổi tự hành (có động cơ và chân
vịt) để (với mục đích chính) vận chuyển hay di chuyển trên biển mà trên 99%
thời gian khai thác của nó là dành cho mục đích chính đó.
Còn Ụ nổi (floating drydock)
là một dạng phao nổi có tiết diện chữ U có đội nổi thay đổi và có thể làm chìm
xuống-nổi lên để năng tàu biển lên khỏi mặt nước.
Theo hai định nghĩa trên và
theo mọi tổ chức đăng kiểm, mọi chuyên gia trong ngành thì ụ nổi và tầu biển là
khác nhau và luôn cần hai định nghĩa khác nhau hoàn toàn như trên. Tứ là, Ụ nổi
83M không phải và không thể là tàu biển, và nó không là đối tượng chịu áp đặt
của NĐ 49/CP hiện hành. Nói Ụ nổi là tầu biển thì cũng như nói nhà hộ sinh là
bà đẻ vậy, hay nói giường bệnh chính là bệnh nhân, gara là cái ô tô, nhà của
bạn là bạn?…
Điều đó có nghĩa là trong vụ
“đại án Kinh tế” Vinalines mà ngày mai người ta sẽ kết án “vi phạm các qui định
quản lý kinh tế” của đối với các ông Dũng, Phúc… trong việc nhập ụ nổi 83M, là
hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Rất tiếc, trong quá trình tố tụng vụ án, các
vị “tư pháp” của vụ án này là các Đăng kiểm VN và Hải quan lại cũng bị bắt giam
cùng các bị can thay vì được hỏi cách hiểu và cách áp dụng NĐ 49/CP!
Tóm lại, trong vụ án này, tư
pháp bị hành pháp bắt giam, đè bẹp và xét xử. Họ trở thành bị can và tội phạm
và họ thậm chí không thể tự bảo vệ chính mình, vì họ bị đảng cướp mất cơ sở
pháp lý của họ - chính là cách hiểu đúng ND 49/CP! Ôi những vị quan tòa công
minh về kỹ thuật – các chuyên gia đăng kiểm, và cả các vị “cảnh sát kinh tế”
của chế độ- trong chế độ không chịu tam quyền phân lập này với ý chí của đảng
luôn cao hơn tam quyền ấy, các vị chỉ có thể trở thành hề, vật hy sinh và mồi
ngon cho kẻ khác! Tư pháp ở đâu ư? Thế Pháp lý ở đâu?
Vinalines – Lại một vụ án
điển hình tượng trưng cho xã hội CSVN này: lập pháp ngu ngơ bất mình, hành pháp
tùy theo ý thích và “sức mạnh $”, còn tư pháp thì bị bắt đem xử luôn cho đúng ý
hành pháp!
Ôi, con đường công lý cho dân
Việt còn xa lắm! Bức tranh những “đại án kinh tế chống tham nhũng” cũng chỉ là
những màn diễn bi hài để các thế lực trong các nhóm lợi ich $ đỏ tranh giành
thế lực với nhau mà thôi…
Tôi chỉ phân tích một NĐ
49/CP để chúng ta thấy cái lố bịch, cái ngu dốt, cái nguy hiểm, cái trơ tráo và
cái sự độc ác của cả hệ thống pháp lý qua một nội dung là ND 49/CP để thấy nó
đã gây nên bao vô lý đau thương bi hài cho nền kinh tế, cho từng người liên
quan và cho cả xã hội VN hiện đại này.
Bây giờ, các bạn hãy tự hình
dung cái xã hội này đã và đang được xây dựng trên hàng ngàn hàng vạn những
“nghị định” ngu xuẩn như thế, được điều tiết mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa,
chính trị, khoa học, pháp luật… của xã hội cộng sản này theo những cách như thế
và bằng những con người như thế, để thấy mức độ ghê tởm và không thể cứu vãn
của nó.
Dân tôi ơi, đừng hy vọng gì
vào cái gọi là chống tham nhũng của CSVN nữa!
(Còn tiếp)
Phan
Châu Thành
danlambaovn.blogspot.com
Ba vấn đề lớn trong các “đại
án kinh tế” (Phần 2)
Phần 2: Những nguyên nhân phá sản từ Mô hình
kinh tế Nhà nước
Phan Châu Thành
(Danlambao) - Trong Phần 1 – Những vấn đề pháp lý
trong các “đại án tham nhũng”, chúng tôi đã chỉ ra
những nguyên nhân trong hệ thống pháp lý đã tham gia tạo nên (như là những cái
bẫy pháp lý) sự đổ vỡ của các tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN) như Vinashin,
Vinalines…
Nhưng những cái bẫy pháp lý (thường là ngu xuẩn
và vô bổ như NĐ 49/CP) giăng trên đầu và xung quanh các tập đoàn KTNN đó, khiến
chúng tự mắc vào và tự sập bẫy cũng chỉ là bối cảnh mà hệ thống pháp lý kinh tế
của thể chế này vô tình tự dựng nên cho các con cưng của mình – các doanh
nghiệp KTNN, mà thôi. Chính cái cơ cấu tổ chức và phương cách quản lý kinh tế
của nhà nước này, hay còn gọi là mô hình tổ chức kinh tế nhà nước, với 127 các
tổng công ty và tập đoàn KTNN ở trung tâm và “là chủ đạo” để đảm bảo “định
hướng XHCN”, mới khiến các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty và tập đoàn
KTNN đó trở thành những cỗ máy tự động vận hành đến… sự sụp đổ tất yếu của
chúng, như Vinashin và Vinalines hay như nhiều công ty NN khác đã tự “vận hành”
tự sát, mà chúng ta đã đang và sẽ còn thấy nhiều.
Vậy điều gì trong cơ cấu tổ chức và hệ thống
quản lý của các tổng công ty và tập đoàn KTNN khiến chúng sẽ tất yếu đi đến phá
sản? Đó là điều tôi xin sẽ trình bày trong phần 2 này.
Thứ nhất, về tổ chức, sau gần trăm năm thí
nghiệm trên hàng chục quốc gia với hàng tỷ dân số, “phe” XHCN vẫn chưa tìm ra
mô hình tổ chức đơn vị kinh tế XHCN cho mình thì tất cả (những quái thai thí
nghiệm mang tên công xã, HTX, liên hiệp xã, xí nghiệp, nông trường, liên hiệp
các xí nghiệp…) đã sụp đổ khắp nơi trước hay cùng bức tường Berlin năm 1991.
Còn lại ở Trung Quốc và Việt Nam người ta đều vội vã học theo mô hình công ty
hay tổng công ty của bọn tư bản “thối tha”, để tồn tại.
Nhưng VN đã áp dụng ba “cải tiến” chính, cơ bản
để chúng vẫn đảm bảo “tính XHCN”: đầu tiên là, sở hữu “toàn dân” - do đảng sở
hữu và đảng cử người “đại diện sở hữu” các công ty đó (Chủ tịch HĐTV), tức là
công ty chỉ có 1 (một) cổ đông duy nhất, thay vì công ty phải do nhiều cổ đông
sở hữu và các cổ đông đó bầu ra chủ tịch HĐTV; hai là, công ty nhà nước thực
chất không có pháp nhân độc lập vì công ty không được độc lập mà phải phụ thuộc
đảng/nhà nước, và vì đảng hay nhà nước chỉ có và chỉ là một pháp nhân duy nhất;
và ba là: đảng bổ nhiệm trực tiếp luôn Giám đốc/Tổng giám đốc điều hành công
ty/tổng công ty thay vì chủ tịch HĐTV chọn thuê người điều hành.
Với ba điều chỉnh chính trên, mô hình công ty,
tổng công ty hay tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam không còn là công ty (The
Corporate body) như là một trong những thành tựu sáng tạo vĩ đại nhất của Loài
người (à quên: của bọn tư bản thối tha) sau mấy thế kỷ trải nghiệm từ thế kỷ
18, thời Adam Smith đến nay, nữa, mà chỉ còn là những quái thai XHCN mới của
Việt Nam.
Hiện đảng và nhà nước VN có ba mô hình chính là
công ty TNHH một thành viên (!), tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước,
trong đó mô hình tập đoàn vẫn đang là “thí nghiệm”. Chính những mô hình tổ chức
công ty XHCN quái thai này đã, đang và sẽ biến những con người vận hành chúng
thành những quái nhân như Phạm Thanh Bình và Dương Chí Dũng, đưa các tổ chức
kinh tế quái thai đó đến những cái chết tất yếu như Vinashin, Vinalines...
Ở Vinashin, chúng ta thấy ông Bình được đảng
“thí nghiệm” bổ nhiệm cả hai chức danh chủ tịch HĐTV và Tổng giám đốc Tập đoàn
(mãi đến khi tập đoàn đã sập ông Bình mới nhường chức tổng giám đốc cho ông…),
nên ông đưa cả tập đoàn đến cái chết ngoạn mục hơn Vinalines.
Ở Vinalines, đảng rút kinh nghiệm bổ nhiệm 2 ông
Dũng và Phúc độc lập nhau, đúng “thiết kế”, nhưng thiết kế lại sai ở chỗ làm
tổng giám đốc và chủ tịch HĐTV luôn luôn đối chọi nhau kịch liệt. Đó là chuyện
đã xảy ra ở Vinalines và đang xảy ra ở mọi doanh nghiệp nhà nước, làm chúng
không thể hoạt động hiệu quả. Bởi vì, chủ tịch HĐTV có “quyền” có thế nhưng
không có “lực”, còn tổng giám đốc thì có “lực” mạnh hơn nhưng lại vẫn phải theo
chỉ đạo của chủ tịch. Đó là một trong những lực cản cơ bản khiến các doanh
nghiệp nhà nước không bao giờ hoạt động thành công lâu dài và phát triển bền
vững được. Bao giờ cũng có kẻ này lấn lướt kẻ kia trong hoạt động (không đúng
thiết kế) hoặc hai bên căng nhau thì hoạt động kinh doanh càng bị ảnh hưởng
xấu…
Nhưng nếu chủ tịch và tổng giám đốc bắt tau nhau
“đoàn kết” thì sao? Thì… mỗi khu rừng sẽ có hai chúa sơn lâm, vui vẻ “chia nhau
sơn hà”, dân sẽ khổ hơn gấp đôi và nhà nước mất vốn nhanh gấp đôi…
Thứ hai, về chính sách, các doanh nghiệp nhà
nước được bảo hộ và ưu tiên mọi nguyền lực (tài chính, đất đai, các quyền ưu
tiên…) và được độc quyền “chức năng” trên thị trường. Các tập đoàn và tổng công
ty đầu nghành còn có chức năng quản lý chuyên môn ngành nữa – họ là những người
chấp bút viết ra các kế hoạch, chiến lược và chính sách cho cả ngành thay chính
phủ mà chính phủ chỉ việc thông qua rồi đưa vào thực hiện. Nghị định
49/2006/NĐ-CP là một ví dụ về khả năng thao túng chính sách của các tổng công
ty và tập đoàn nhà nước “đầu ngành”…
Nói chung các chính sách quản lý kinh tế các
ngành của nhà nước VN hiện nay đều do các doanh nghiệp nhà nước viết ra. Vấn đề
không chỉ là các chính sách đó chỉ có lợi cho họ, mà trước hết là các chính
sách đó chỉ có tầm nhìn của họ chứ không có tầm nhìn của cả quốc gia, vì lợi
ích lâu dài của cả nền kinh tế.
Thứ ba là về phương cách điều hành kinh doanh,
khi được cho tự do toàn quyền mở rộng kinh doanh bằng “vốn tự có”, hầu như tất
cả các tổng công ty và tập đoàn đều nhảy ra kinh doanh ngoài ngành của mình.
Vinashin thì lập các đội tàu và kinh doanh vận tải biển, còn Vinalines thì mở
nhà máy mới (nhập ụ nổi) để kinh doanh… đóng và sửa chữa tàu thuyền, và cả hai
đều sa lầy và chìm xuồng ở lĩnh vực mở rộng vốn không phải “sân nhà” của họ đó.
Tại sao vậy? Vì cả hai (hay mọi tập đoàn nhà
nước) đều luôn nói dối và nói quá lên với chính phủ về tương lai sáng lạn của
ngành mình để xin chính phủ cho đầu tư lớn, và khi đã được chính phủ cho vốn
đầu tư lớn rồi thì cả hai (hay tất cả) vốn đều biết ngành mình rất khó nhai (mà
đã giấu diếm không nói thật) nên để “bảo vệ’ vốn được giao thì tốt hơn là đầu
tư vào ngành “ngon ăn hơn” của bên kia... mà mình “biết là ngon”. Thế là có
ngay một vài thuyền trưởng láu cá và thất sủng của Vinalines được Vinashin
“trọng dụng” lập nên các “Vinashin-lines”, còn một vài giám đốc cơ hội và thất
thế của Vinashin được Vinalines “tin cậy” mời về để dựng lên các xưởng
“Vinaline-shin” cho các ông Bình, Dũng… tạo nên những bãi lầy tài chính, kinh
doanh (và đạo đức), làm các ông sẽ phải chết chìm và chết chùm trong đó.
Vậy nếu chính phủ không cho các doanh nghiệp nhà
nước đầu tư ra ngoài ngành nữa (như hiện nay) thì vấn đề đầu tư kém hiệu quả sẽ
được giải quyết? Không. Khi không được kinh doanh ra ngoài, lấn sân – tức là
không được “phình to ngang”, mà vẫn đang có vốn lớn để phải đầu tư đúng ngành,
các doanh nghiệp nhà nước sẽ… ”phình to dọc”. Phình dọc là khi các doanh nghiệp
đầu tư vào các dự án lớn đúng ngành nhưng họ biết chắc (và ai cũng biết) kiểu
gì cũng chết, đằng nào cũng sẽ lỗ - nhưng họ vẫn đầu tư!
Tại sao họ biết lỗ mà vẫn làm? Bởi vì ba lý do
chính sau: Cứ đầu tư là họ cơ hội rút ruột công trình chia nhau, lời lỗ tính
sau (lý do quan trọng nhất); Họ đã xin vốn (khống và vống lên), Nhà nước đã cho
vốn là họ phải đầu tư, nếu không kỳ sau họ sẽ không xin được vốn nữa! Và, đầu
tư là họ có công trình, có thành tích, tạo công việc cho nhân viên, các sếp dễ
thăng tiến cao hơn, còn kết quả đầu tư…tính sau!
Ví dụ cho kiểu “phình dọc” bất chấp hiệu quả này
là các công trình thủy điện của EVN, các nhà máy chế tạo nhiên liệu sinh học ở
Bình Phước, Phú thọ… của PV Oil (PetroVietnam), lọc dầu Bỉm Sơn, Thanh hóa
(PVN)… và vô số các “công trình” khác của các tổng công ty tập đoàn kinh tế nhà
nước.
“Phình dọc” cũng sẽ dẫn các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước đến những cái chết kinh tế lớn, nhưng chúng khó bị phát hiện từ
ngoài hơn, vì thế càng nguy hiểm hơn khi chúng tích tụ và bùng phát.
Thứ tư là về quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh
vốn nhà nước. Chính phủ giao vốn và tài sản lớn của Nhà nước cho các doanh
nghiệp nhà nước mà không có một chế tài nào cụ thể về trách nhiệm của đối với
những người “đại diện nhà nước” về quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh vốn nhà
nước đó, ngoài hy vọng vào đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp họ sẽ bảo toàn
vốn. Thật quá vô cùng dễ dãi! Đại đa số người được giao tài sản lớn “của nhà
nước” như thế đều dần dần tự coi mình như chủ, cảm thấy mình là chính chủ sở
hữu. Và thế là đảng đã “đẩy” họ ra sức… sở hữu tài sản được giao “đại diện”!
Chỉ đến khi doanh nghiệp sụp đổ, vốn và tài sản nhà nước đã tiêu tan hết, đã bị
“đại diện sở hữu” sở hữu hết, như Vinashin hay Vinalines, thì nhà nước mới can
thiệp thì đã quá muộn. Nhưng nếu nhà nước ngồi vào kiểm tra công việc hàng ngày
thì không thể làm được, và doanh nghiệp thì mất tự chủ, tự do, sáng tạo…
Gần đây, một số doanh nghiệp nhà nước đưa ra
sáng kiến quản lý: nếu doanh nghiệp lỗ 2 năm thì giám đốc sẽ bị cách chức. Thế
có giải quyết được vấn đề quản lý hiệu quả doanh nghiệp không? Không. Vì mọi
doanh nghiệp trong mọi nghành đều có chu kỳ thăng trầm: vài năm phát triển và
năm khó khăn, các giám đốc đều biết điều đó và nếu gặp năm khó khăn thì họ sẽ
báo cáo láo rằng vẫn lãi chút chút để được “qua đò”, và khi gặp những năm phát
triển tốt thì họ cũng vẫn báo cáo “chỉ lãi chút chút” để dự phòng hay bù lại
cho những năm khó khăn…
Không cần dọa cách chức thì hiện nay đại đa số
giám đốc các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang làm thế rồi. Và cái phần lãi thực
nhưng “để dự phòng cho khi khó khăn” nên không được báo cáo đó thì ai quản và
quản thế nào? Điều đó là nguyên nhân phổ biến bắt đầu cho mọi tham nhũng, mà
tham nhũng là khởi điểm và kết thúc của phá sản doanh nghiệp.
Đó là nững con đường tất yếu mà các doanh nghiệp
nhà nước, cách này hay cách khác, đều sẽ phải đí qua, vì chúng được sinh ra với
“bản năng” như vậy - để đến kết cục không thể tránh: phá sản, như Vinashin hay
Vinalines hay v.v… và v.v…
Vậy vấn đề nằm ở đâu và làm sao tranh điều đó?
Vấn đề nằm ở cấu trúc tổ và chức quản lý quái
thai của các công ty nhà nước, với các “cải tiến” như trên từ mô hình doanh
nghiệp của tư bản – công ty hay corporate body.
Chỉ có thể tránh kết cục phá sản của nền kinh tế
với những cái chết kiểu Vinashin, Vinaline… bằng cách xóa bỏ các công ty nhà
nước theo mô hình công ty XHCN quái thai như trên, và thay hoàn toàn bằng các
công ty tư nhân và công ty cổ phần (qua cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước)
– các "corporate bodies".
Tất nhiên, đảng và nhà nước ta không thể làm
thế, vì họ không thể để mất “định hướng XHCN”, cho dù điều đó mang lại sự thịnh
vượng của cả dân tộc – trong đó có họ. Với đảng CSVN, quyền lợi của họ cao hơn
quyền lợi dân tộc.
Chỉ còn một khả năng: đảng sẽ cố giữ các doanh
nghiệp nhà nước như thế, và chúng sẽ lần lượt hay cùng nhau chết thảm như
Vinashin, Vinalines và đảng tất nhiên cũng rã đám theo, nhưng các cán bộ đảng
thì đã thành tư bản đỏ rồi.
Chỉ có nhân dân là luôn phải trả giá đau đớn
nhất trong cái chết tất yếu của nền kinh tế “định hướng” đó. Vấn đề là, nếu đã
biết vậy thì nhân dân có sẽ để cho đảng làm vậy với dân không?
Tôi tin rằng: không.
(Còn tiếp)
_________________________________
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã đọc và cho Ý kiến.